Ai hỏi tôi, trong tất cả các phương ngữ của hàng chục tỉnh miền Nam từ trước tới nay, ở đâu người ta nói nghe thấy sướng tai nhất thì tôi, dẫu là dân “Bắc kỳ không nho nhỏ” chính cống, vẫn trả lời đó là tiếng nói của người Sài Gòn.
... Bất cứ ai từng đến Singapore và có dịp nói chuyện trực tiếp với người dân ở đó, không cần tinh ý lắm, cũng nhận thấy họ hay đệm cái từ “lah” vào cuối một số câu trả lời mang tính khẳng định hay phủ định. “Did you take dinner?” – “No lah.” “… Heard that you are not going well…” – “Yes lah.” Một kiểu “Singlish” rất đáng yêu, dù những người nói thạo tiếng Anh nơi xứ Quốc đảo và nói đúng giọng English là vô số.
Nhưng dẫu họ có lưu loát đến mấy, dứt khoát một đôi lúc nào đó cũng vẫn thấy “lah.” Thậm chí, còn đệm thêm “lèo” hay “hôồ” vốn nằm… trong ngôn ngữ phổ thông vào tiếng Anh mới khiếp. “Did you finish your homework?” – “Yes… lèo!” “Are you feeling well?” – “No… hôồ.”
Không sao cả, vì nếu nhìn ngược về xứ Việt, tiếng Anh của người Sing phải gọi tiếng miền Nam của dân Việt – Mà tiêu biểu, tiếng người Sài Gòn – là sư phụ. Và cái cách mà người ta nói vô vàn những từ đệm khác nhau vào cuối câu ở nơi này, nghe sao mà phong phú và thu hút đến kỳ lạ. Hàng mấy chục từ cả thảy, như thế thì “lah,” “lèo” hay “hôồ” của người Singapore là có thấm gì.
Về tiếng nói của người miền Nam, các cây bút kiệt xuất cỡ Trương Vĩnh Ký, Vương Hồng Sển, Nguyễn Hiến Lê hay Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc cũng từng đưa ra một số định nghĩa khác nhau rồi. Ở đâu đó, “ông già Nam Bộ” rặt – Ngày xưa ông từng có mấy lần đến nhà tôi chơi, nói chuyện với ông già tôi – là nhà văn Sơn Nam có viết: “Phương ngữ Nam Bộ là của tiếng Việt, được cư dân người Việt sử dụng tại khu vực Nam Bộ, Việt Nam. Nó có cách phát âm, từ vựng, cách sử dụng từ ngữ khác biệt khá lớn so với tiếng Việt ở các khu vực khác.” Theo lời ông, kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong, bắt đầu một thời kỳ Nam Tiến để mở mang bờ cõi, cư dân Việt từ miền Bắc và miền Trung cũng di cư theo vào. Do điều kiện trong lúc họ tiếp xúc văn hóa cũng như bị thuần hóa về địa lý cùng cư dân bản địa, tiếng Việt ở khu vực này quần tụ từ nhiều nguồn đã dần thay đổi.
Trước nhất, cách phát âm thấy thay đổi nhiều: “hoạch” thành “quạch” hay “oạch”, âm “v” thành âm nửa “d” nửa “gi,” “au” thành “ao,” hay “an” thành “ang.” Nhiều từ còn đã bị đọc chệch đi do húy kỵ các vua chúa nhà Nguyễn: “hoàng” thành “huỳnh,” “cảnh” thành “kiểng,” “kính” thành “kiếng,” “hoa” thành “huê.” Một số từ vựng tiếng Khmer cũng được Việt hóa dần như xoài, bò hóc, ghe, ghe ngo, vỏ lãi, ba khía... Nhiều từ tiếng Hoa của lưu dân Quảng Châu, Phúc Kiến tại chỗ cũng được mượn âm như tẩy (ly đá), chạp-phô, xì dầu, xí quách, bò bía, chế, hia, lì xì, xếnh xáng, bạc xỉu, há cảo, xá xíu... Rõ rệt nhất, trong 5 thanh, người miền Nam không phân biệt được thanh hỏi và thanh ngã và có lẽ, đó chính là điểm khởi đầu cho việc viết sai chính tả lâu dài về sau - Mà không một ai muốn - nơi không ít người sinh trưởng ở miền Nam, thậm chí mãi từ Quảng Bình, Nha Trang hay Quy Nhơn đổ vào. Trong đó cũng phải kể đến một ụ các ông anh bà chị đáng yêu quý của chúng mình.
Ôi thôi, hỏi và ngã, rồi không “g” hay có “g,” “an” hoặc “ang,” “h” thành “qu,” “ươn” hoặc “ương” - Hoặc thậm chí, mấy anh chị ấy còn tự “sáng tác” ra bao nhiêu từ ngữ không hề có mặt trong Từ điển tiếng Việt nữa, viết mà không xem lại, đâm ra đã nhìn thấy quá thê thảm. Góp ý ở đây là thật lòng, xin đừng ai giận hay chọi gạch dù có khi tôi nhìn thấy, nhiều anh chị đã viết sai thành hệ thống, tuổi càng lớn càng khó sửa, lại thêm tự ái dồn dập nữa, đâm ra càng sai xa quá từ nguyên bản.
Tiếng Việt là thứ ngôn ngữ cực khó, viết cho đúng không phải là chuyện đùa – Vả chăng, vì nó quá đẹp nên chuyện viết sai nó là rất không nên và tôi cũng rất hiểu, xin nhắc lại, là không một ai muốn viết sai cả. Nhưng tôi để ý thấy có nhiều anh chị viết tiếng Anh hay tiếng Pháp là impeccable, khi quay lại tiếng mẹ đẻ, cứ sai chính tả nhặng xị. “Cũ” thành “củ,” “hữu” thành “hửu,” “tỉnh” lại thành “tĩnh,” “ngả” lại thành “ngã,” “ngoáy mũi” thành “ngoái mũi,” hoa cả mắt mà góp ý khéo theo kiểu xa xa hoài cũng thấy ngượng, với chính mình vì người ta cứ hồn nhiên viết không chuẩn như thế dài dài.
Tôi thành thực xin lỗi.
Nhưng bài viết này chỉ muốn nói về những từ đệm kiểu tiếng “lah” của người Sing trong tiếng Việt, nhất là trong ngôn ngữ nói của người Sài Gòn. Ông bác tôi, nay đã khuất, tôi nhớ hồi ông còn sống, ông già tôi hay đưa tôi đến nhà ông chơi – Nằm trên đường Cách Mạng thuở trước, tức là đường Nguyễn Văn Trỗi bây giờ. Ông làm trong ngành Quan thuế, hàng ngày phải tiếp xúc với biết bao nhiêu là dạng người hay hạng người luôn đến gặp mình để xin xỏ, tạo quan hệ hay lo giấy tờ và đóng thuế phí gì đó, chợt một hôm nhớ lại rằng ông từng bảo ông già tôi: “Chú biết không, sao mà anh mê tiếng người Sài Gòn quá…” “Mê” nằm trong nghĩa ông đã dẫn ra tới cả chục thứ tiếng đệm của người miền Nam, cứ cho là người Sài Gòn làm một đại diện uy tín, như “đa,” “nghen,” “cà,” “heng,” “há,” “hè” hay “héng” trong khi ông là dân gốc Bắc thứ thiệt (Quên, thứ thật!). Lâu quá rồi, những từ đáng yêu đó đến giờ vẫn còn truyền đời.
Tôi có để ý, người miền Bắc sau 1975, về sau này dẫu có thấy du nhập mấy từ ngữ đệm kiểu mới như “giề” (gì), “nhể” (nhỉ), “nhớ” (nhé) vào Nam, chính mình cũng đã nghe, hàng bao nhiêu người chuyển cư từ phía Bắc vào bỗng tự dưng vào một ngày đẹp trời lại nói đệm vào câu của mình hàng loạt những “đa,” “nghen,”, “cà,” “héng” như kể trên - Nghe rất lạ tai. Họ vẫn nói tiếng vùng miền ngoài kia nhưng trông rõ là họ đang nói đệm rất nghiêm túc, kể cả khi nói “vậy” thành “dzậy,” hay “và” thành “già.” Chỉ có điều, không bao giờ họ có thể nói theo một kiểu cách khó quên và đặc trưng như người miền Nam gốc được, hoặc cứ ngỡ là nói theo cách rất bình dân, dễ hiểu nhưng lại phân tích cực khó như với tiếng miền Nam gốc. Thật thế.
Bạn cứ thử ngẫm xem: “Món này ngon há?” “Món này ngon héng?” “Món này ngon à nghen,” “Món này ngon dữ đa,” “Món này ngon nhe,” “Món này ngon nha mậy,” “Món này ngon quá à…” “Món này ngon cà,” “Món này ngon hè”… xem thấy giống nhau ở chỗ nào và khác ở điểm nào. Một bậc trí thức nào đó có thể nói, người miền Nam từ lâu đã có xu hướng đồng nhất hay đánh đồng các chữ cuối từ trong lúc nói kiểu “-ít” giống “-ích” (Bánh ít, bánh ích), “-út” giống “-úc” (Em út, em úc), hay “-in” thành “-inh” (Nhà in, nhà inh), rồi “-un” thành “-ung” (Lạnh run, lạnh rung); hoặc bán phân biệt “s” với “x,” “r” với “d” hay “gi,” hoặc “tr” với “ch.” Nhưng cũng khoan nói tới chuyện ấy trong bài này đã, mà cứ “đa,” “nghen,” “cà,” “héng” là đã đủ vỡ đầu.
Ông bác mà tôi kể ở trên, tên ông ấy viết 100% đúng là “Riệu,” với người miền Bắc thì hay có xu hướng sẽ đọc thành “Diệu,” trong khi người miền Nam, sẽ đọc thành “Ghiệu” như ở một số vùng đâu đó thuộc miền Tây sông nước và dứt khoát, phải đọc thành âm “r” rõ rệt là “Riệu” dù âm “nặng” sẽ khác hẳn người Bắc, như với người Sài Gòn. Đúng là toát mồ hôi trán.
Trong muôn nghìn cái khó như thế, muốn biết người Sài Gòn ăn nói theo kiểu “chim khôn quen tiếng rảnh rang, người khôn ăn nói rõ ràng dễ nghe” ra sao, có lẽ chúng ta cứ nhắm mắt lại, tưởng tượng ra cách nói chuyện với chất giọng tuyệt hảo có một không hai của bà Tú Trinh quá lừng danh trong làng kịch nghệ và điện ảnh ngày trước, hay với giọng đọc chẳng lẫn vào đâu được của bà Mai Liên trên đài truyền hình tại Sài Gòn trước 1975. Đó mới chính là giọng nói của người Sài Gòn, đã được trau chuốt, tượng thành, chắt chiu, mài dũa và nâng niu trong hàng loạt kho tàng ngôn ngữ dân gian miền Nam vốn hào sảng, hồn hậu mà phong phú vô biên để gom vào cùng với thứ tiếng miền Nam nhẹ như không, thanh tao, nhũn nhặn nhưng khi cần, cũng biết đôm đốp, bốp chát, thẳng thắn mà nói văng mạng ra phết. Nói ngọt ngào kiểu mía lùi là văn hóa, âu yếm gọi người ta là “cưng” ở cái xứ sở ngọc châu này cũng văn hóa, mà văng tục hay chửi tục – Tôi đọc trong sách của nhà văn Đoàn Giỏi hay Bình Nguyên Lộc – Cũng văn hóa trong khi chửi kiểu Duyên Anh trong các tiểu thuyết của ông vẫn là mang hơi hướng miền Bắc.
Quả là, những từ đệm cuối câu kiểu Sài Gòn (Hay miền Nam) đó đã đi cùng tôi khi tôi học tiểu học, và tới tận bây giờ, "old man.” Cho nên không khó hiểu khi thấy một anh trai Bắc lấy một cô gái Nam, người Sài Gòn, con của họ hoặc sẽ nói một thứ tiếng Bắc lơ lớ nhưng trên 90% sẽ là nói theo giọng người mẹ - In hệt. Không chủ quan khi nhắc về khái niệm này. Và vẫn biết là quá khó, nhưng mong các anh chị hãy phân biệt “kế oạch” trong khi nói thành “kế hoạch” trong khi viết, hãy tách bạch “uỵch tẹc” trong nói và “huỵch toẹt” trong viết – Thậm chí, có ông còn viết là “quoạch tẹch” (?).
Xin nhớ giúp, vốn liếng từ ngữ tiếng Việt mình không có từ “tài tữ” (dấu ngã) mà chỉ có “tài tử” (dấu hỏi) mà thôi. Cái tài tình của tiếng miền Nam là vậy, từ “tài tử” vốn có gốc là tính từ, nghĩa là “nghiệp dư” (amateur) đối chọi với “chuyên nghiệp” (professionnel), khi vào Sài Gòn chẳng biết ai đã biến thể nó đi thành danh từ, có nghĩa là “diễn viên” (acteur). Rồi qua bao năm tháng, chắc nhiều người sẽ đồng ý với tôi rằng, hàng hà sa số từ khác, từ cái tài của bao nhiêu người có nhiều chữ nghĩa ở Sài Gòn thuở trước, đã trở thành bất tử dù ở thời buổi này người ta có ít nhắc đến chúng hơn - Như “chớp bóng,” “nhựt trình,” “giáo sư” theo nghĩa ngày trước, “trạng sư,” “thầy cãi,” “thầy chùa,” “ký lục,” “kịch vụ,” “hí trường,” “túc cầu,” “vũ cầu,” “tả biên,” “hữu biên,” “hữu nội,” “tả nội,” “tả vệ,” “hữu vệ,” “tùy phái,” “thừa phát lại” (Từ này mới thật là bình dân mà bí hiểm số một!) hay “chánh lục sự” và vô vàn thứ từ ngữ khác nữa mà “tài tử” (Lại dấu hỏi!) chỉ là một ví dụ quá nhỏ.
Thử nghe những câu này: “Hổm rày mày có đi coi đá banh hông mậy? Bữa qua, tao tới sân Cộng Hòa, coi Quan Thuế đá với Cảnh Sát Quốc Gia hay quá trời luôn nghen. Coi, cha Tam Lang chơi trung vệ mà hào huê chắc cú dữ, làm cha Cù Sinh mắc phát khùng nghen mậy. Coi bộ chả hổng có tài thánh nào thoát khỏi cha kia, nhìn mắc cười muốn chết. Mà cha Cù Hè nữa, … chả cứ nhè bóng mát bên phía khán đài A mà trốn vô đó, nên hổng đỡ đần gì cho Cù Sinh nổi. Rầu quá, mà sao chả lại làm biếng vậy cà?... Cứ dzậy hoài, ai mà chịu cho nổi, héng mày?”. Miễn phiên dịch thêm, ai hiểu sao thì hiểu!
Cho nên dù là chuyện cũ rồi, tôi vẫn không ưa nổi những người chưa từng dành ra khoảng 15 phút nào đó để hiểu xem, người Sài Gòn cũng như người miền Nam đã, đang và sẽ nói trong đời sống hàng ngày như thế nào cho đến nơi đến chốn. Nên mới có chuyện đề nghị quái đản viết “giáo dục” thành “Záo Zụk” trong khi người Sài Gòn, họ nói âm “d” theo kiểu khác. Dễ thấm lắm.
Sau cùng, cứ thế này cho rõ chuyện: "Muốn ăn hột vịt lộn, Luộc lầm hột vịt lạt, Ăn lộn hột vịt lạt, Luộc lại hột vịt lộn, Lại lầm hột vịt lạt, Lộn hoài hột vịt lộn…”. Hoặc: "Lão Lý làng Lăng lên lò lấy lòng lợn năm lần liền". Cứ nói vậy đi, người Bắc kỳ không phân biệt được "l" và "n" nói sao còn người Sài Gòn nói sao?
Gửi ý kiến của bạn