Trong một bài trước, tôi đã viết về một ngôi nhà nằm tại khu vực đường Nhật Tảo - Nguyễn Tiểu La. Nhà ấy của thi sĩ Vương Đức Lệ, người từng đoạt giải thưởng thi ca Phủ Tổng thống 1960 - 1961.
… Sau ngày thay mầu cờ, mãi tới cuối những năm 1970, nơi ấy trở thành chốn gặp gỡ của nhiều người đàn ông, cùng là những cây bút từ bao năm cũ, chỉ còn biết gặp lại nhau để ôn những ngày vui chưa xa mờ. Thanh Thương Hoàng, Thái Thủy, Lê Thương, Tú Duyên, Nguyễn Hiền, Mai Trung Tĩnh, Võ An Ninh (Là người duy nhất sau 30/4 có mặt ở đó), Hồ Nam…, nhiều. Ông già tôi cũng đến đó, nhưng không đều, vì tình bạn nhiều năm với ông chủ nhà. Ở đó thi thoảng có vài gương mặt đẹp tóc dài, mà đều đặn nhất, là cô Lê Thị Ý, em ruột của ông Vượng. Lâu quá rồi, tôi không nhớ cô ấy có ở cùng nhà với anh mình hay không, chỉ biết chắc, cô làm thơ từ xưa đã tuyệt cú.
Tôi vẫn mường tượng ra một ngày mình còn trai trẻ, cầm một tập nhạc nào đó có kích thước vuông của ông bác Phạm Duy, mà bài đầu tiên lật thấy ngay trong đó là Tưởng Như Còn Người Yêu. Tôi đã suýt soa bằng kiến thức lỗ chỗ ở tuổi 19 của mình, khi đọc thấy những câu, những dòng không thể phai đi bất chấp chúng từ năm 1972: Ngày mai đi nhận xác chồng, Say đi để thấy mình không là mình. Ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ.
Tôi biết, bác Phạm cũng nhiều khi đưa lục bát vào nhạc của mình, do chính bác ấy viết mà chẳng cần phải vay mượn ai trong hơi hướng ca dao (Sao Tua chín cái nằm kề, Thương em từ thuở mẹ về với cha…). Nhưng không thể ngờ, bác ấy lại có mấy câu “oách” đến thế.
Năm tôi 25 tuổi, lần đầu nhìn thấy cô Lê Thị Ý lúc ấy đã 40 tuổi ở ngôi nhà Nhật Tảo, lúc đó là trước 1980 không lâu. Đó cũng là lúc tôi hiểu ra, không phải bác Phạm đã viết mấy câu đó, mà chính là cô. Cô Ý đã viết ra chúng khi mình quãng 30-31 tuổi, 1970. Ý tứ đó, vần điệu đó, nỗi niềm đó, không gò gẫm gọt đi gọt lại như bao thi sĩ khác, ấy đã là kỳ tài. Bác Phạm có sửa mấy chữ, và bỏ đi 2 câu khi bài Thương Ca 1 là gốc của cô Ý thành bài Tưởng Như Còn Người Yêu đã kể.
Người ta dễ nhầm 2 nữ thi sĩ có tên gần giống nhau, và cùng viết thơ tình cho sắc áo lục ngày cũ, là Lê Thị Ý và Lý Thụy Ý để cho đến giờ, nhiều người vẫn nhầm. Cô Ý đầu lớn hơn - Là em gái ông Vương Đức Lệ - sinh năm 1939, tuổi con Mèo, quê Bắc Ninh và chào đời tại Hà Nội. Cô Ý kia nhỏ hơn, tên thật Phước Lý, tuổi con Trư, quê Quảng Nam. Cô Ý lớn người Bắc có nhiều bài về người lính đáng nhớ lâu; cô Ý bé người Quảng cũng có không ít bài, mà một thì hàng triệu người đã đọc: Em trách anh gửi thư sao chậm trễ. Em đợi hoài em sẽ giận cho xem. Thư anh viết bao giờ anh muốn thế. Hành quân hoài đấy chứ, lính mà em!
Cô Ý lớn thầm lặng sống cho đến khi ra đi, cô Ý bé, vào trại ở ngay chốn này. Cô Lê Thị Ý lớn lên trong một gia đình mà nhìn đâu cũng thấy người cầm bút. Mẹ cô là em của ông Phạm Quỳnh, người anh lớn là ông Vương Đức Lệ, người chị lớn là nhà văn Phượng Kiều, và cô em nữa là nhà văn Lê Thị Nhị. Trước 1954 khi theo gia đình vào Nam, Lê Thị Ý đã biết làm thơ rất sớm, từ lúc còn trung học nhưng chưa đều bằng sau khi có cuộc chuyển nhà nghìn dặm.
Thời gian đầu sống tại Pleiku, miền sôi đậu với đạn bay veo véo ngày ngày, như nhiều thiếu nữ thời ấy đều có người yêu là lính, cô đã chọn sắc áo lục làm một chủ đề lớn trong thi ca của lòng mình. Nhà cô hồi ấy nằm gần Nhà Vĩnh biệt dành cho những người lính tử trận, chính cô cũng từng khóc cho một người đàn ông cùng số phận ấy, thế nên mới có Thương Ca 1, sau nhiều đêm khắc khoải cùng nỗi nhớ.
Cô viết nhiều, trong đó học giả Nguyễn Đức Quỳnh khi đọc đã rất thích bài ấy, liền chuyển ngay cho ông bác Phạm Duy. Nhạc sĩ đọc xong, cảm hứng căng ứa, đã hoàn tất bài nhạc phổ chỉ trong vòng 15 phút. Nhạc sĩ, do nhạc điệu của bài, sau đó đã đề nghị nữ thi sĩ bỏ đi 2 câu Chiếc quan tài phủ cờ màu. Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng nhằm giữ cho nội dung nhẹ nhàng hơn một chút. Đề nghị đó dẫu không thật sự đúng ý mình, cô Ý vẫn đồng ý. Về sau, cô kể lại với bố tôi, khi ấy cô chỉ muốn ghi rõ ràng, đó là hình ảnh không lẫn vào đâu được của người quả phụ Việt Nam do chiến tranh.
Sau tháng 4/1975, cô Ý vẫn sống tại Sài Gòn cho đến năm 1981 thì sang trại tị nạn Songkhla, Thái Lan. Sáu tháng sau đó, cô sang định cư ở Maryland và nhiều năm gần đây là Virginia, vẫn độc thân và sáng tác dù vẫn luôn có cùng tâm trạng nhớ nhà, lạc lõng và quạnh hiu ít nhiều như không ít người Việt phải xa quê khác. (1)
Với riêng tôi, đó là một phụ nữ mảnh mai,
mặc áo dài hoa, tóc không kẹp, rất ý nhị và luôn giúp ông anh mình tiếp khách chu đáo trong mỗi lần họp mặt bạn văn tại ngôi nhà đó. Cô viết không kém ai và cũng là người trong nghề, nhưng như mọi phụ nữ Việt Nam khác, cô vẫn thường thầm lặng giấu mình đi sau những tiếng cười và giọng điệu ăn to nói to của các nam đồng nghiệp cầm bút. Hãn hữu lắm, khi bố tôi hoặc chính anh cô mời, cô mới ngồi lại, mủm mỉm cười khi nghe những ông anh bằng hữu kia nói trong cơn say những gì ra ngoài đường ray lúc ấy. Cô chẳng bao giờ tranh luận khi người khác nói phun nước bọt những chuyện mà chính họ bất lực, và chẳng biết làm gì hơn, là nói đổng bâng quơ.
… Rồi cô cũng có lần đến nhà tôi. Cô thì thầm gì đó với bố tôi, tôi biết nhưng không bao giờ hỏi và tôi thấy bố tôi lắc đầu. Một tháng sau, cô lẳng lặng tìm ra biển. Bạn có muốn nghe bài Thương Ca 1 ấy không, bài mà bác Phạm đã phổ nhạc?
Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình.
Say đi cho rõ người tình,
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ.
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ dấu son.
Tình ta không thể vuông tròn,
Say đi mà tưởng như còn người yêu.
Phi cơ đáp xuống một chiều,
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc Thương Ca,
Thân côi khép kín trong tà áo đen.
Chao ôi thèm nụ hôn quen,
Đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau.
Chiếc quan tài phủ cờ màu
Hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng
Em không nhìn được xác chàng
Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng,
Nghĩa trang mà ngỡ thư phòng riêng ai (2)
_____
(1) Tác phẩm: Thơ Ý (Sài Gòn, 1967); Thương Ca (1970); Cuộc Tình Và Chân Dung Tôi (Sài Gòn, 1972). Khi sang Hoa Kỳ, đã xuất bản thêm 2 tập nữa là Quê Hương Và Người Tình (1992) cùng Vùng Trời Dấu Yêu (2000). (2) Một bài khác:
Chiến Tranh Và Cuộc Tình Lỡ
Sau giấc ngủ dung nhan mình xa lạ
Tôi ngỡ ngàng nghe tên thoát từ môi
Dòng luân lưu máu đọng đã lâu rồi
Thân hủy diệt từng tế bào mất hút
Tuổi đời trôi theo thời gian vùn vụt
Vượt tầm tay nhân ảnh vật vờ bay
Vẫn là tôi thân con gái lưu đầy
Vùng tâm tưởng từng bàn tay triển lãm
Và tim tôi với tình yêu điên loạn
Ôi xa rồi lằn sáng tuổi mơ hoa
Ôi Bắc Ninh, quê hương đã nhạt nhòa
Và ngôi mộ người cha giờ cỏ mọc
Tôi ôm tôi, nghe tiếng mình bật khóc
Nỗi cô đơn đằng đẵng ngọn triền dâng.
Vùng bình yên không dừng bước một lần
Tôi thèm khát ngày Hòa Bình trở lại
Mái đầu xanh, vành khăn sô ngây dại
Long lanh màu chung thủy với tình lang
Tôi tiếc tôi không thấy được xác chàng Nhưng yên ổn vẫn là niềm khát vọng.
Cuộc chiến này đây không còn lan rộng. Cuộc chiến này đây, nòng thép lạnh tanh
Cho từng đêm tôi gọi khẽ tên anh
Âm vang lại lời thưa mừng đất nước
Sau giấc ngủ dung nhan mình đổi khác
Từ làn mi, đôi má đến bờ môi
Tôi thầm thì, tôi gọi mãi tên tôi
Âm thanh ngắn như cuộc tình thời chiến
Buổi sơ giao mình nghe như đã hẹn
Và hôm nay hai đứa đã rời nhau
Tôi vẫn tôi từng ga nhỏ cúi đầu
Và đêm lạnh nghe tim sầu nức nở.
Ngày anh đi cho cuộc tình ta lỡ
Tên người yêu gục chết một miền xa
Máu đào phun cho cây cỏ thăng hoa
Và xương trắng làm hàng rào đất nước
Anh là ai, đôi chân mềm xuôi ngược?
Anh là ai, anh ôm lấy đất liền
Tôi lạc bước trong tình riêng tê tái.