Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
Bên cạnh đó, do hoàn cảnh chính trị, Saigòn, thủ đô của miền nam Việt Nam còn có thêm hai yếu tố quan trọng khác, để có tỷ lệ văn nghệ sĩ cao tới mức Saigòn cũng còn được coi là thủ đô văn học của miền Nam nữa.
Hai yếu tố quan trọng đó là:
Thứ nhất, Trong số hơn 1 triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam, văn nghệ và trí thức miền Bắc chiếm một con số không nhỏ và, họ không bảo nhau, nhưng cùng chọn Saigòn làm địa bàn dựng lại cuộc đời. Tựa như họ không thể có cho mình một chọn lựa nào khác. Chẻ sâu hơn nữa vào con số này, người ta lại thấy thành phần giáo chức hoặc sinh viên đại học, sau ít năm, chọn ngành giáo dục là một con số đáng kể.
Thứ nhì, quá nửa thời gian tồn tại của thể chế tự do ở miền Nam, nổi, chìm trong binh biến, chiến tranh. Vì nhu cầu sinh tồn, chế độ quân dịch qua các quân trường lớn, nhỏ đã “tận hiến” không biết bao nhiêu thanh niên, sinh viên, những tài năng trẻ, những tương lai ngời sáng của tất cả mọi ngành, nghề…
Trong hoàn cảnh đó, với ưu tiên theo quy định, thành phần nhà giáo được hưởng quy chế miễn quân dịch hay động viên tại chỗ. Nên số giáo chức ít bị chi phối bởi thời cuộc, chiến tranh, kinh tế đã bước vào sân chơi văn học nghệ thuật, cũng có một tỷ lệ cao hơn những thành phần xã hội khác.
Và, đa số cũng chọn Saigòn làm đất dung thân.
Tuy nhiên ngành giáo chức có chiếm một tỷ lệ tương đối cao trong sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Nam, nhưng điều đó không có nghĩa bất cứ nhà văn nào, xuất thân từ nghề giáo, đều thành công!
Trong những nhà giáo cầm bút thành công không nhiều lắm ấy, có nhà giáo Nguyễn Xuân Hoàng.
Nguyễn Xuân Hoàng sinh năm 1940 tại Khánh Hòa. Thuở nhỏ, học tại trường Võ Tánh Nha Trang, khi lên trung học đệ nhị cấp, ông học trường Petrus Ký Sài gòn. Xong trung học, ông ghi tên học tại đại học Khoa Học, trước khi thi vào trường vào Quốc Gia Hành Chánh… Để rồi cuối cùng ông lại theo học Đại học Sư Phạm Đà Lạt, ban Triết. “Chỉ vì thích thành phố sương mù này,” ông nói.
Sau khi tốt nghiệp khoa Triết đại học Sư Phạm Đà Lạt, ông được bổ về trường Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, dạy Triết. Một năm sau, thuyên chuyển về trường Petrus Ký, ông phụ trách môn Triết các lớp Đệ Nhất ở đây từ 1963 đến tháng 4, 1975.
Thời gian dạy ở Petrus Ký cũng là thời gian họ Nguyễn được nhiều tư thục mời dạy thêm về môn triết, như các trường Trường Sơn của Nguyễn Sỹ Tế, Văn Học của Nguyên Sa Trần Bích Lan, Lê Bảo Tịnh của LM Thanh Lãng v.v…
Năm 1972, khi nhà văn Trần Phong Giao ngưng hợp tác với tạp chí Văn trong vai trò Thư ký Tòa soạn, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng được mời thay thế.
Đây cũng là thời gian nhà văn Mai Thảo thay thế họa sĩ Duy Thanh điều hành tạp chí Vấn Đề. Khi đó, tờ Vấn Đề đã dời tòa soạn từ đại học Vạn Hạnh về cùng một địa chỉ với tạp chí Văn, ở địa chỉ 38 Phạm Ngũ lão, Saigòn.
Nguyễn Xuân Hoàng cho biết vì tòa soạn tạp chí Vấn Đề ở trên lầu, tòa soạn Văn ở dưới đất, nên hàng ngày, nhà văn Mai Thảo phải tới địa chỉ này, để lo cho tờ Vấn Đề, cũng như viết feuilleton (tiểu thuyết viết từng ngày) cho các nhật báo ở Saigòn.
Sau khi chủ nhiệm tạp chí Văn, ông Nguyễn Đình Vượng từ trần, người con gái tên Tuấn thay cha quán xuyến tờ báo.
Thời điểm này, cũng là thời điểm nhà giáo Nguyễn Xuân Hoàng phải trở lại dạy toàn thời gian cho các trường Petrus Ký, Trường Sơn, Văn Học, Lê Bảo Tịnh v.v…
Nên thể theo lời yêu cầu của cô Tuấn, nhà văn Mai Thảo một mình cáng đáng toàn bộ bài vở cho Văn.
Hành trình của một nhà giáo trở thành nhà văn nổi tiếng Nguyễn Xuân Hoàng, theo ghi nhận chung của văn giới thời đó là một hành trình êm đềm, nhẹ nhàng, không gập ghềnh, không khúc khuỷu hay bầm dập như những nhà văn bị động viên vào quân đội.
Một trong những nhà văn bị động viên, còn sống sót sau cuộc chiến 20 năm và trên dưới 10 năm tù cải tạo là nhà văn Trần Hoài Thư, đã nhiều lần lên tiếng về những khó khăn vật chất cũng như tinh thần của lớp nhà văn mặc áo lính. Trong một bức thư dài gửi cho nhà văn Trần Phong Giao, khi họ Trần còn giữ vai trò Thư ký tòa soạn tạp chí Văn, và nhiều bài viết khác, tác giả “Nỗi bơ vơ của bày ngựa hoang” (1) đã cay đắng biếm nhẽ những nhà văn thành phố (Saigòn.) Nhà văn phòng trà, vũ trường…!
Mà, oan nghiệt thay, vẫn theo tác giả “Những vì sao vĩnh biệt” (2) thì những nhà văn thành phố đó lại là những “phán quan” có toàn quyền quyết định “sinh mạng những đứa con tinh thần” của những cây bút ngày, đêm đưa thân làm bia cho những hòn tên mũi đạn vô tình…
Không phải tất cả mọi người đều đồng tình với những lên tiếng có lẽ duy nhất, (tính tới hôm nay) của nhà nhà Trần Hoài Thư, nhưng ít nhiều gì, một cách công bằng, người ta không thể không nhìn nhận những phát biểu của nhà văn này có cơ sở hiện thực và, nó cũng là một trong những nét đặc thù của 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam vậy.
Trở lại với hành trình văn chương của Nguyễn Xuân Hoàng, người ta được biết, họ Nguyễn đã khởi nghiệp với những sáng tác được đăng tải trên các tạp chí như Hiện Đại, rồi Mai, Văn Học trước khi bước tới những tạp chí thời danh khác, tác phẩm đầu tay của họ Hoàng, được xuất bản rất sớm: Năm 1966. tập truyện “Mù Sương”. Do nhà Thời Mới của Võ Phiến ấn hành.
Nếu chỉ tính tới tháng 4-1975 mà thôi thì, Nguyễn Xuân Hoàng đã có tất cả 7 tác phẩm đã in thành sách.
Hai tác phẩm được nhắc nhở nhiều nhất là tập truyện “Sinh nhật” và “Kẻ tà đạo” tiểu thuyết.
Sau đó, kể từ khi định cư tại Hoa Kỳ năm 1985, họ Nguyễn cũng đã gửi tới những độc giả của ông thêm 4 tác phẩm mới. Gồm:
Bộ tiểu thuyết 2 cuốn nhan đề, “Người Đi Trên Mây” được ghi nhận có nhiều phần “thịt xương” Nguyễn Xuân Hoàng nhất. Cũng giống như tiểu thuyết “Sa mạc” của ông, bộ truyện “Người đi trên mây” là một thứ tự sự kể…
Nguyễn Xuân Hoàng được nhiều người biết tới như một nhà văn. Nhưng có thể cũng không ít người ngạc nhiên khi biết, sáng tác đầu tay của ông, được phổ biến tới công chúng, lại là…thơ. Đó là hai bài thơ được đăng tải trên tạp chí Hiện Đại của thi sĩ Nguyên Sa từ những năm đầu thập niên 1960:
Mang mang
từ xa phố chợ đến giờ
chân quen bỏ lệ gõ bờ lộ quen
hoang vu chín đến độ thèm
lạnh tàn nhẫn rót vào đêm lên đường
mù sương phố núi mù sương
nhịp buồn hút gió hồn nương sao rừng
chuyện linh hồn với bản thân
bàn tay thượng đế mộ phần chiêm bao
Dalat Hè 1958*
Giã biệt
tiếng trống trường đầy, ly rượu đầy
khói thuốc lên mờ đôi mắt ai
em là thần tượng vừa sụp đổ
bỏ lại lòng tôi những đắng cay
thôi còn gì đâu cầm lấy tay tôi
thôi còn gì đâu cầm lấy hồn tôi
này đây những lời đau thương thứ nhất
chia nhau mỗi người làm vốn sinh nhai.
Dalat Hè 1958
Vẫn theo họ Nguyễn thì, mặc dù tập truyện đầu tay “Mù sương” của ông, do nhà Thời Mới của Võ Phiến ấn hành năm 1966; nhưng ở thời điểm đó, Nguyễn Xuân Hoàng viết nhiều cho tạp chí Văn Học của Phan Kim Thịnh, mà người phụ trách bài vở là nhà văn Dương Kiền (3,) chứ không hề là tạp chí Bách Khoa.
Bước vào cõi giới văn chương của họ Nguyễn, ghi nhận theo tôi, đáng nói ở điểm: Tuy là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam từ những năm cuối thập niên 60, nhưng Nguyễn Xuân Hoàng lại là nhà văn có ít tác phẩm nhất, so với những người cùng thời hoặc xuất hiện sau ông một vài năm, như Nguyễn Mộng Giác, Phan Nhật Nam, Cung Tích Biền,...
Bởi vì, mỗi tác phẩm, với Nguyễn Xuân Hoàng, là một công trình văn chương tổng hợp hai yếu tính: Cách viết hay kỹ thuật viết và, không khí truyện.
Chúng ta có thể nói, Nguyễn Xuân Hoàng là một nhà văn thận trọng với tất cả mọi điều viết xuống, mà không phải e ngại rằng, đã có một vội vàng nào đó, qua ghi nhận ấy.
Du Tử Lê
___________
Chú thích:
(1) & (2): Cả hai tập truyện này của Trần Hoài Thư đều do nhà Ý Thức xuất bản tại Saigòn, trước tháng 4 năm 1975.
(3) Nhà văn Dương Kiền cùng gia đình hiện định cư tại Na Uy.