Nhã Ca, một xuất hiện rực rỡ của văn học miền Nam,
Nói tới bối cảnh của hai mươi năm văn học, nghệ thuật miền Nam, người ta không thể không ghi nhận sự hiện diện có tính cách khởi công, vỡ đất của những tạp chí văn học. Mặc dù không phải tạp chí nào, xuất hiện trong khoảng thời gian từ phôi thai, tức trước điểm mốc 1960 tới giai doạn chín mùi, sung mãn sau 1960 cũng đều có những đóng góp tích cực cho nỗ lực thay da, đổi thịt của dòng văn học này.
Tuy thế, người ta vẫn cần ghi lại những diễn đàn văn học chính trong giai đoạn vừa kể. Như tạp chí Sáng Tạo, ra đời năm 1956; Bách Khoa, 1957; Hiện Đại, đầu năm 1960; Thế Kỷ 20, giữa 1960 và, Văn Nghệ 1961…
Ở hai thời điểm trước và sau 1960, một số người cho rằng, chúng ta cũng không nên gạt bỏ phần đóng góp của hai đài phát thanh chính là Đài Phát Thanh Quốc Gia, tức Đài Phát Thanh Saigòn, và đài Quân Đội. Hai cơ quan truyền thông này không chỉ là nỗ lực chính đưa dòng tân nhạc của miền Nam tới với quảng đại quần chúng, mà còn góp phần quảng bá sáng tác thơ văn của một số nhà thơ nhà văn miền nam nữa.
Ở đài phát thanh Saigòn, ngoài chương trình Tao Đàn nổi tiếng của cố thi sĩ Đinh Hùng, những nhà văn, nhà thơ như Mai Thảo, Nguyễn Đình Toàn, Phan Lạc Phúc, Trần Dạ Từ… hàng tuần cũng có những chương trình phát thanh nhằm giới thiệu sinh hoạt văn nghệ và, sáng tác mới của bằng hữu.
Tôi gọi giai đoạn đầu từ 1955 tới 1960 là giai đoạn khởi công, vỡ đất mà tiêu biểu là tạp chí Sáng Tạo. Tạp chí cổ suý dòng văn chương mới. Một dòng văn chương chủ trương đoạn tuyệt hẳn dòng văn chương tiền chiến.
Nhưng ngoài những lời lẽ, đi kèm những lên tiếng chung một cách mạnh mẽ, của những thành viên nhóm Sáng Tạo, người đọc vẫn không thấy nhóm này đưa ra những tiêu chí, hay những chuẩn mực để có được sự phân biệt cụ thể giữa “văn chương tiền chiến” và “văn chương hôm nay” (theo cách gọi của nhóm Sáng Tạo.)
Nhóm Sáng Tạo không vạch rõ đâu là đặc tính của dòng nền văn chương cũ và, đâu là đặc tính của dòng văn chương mới.
Về văn xuôi, ngoài một Mai Thảo làm mới hình thức câu văn, bằng chủ tâm không đặt nặng nhu cầu tuân thủ văn phạm như vai trò chủ từ, động từ, bổ túc từ một mệnh đề, mà ông lại chú trọng tới phần hình ảnh, sử dụng nhiều tính từ để tạo làm thành một câu văn óng ả, đối xứng, nhịp nhàng… Nó có thể chảy dài lướt thướt hay ngắn ngủn. Cách viết của ông, sớm được một số người trẻ bắt chước.
Trong khi nhà văn Doãn Quốc Sỹ, một trụ cột khác của nhóm Sáng Tạo vẫn trung thành với lối viết cũ. Truyện của ông vẫn được xây dựng trên những yếu tố căn bản như cốt truyện, tâm lý nhân vật. Thí dụ truyện dài “Dòng Sông Định Mệnh.”
Người thực sự bước cả hai chân vào thế giới văn chương mới lại là họa sĩ Duy Thanh với những truyện ngắn của ông. Mặc dù nỗ lực của ông không được dư luận thời đó chú ý đúng mức.
Về thơ, ngoài những bài thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền, những tác giả khác vẫn tiếp tục dòng thơ tiền chiến hiểu theo nghĩa vẫn áp dụng âm luật một cách chặt chẽ, vững chắc cho những bài thơ bảy, tám hay, năm chữ của họ. Điển hình như đa số thơ của Tô Thùy Yên.
Ngay cả những bài thơ lục bát của Cung Trầm Tưởng, từng gây xôn xao văn giới một thời, khi ông đem nhiều hình ảnh đậm tính chất tây phương vào thơ. Nhưng lục bát Cung Trầm Tưởng vẫn tạo dựng trên nhịp chẵn hay nhịp đều và, căn bản là khai triển, đi nốt con đường lục bát do Huy Cận, Hồ Dzếnh khai phá từ thập 1940.
Đó là khuynh hướng đoạn tuyệt loại lục bát được dùng như một phương tiện kể chuyện dễ dàng nhất. Hoặc hình thức chuyển tải tâm sự riêng của tác giả, dễ tìm được sự đồng cảm nơi người đọc.
Lục bát thời Huy Cận, Hồ Dzếnh là loại lục bất tiêu trừ chủ thể “tôi”. Chí ít cũng đẩy lui chủ thể “tôi” xuống hàng thứ yếu - - Để tự thân hình ảnh, ngôn ngữ, không gian của bài thơ chiếm giữ ngôi vị hàng đầu. Tự thân bài thơ là xương sống, là máu huyết, là sức sống rực rỡ, chói lòa của chính nó.
Sự xuất hiện của lục bát Cung Trầm Tưởng trên Sáng Tạo, từng được cố nhà văn Mai Thảo gọi một cách thân yêu là “Bà Huyện Thanh Quan… Mới”!
Chưa một lần tôi hỏi tác giả “Đêm Giã Từ Hà Nội” nguyên nhân sâu xa của ví von này. Nhưng hiển nhiên, theo tôi, khó có thể có một biểu lộ nào khác về lòng yêu mến lục bát Cung Trầm Tưởng nồng nàn hơn thế.
Tới đây, tôi cũng thấy cần ghi lại một sự kiện mang tính văn học miền Nam, 20 năm. Đó là sự xuất hiện của dòng thơ Nguyên Sa, từ đầu mùa Sáng Tạo.
Tiếc rằng, sự cộng tác của tác giả này, với Sáng Tạo không được dài lâu vì sự ngộ nhận hay xung khắc giữa Nguyên Sa và Thanh Tâm Tuyền. (Tương lai, có thể tôi sẽ có một bài viết riêng về ngộ nhận đáng tiếc giữa hai nhà thơ tên tuổi đó.)
Ngay tự những số đầu tiên của Sáng Tạo, thơ Nguyên Sa dù là thơ vần điệu, thơ tự do hay, thơ xuôi, đã như cơn địa chấn, có sức quyến rũ dữ dội, đẩy xô những người làm thơ đang/ còn ngập ngừng, e ngại trước phong trào thơ Tự Do, lao mình vào phong trào thơ tự do với niềm tin và, lòng hăm hở phơi phới.
Thí dụ “Tiễn biệt” một trong những bài thơ của Nguyên Sa, in trong Sáng tạo, có những câu như:
“… Sao người không đi vào không gian trong - Bức tường vô hình nên bức tường dầy mênh mông – Và sao lòng tôi không là vô tận – Cho gặp gỡ những đường tàu đi song song…” (1)
Hay bài “Paris”, hình dung những phản ứng của tác giả, sau khi rời bỏ nơi chốn này. Ông viết:
“… và có lẽ tôi sẽ kể chuyện paris - để khói thuốc xám trên môi dăm người bạn – và trên môi tôi - điếu thuốc sẽ run trên những đường cong lận đận – điếu thuốc sẽ run như chân người vũ nữ vừa quen – đôi chân người mà tôi không dám nhớ cũng không dám quên – còn quay đảo giữa điệu nhạc mềm như khói thuốc…” (1)
Hay bài “Tôi Sẽ Sang Thăm Em”:
“Tôi sẽ sang thăm em - Để những mớ tóc màu củi chưa đun - Màu gỗ chưa ai ghép làm thuyền – Lùa vào nhau nhóm lửa…” (1)
Hoặc nữa, một bài thơ xuôi nhan đề “Mời”:
“… Tôi mời em vứt bỏ lại đàng sau những kinh thành buồn bã với phong tục, thói lề, bạc vàng giả dối: muốn làm người yêu thì phải đỗ tú tài.
“Tôi muốn mời em đi ngay. Không cần lấy vé. Không phải đợi chờ vì điều kiện du hành là những ngón tay lồng vào nhau và tâm hồn đơn chiếc.
“Còn nếu cần thì tôi sẽ làm người bán vé. Nhưng tôi sẽ không quên làm người đồng hành duy nhất để đưa em đi. Và tôi sẽ làm người lái tàu để không ai được dự phần vào câu chuyện đôi ta…” (1)
Đó là một số bài thơ Nguyên Sa, xuất hiện trên Sáng Tạo. Lùi lại thời điểm trước 1960, tôi chưa thấy ai đem vào trong thơ, những hình ảnh, những liên tưởng, ẩn dụ… như thế.
Một số người có thể không thích thơ Nguyên Sa, vì nó không đáp ứng được những thắc mắc, những đòi hỏi siêu hình; hoặc vì thơ Nguyên Sa không thỏa mãn những tư duy triết lý trầm trọng của họ. Nhưng khó ai có thể phủ nhận những cái mới của thơ Nguyên Sa.
Trở lại với nhóm Sáng Tạo (không có Nguyên Sa,) sự kiện trên diễn đàn này đã có cùng lúc hai dòng chảy cũ và mới. Tôi cho, cũng dễ hiểu. Thời gian đó, đa phần các nhà văn, nhà thơ của miền Nam vẫn tiếp tục đi tiếp con đường của dòng văn chương tiền chiến. Khác chăng, họ đào sâu hơn, tâm lý nhân vật. Những bối cảnh xã hội cũng mở rộng hơn và, không nhất thiết phải quy kết, tập chú vào một chủ đề. Chẳng hạn chủ đề giầu nghèo, chủ đề đả phá nếp phong kiến, ao tù hủ tục v.v…
Nói cách khác, ngay trên diễn đàn Sáng Tạo và, qua những bài lai cảo, được chọn đăng, người đọc thấy dường có song song, hai dòng chảy: Dòng thơ văn nỗ lực hướng về cái mới và, dòng thơ văn tiền chiến nối tiếp.
Với những nhận định trên, tôi muốn được gọi giai đoạn này là giai đoạn “dò đường” hay “mở đường”.
Phải đợi tới đầu thập niên 1960, khi lớp người mới, những cây bút sung mãn khát khao đi tới, thực sự nhập cuộc, lúc đó dòng văn chương miền Nam mới thực sự tách thoát và, từ đó, định hình.
Đó là giai đoạn xuất hiện những tên tuổi như Dương Nghiễm Mậu, Quách Thoại, Nguyễn Đình Toàn, Trần Dạ Từ, Mai Trung Tĩnh, Đỗ Quý Toàn, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn,) Viên Linh, Nguyễn Xuân Hoàng, Diễm Châu v.v.… Hàng ngũ đông đảo những cây bút tiêu biểu này, dứt khoát tiến về phía trước, đã giúp cho con tầu văn học, nghệ thuật miền Nam vừa rời bến, còn dùng giằng, lưu luyến bờ cũ, thẳng ra biển khơi.
Trong bối cảnh này, thơ Trần Thy Nhã Ca xuất hiện.
Nhã Ca, khả bật sáng những ngọn đèn tâm thức soi thấu đáy tầng vô thức.
Với bút hiệu Trần Thy Nhã Ca, thơ Nhã Ca xuất hiện lần đầu trên tạp chí Hiện Đại, số ra mắt, của nhà thơ Nguyên Sa chủ trương. Cũng ở số ra mắt đó, tác giả “Áo Lụa Hà Đông” đã dành cho thơ Trần Thy Nhã Ca vị trí trang trọng nhất.
Người đọc cũng như một số anh chị em văn giới thuở đó, xao xác hỏi nhau:
“Trần Thy Nhã Ca là ai?
“Ai là Trần Thy Nhã Ca?”
Những câu hỏi được cất lên nhiều thêm nữa, khi những bài thơ kế tiếp của bà, càng lúc càng dội vang xa hơn.
Nhà thơ Thành Tôn, người hiện có trong tay tạp chí Hiện Đại số 1, cho biết, ba bài thơ đầu tiên của Trần Thy Nhã Ca là: “Bài Nhã Ca thứ nhất”, “Ngày tháng trôi đi” và, “Thanh xuân.”
“Bài Nhã Ca Thứ Nhất” là một bài thơ 4 chữ, có những đoạn như:
Tôi làm con gái
Buồn như lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày
Tôi làm con gái
Một lần yêu người
Một lần mãi mãi
Bao giờ cho nguôi
Tôi làm con gái
Bao nhiêu tuổi đời
Bấy lần thơ dại
Buồn không ai hay. (2)
“Ngày Tháng Trôi Đi” là một bài thơ 7 chữ:
Ngày cũng vừa xanh dáng tịch liêu
Đường xa sầu tiếp với mây chiều
Bày chim én cũ qua thành phố
Về gọi thời gian vỗ cánh theo
Thôi trả cho giòng sông tối đen
Trả cho người đó nỗi ưu phiền
Còn đây chút tủi hờn thơ dại
Rồi cũng xa vời trong lãng quên
Mắt dõi theo vừa ngút bóng cây
Đời chia dăm bảy dấu chân bày
Tôi hồn vẫn đứng im như tượng
Trông tháng ngày đi trên cánh tay. (Trọn bài.) (2)
Và đây, trích đoạn bài “Thanh Xuân”:
Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây
Người đi chưa dạt dấu chân bày
Bày tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ cây
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười
Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh em cũng tợ sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ.” (2)
Tính tới đầu đầu thập niên 1960, trong sinh hoạt văn học miền Nam, chúng ta có rất ít nhà thơ nữ. Đã thế, họ lại thường không nói về phía khuất lấp của thân, tâm mình.
Tình yêu, nếu được họ đề cập đến, dẫu thừa thãi những tính từ chỉ tính chất cô đơn, sầu muộn, hoặc những hình ảnh lãng mạn đã sáo mòn thì, chúng cũng vẫn giống như thể họ đang nói xa xôi, mơ hồ, quanh co về một phần số hẩm hiu, một thất lỡ, vay mượn chuyện tình từ một nữ lưu nào đó, trong đời thường!
Trần Thy Nhã Ca không vậy! Thơ bà xuất hiện, như tiếng nổ lớn của một khối thuốc nổ TNT.
Ngay tự những dòng thứ nhất của bài thơ thứ nhất, tác giả đã tự giới thiệu, không chỉ giới tính mà còn là “tiểu sử” đời mình một cách trực khởi. Tự tin. Không mặc cảm:
“Tôi làm con gái
Bao nhiêu tuổi đời
Bấy lần thơ dại
Buồn không ai hay.”
Với số chữ ít oi của thể thơ 4 chữ (bằng nửa số chữ thể thơ 8 chữ,) nhưng mỗi con chữ trong đoạn thơ tôi vừa lập lại của Trần Thy Nhã Ca lại có khả năng tự bào phân ở cấp số nhân, để cái hình hữu hạn này khơi dẫn tới tượng mênh mang của những chân trời nắng, gió lênh đênh cảm thức hiu quạnh, mới.
Cũng thế, ở bài thơ thứ hai, trừ một hai câu mang âm hưởng thơ Huy Cận (như câu “đường xa sầu tiếp với mây chiều”,) thấp thoáng trong bài thơ là những nhát chém không hình tích của những lát dao chữ nghĩa và, hình ảnh xẻ dọc toàn cảnh:
“Bày chim én cũ qua thành phố
Về gọi thời gian vỗ cánh theo”.
Hoặc:
“Tôi hồn vẫn đứng im như tượng
trông tháng ngày đi trên cánh tay”…
Với tôi, là những cánh cửa hé mở cho thi ca miền Nam thời kỳ đó, một chân trời khác.
Bước vào bài thứ ba, bài cuối cùng trong loạt bài đầu tiên của Trần Thy Nhã Ca, với những câu như:
“Bàn tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ cây.”
Hoặc phỏng, rát hơn với hai câu mà, mỗi chữ tựa một hòn than vừa bén lửa:
“Khi về tay nhỏ che trời rét
nghe giá băng mòn hết tuổi thơ”.
Với tôi, chừng đó ngôn ngữ, chừng đó hình ảnh và sự điêu luyện trong nghệ thuật diễn tả, đã đủ khẳng định, đủ định hình chỗ đứng của tài hoa thi ca này.
Tôi không biết trước khi có cho mình bút hiệu Trần Thy Nhã Ca, tác giả đã có cho mình bao nhiêu bút hiệu?
Tôi cũng không biết tác giả làm quen với thi ca từ năm nào? Bao nhiêu tuổi ? (3)
Chỉ biết tôi đã lặng, điếng như một nạn nhân bất lực, chới với giữa hai đối cực:
Cực tiểu là hình ảnh bàn tay quá mức nhỏ bé của con người, theo phản ứng tự nhiên, tuyệt vọng như chống trả cái cực đại là thời tiết (cái rét,) hay thiên nhiên.
Với 14 chữ, Trần Thy Nhã Ca tự thú (một cách buồn bã,) bản chất “con tin”, tính thất lạc của thân phận con người trước thiên nhiên, trong dòng chảy thời gian, bất tận.
Tôi vẫn cho rằng, thời tiết (hay thiên nhiên,) nơi chốn… tự nó vốn trung tính, hoặc vô ký. Nếu chúng có mang một linh hồn, một ý nghĩa nào đó, thì phần linh hồn, phần ý nghĩa kia, do con người, do chúng ta mặc, khoác cho chúng.
Từ đó, với tôi, cái rét (thời tiết) trong thơ Trần Thy Nhã Ca, không chỉ là một ẩn dụ (metaphor) hay một hoán dụ (metonymy) cho một trạng thái tình yêu mà, nó còn là một thực chứng bơ vơ, thất lạc của bà trước thiên nhiên.
Nói cách khác, đó là thân phận không thể chối bỏ của định phận người nữ, với kết cuộc vốn là bôi xoá, lãng quên trong dòng chảy nhân quần!
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ dễ dàng hơn, có được cho mình câu trả lời:
- Tại sao thơ Nhã Ca, lại đầy rẫy những đối kháng dữ-dội-buồn-thảm, khi bà luôn tự nói về mình, như một sinh vật có khả năng bật sáng những ngọn đèn tâm thức nghìn nến, để soi thấu đáy tầng vô thức thân phận mình?
Những bài thơ kế tiếp của Trần Thy Nhã Ca, càng thêm xác tín cho sự hiện hiện rực rỡ của bà trong dòng văn học 20 nam miền Nam Việt Nam. Chúng mở ra và, đi đến những chân trời chưa một người làm thơ nữ nào thời đó, bước tới.
Một trong những bài thơ kế tiếp của Trần Thy Nhã Ca được nhiều người nói tới, là bài “Tiếng Chuông Thiên Mụ”. Bài thơ ghi lại “biến cố” bà bỏ nhà ra đi năm bà mới 19 tuổi.
Có người cho rằng, thơ Nhã Ca mà bài “Tiếng chuông Thiên Mụ” là một thí dụ; ra đời trong bối cảnh miền nam Việt Nam thập niên 1960 đã được “giải phóng”, không còn bị truyền thống đạo lý, xã hội khắt khe cấm kỵ. (Vì thế) bà mới dám mạnh mẽ tự chọn tình yêu, chọn sống cuộc đời cho riêng mình…
Nhận định này, tuy chỉ để đưa tới những ngợi ca sự can đảm của Trần Thy Nhã Ca; Nhưng với tôi, nó lại không chỉ là một nhận định hời hợt vì chưa hay, không hề đọc kỹ thơ Nhã Ca mà nó còn làm giảm rất nhiều tính cương cường, lẫm liệt, đối đầu xã hội và, luôn cả những nghĩ lại chua chát, thất vọng, ê chề…trong đôi phút nào đó, nơi thẳm sâu tâm hồn người nữ, thi sĩ này nữa.
Bài thơ vừa kể, mở vào bằng những câu vẫn mang tính tự giới thiệu (hay tự khẳng định) thân thế mình:
“Tôi lớn lên bên này sông Hương – Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ - Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ - Cửa từ bi vồn vã bước chân sông – Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng – Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn - Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn - Những sáng chim chiều dế canh gà - Tiếng chuông buồn vui dợn thấu trong da – Người với chuông như chiều với tối.”
Từ bối cảnh “Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ” với “Cửa từ bi vồn vã bước chân sông”, bà đi tới một chọn lựa gây ái ngại hay hoảng hốt, lo lắng cho bất cứ bậc phụ huynh nào, thậm chí, cả những người trẻ, ở tuổi bà, thuở ấy nữa.
Nhưng với bà thì, dường như đó là sự chấp nhận một hò hẹn bất trắc với trăm năm hay, một thách đố với định mệnh:
“Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi – Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông - Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn - Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy - Tiếng chuông đến chỉ một mình tôi thấy - Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan - Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em - Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền - Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố.”
Và đây là phần ê chề, thất vọng của tác giả, như tôi mới viết ở trên:
“Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời - Đổi họ thay tên viết văn làm báo - Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo - Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư - Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sa mù - Giòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục - Con đường cũ nghe trong hồn cỏ mọc - Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da (…) Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay - Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay - Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ - Cho con trở về đứng mê sảng ngó.” (2)
Nhưng với tôi, hai câu thơ trong bài “Bài Tháng Sáu”, không được nhiều người nhắc “Tôi đã biết tội thân làm con gái - Đời không thương tất cả héo khô dần” (2) - - Mới thực sự cho thấy tài năng ngoại khổ của tiếng thơ này.
Tôi không nghĩ khi viết xuống hai câu thơ trên, Trần Thy Nhã Ca muốn khai triển hoặc, ứng dụng cái tương quan hữu cơ giữa tâm và, sinh lý.
Tôi cũng không nghĩ một nhà thơ phái nam, dù tài hoa nhất mực, có thể cảm nghiệm được sự héo hon, đưa lần tới héo khô những cơ phận trên thân thể người nữ! Một khi nâng niu, thương yêu, ân cần rời bỏ họ. Như những con sóng cấp bảy, cấp tám thình lình rút xa, rất xa bờ cát.
Cảm thức bị lãng quên, bị vất lại, bị bỏ xó… luôn là cảm thức sâu kín, trầm trọng nhất của bản năng người nữ. Nó thường dẫn dắt thân, tâm người nữ tới những kết luận hay chọn lựa cực đoan. Tận. Tuyệt.
Tôi nghĩ, bà viết như một thốt kêu tự nhiên, của con chim thương tích. Lẻ bạn.
Tôi cho, đó là một thứ cảm-tính-chỉ-riêng-thi-sĩ.
Và, vì thế, câu thơ lớn lao. Nó như ngọn núi sừng sững (nhiều phần chênh vênh,) giữa biển khơi và, vực thẳm.
Du Tử Lê
________
Chú thích:
(1)Theo “Thơ Nguyên Sa Toàn Tập”, (Tập 1). Đời Xb. California, 2000.
(2) Theo “Nhã Ca Thơ” Vietbook, USA, Calif. xuất bản, 1999.
(3) Gần đây, khi sưu tầm tài liệu cho bài viết của mình, tôi tình cờ đọc được một trích dẫn, ghi lại lời kể của Nhã Ca. Bà cho biết, với bút hiệu khác, bà đã cho đăng thơ, văn rất sớm, trên tờ Văn Nghệ Học Sinh của Lê Bá Thảng, khoảng giữa thập niên 1950.
Khi đó, nhà thơ Trần Dạ Từ, người bạn đời của bà sau này, phụ trách phần bài vở.