Chương Hai: Bùi Giáng

30 Tháng Năm 201012:00 SA(Xem: 8256)
Chương Hai: Bùi Giáng

 

NGƯỜI ĐƯỢC MỆNH DANH CUỒNG SĨ THỜI ĐẠI? GÃ CHĂN TRÂU TRÊN ĐỒNG CỎ VIỆT NAM? HAY LÀ HẬU THÂN CỦA MỘT THÚY KIỀU?

Một dạo, tin Bùi Giáng mất tích đã gây xao xuyến, xúc động cho một số anh em văn nghệ sĩ tại miền Nam này. Đó là lúc mà không ai biết ông đi đâu, làm gì? Sống chết ra sao? – Nhà thơ Xuân Hiến, một trong số những người bạn thân của họ Bùi cũng không biết. Ngay cả những anh em của ông cũng không rõ gì hơn. Người thì bảo Bùi Giáng đã bỏ văn nghệ đi buôn, kẻ lại bảo vào rừng, hay lên núi tu… Tất cả chỉ là những ức đoán, căn cứ vào lời đồn đại mà thôi. Tựu trung, vẫn không ai rõ thực hư ra sao! Từ chỗ mù mờ, nhuốm huyền hoặc đó, một vài anh em khác giầu tưởng tượng hơn, nghĩ xa xôi hơn nhưng cũng chua chát hơn: “Biết đâu Bùi Giáng đã chẳng chết dấm chết dúi bụi bờ nào rồi (?), mà phải, rất có thể trong một giây phút “xuất thần” nào đó, ông đã tự hủy cuộc đời”…!

 

Vì anh em, ai cũng biết Bùi Giáng rất gầy còm, ốm yếu, người ông thấp và khô quắt, chỉ có cái đầu to quá khổ so với khuôn mặt chữ điền xương xẩu. Lại thêm tính nết đôi khi không được điều hòa vì sự lao lực tinh thần quá đáng. Những người sống gần ông đều nhận thấy mỗi khi bàn luận nhiều về vấn đề văn chương, tư tưởng, ông thường đưa tay ôm đầu, gục mặt. Nhất là khi đề cập tới truyện Kiều của Nguyễn Du, không những chỉ ôm mặt, ông còn thường bật khóc nức nở, tức tưởi… và rất nhiều đặc điểm khác, khiến cho anh em nghi ngờ, lo lắng, hoang mang về sự mất tin tức chàng họ Bùi.

 

Trước những dữ kiện ấy, tôi càng nôn nả muốn tìm gặp ông. Nhưng tìm Bùi Giáng đúng như câu nói của một người bạn: “như thể tìm chim”.

 

Đến căn nhà đường Trương Tấn Bửu không có, trại định cư khu Ngã Tư Bảy Hiền cũng không. Nhớ tới những phỏng đoán trên, tôi nghĩ: Biết đâu chẳng đúng! Rồi, những thôi thúc, náo động trong tôi với thời gian cũng lắng nguội dần. Phần vì việc mưu sinh, phần vì thiếu sức khỏe, chán nản, thất vọng tất cả, tôi quên dần chuyện kiếm tìm Bùi Giáng.

 

Nhưng một buổi tối, một người bạn đưa anh T.Q. Túy, họa sĩ (cũng là bạn học cũ, xa nhau có tới 6, 7 năm) lại thăm tôi.

 

Có lẽ gặp Túy nên tôi liên tưởng tới Bùi Giáng. Bởi ngoài con người văn chương thơ phú, Bùi Giáng còn là một họa sĩ chuyên vẽ bằng mầu nước loại trừu tượng và siêu thực. Về khía cạnh này, ít người biết tới, mặc dù rất nhiều họa sĩ tên tuổi tại đây tỏ ý thán phục tranh của ông như N.T, T.T. N.Đ… Riêng tòa đại sứ Đức, đã từng điều đình xin mua một số tranh của ông với giá cao tột bực. Nhưng ông từ chối và chỉ đề tặng cho tòa đại sứ Đức một bức.

 

Khi người bạn nghe tôi nhắc tới tên Bùi Giáng, anh bảo sẽ tìm địa chỉ giùm và anh tin rằng Bùi Giáng không sao hết, Bùi Giáng vẫn còn ở Sài Gòn.

 

Quả nhiên, hai hôm sau, anh đến tôi, báo tin đã tìm ra chỗ ở hiện tại của họ Bùi: Khu Ngã Ba Ông Tạ. Tối hôm đó, chúng tôi hẹn gặp nhau ở quán càfé L.C gần bên ngõ vào nhà ông.

 

Khi dựng xe trước căn nhà quét vôi trắng khá đồ sộ, sâu trong một con hẻm lớn, tôi bồi hồi nghĩ tới lúc gặp mặt tác giả “Tư Tưởng Hiện Đại” (1)

 

Nhưng như lo ngại lúc ban đầu, bà cụ cùng nhà trả lời ông đã đi khỏi cùng ông Ý (Bửu Ý). Hỏi chừng nào về, bà cụ bảo: “Không chừng, có thể một lát ông ấy trở về ngay, cũng có thể 2, 3 giờ sáng mới về”. Sau đó, bà cụ cố giữ chúng tôi nán chờ ông về. Hy vọng Bùi Giáng sẽ trở về ngay như mọi khi, chúng tôi ngồi chờ ông và nghe bà cụ nói rất nhiều chuyện khá ngộ nghĩnh về ông. Lợi dụng lúc chờ đợi, tôi mượn một ngọn nến (đèn cầy) soi sáng chỗ làm việc của họ Bùi. Nếu không có chiếc “đi văng” nhỏ kê sát tường và đống quần áo vứt bừa bãi trên chiếc giá sách hỏng, trên cả chiếc bàn viết, lẫn lộn cùng những chồng sách cao ngút, chắc tôi sẽ có cảm tưởng gian nhà của Bùi Giáng là một phòng bán sách cũ. Bởi chung quanh phòng, những giá sách cao gần sát trần, chất đầy sách đủ loại, cả những chồng sách để ngay ở dưới sàn nhà lẫn lộn cùng những khung tranh ông vẽ từ 4, 5 năm nay.

 

Một nửa đi văng cũng được dùng để chứa sách, ông chỉ chừa lại một khoảng nhỏ đủ để đặt lưng mà thôi. Trên đầu đi văng, có 2 mẩu nến cháy dở, hỏi ra mới biết ông có thói quen dùng đèn cầy đọc sách, bất cứ ngày hay đêm (mặc dù nhà có điện). Ông còn thích bỏ màn suốt ngày. Theo ông thì để bạn bè đến thấy không có chỗ ngồi, sẽ không ở chơi lâu. Bà cụ thuê nhà cùng ông kể rằng: “Quần áo không bao giờ ông bỏ giặt cả! Mặc bộ này chán rồi thay ra, mặc bộ khác vào, cứ thể hết vòng này tới vòng khác…”

 

Trong căn phòng, tôi ước lượng cũng có tới gần 100 bức tranh, đa số vẽ những chân dung tưởng tượng. Những khuôn mặt người rách nát đau thương… Như người bạn tôi cho biết thì khi vẽ, bao giờ ông cũng mặc quần áo chỉnh tề, thắt cravat, nhưng đi dép. Ông vẽ rất nhanh và đường cọ đi rất bạo, hầu như không phác trước, không đắn đo, tính toán. Sở dĩ tranh của ông mang một giá trị, một sức quyến rũ lạ lùng (mặc dù ông không hề theo học một lớp hội họa cũng như không hề nhờ ai chỉ dẫn) có lẽ vì nó là kết quả của những suy nghiệm, những ray dứt, dày vò tâm thức ông từ quá khứ. Nên trong những giây phút thoát thần, cây cọ của ông phóng đi với những đường nét thật thần kỳ, mê hoặc, hầu như ông không cần tới một kỹ thuật nào cả. Ông say sưa nhất khi vẽ chân dung Einstein và nữ nghệ sĩ Kim Cương. Với hai khuôn mặt này, ông thường vẽ đi vẽ lại cả chục lần không chán. Trên tấm kính của mấy tủ sách, tôi cũng thấy hình hai nữ nghệ sĩ Kim Cương và Thẩm Thúy Hằng. Không biết ông lấy phụ bản của một tờ nhật báo nào!

 

Ngồi chờ khoảng một tiếng sau, vẫn chưa thấy Bùi Giáng về, chúng tôi đành xin phép cáo lui. Trở lại tiệm càfé giữa tiếng nhạc nỉ non, trong một không khí ẩm ướt khói thuốc, mờ mờ những khuôn mặt thanh niên đủ mọi trang lứa, giữa những tiếng cười khả ố, lâu lâu ré lên, tôi nghĩ tới Bùi Giáng không biết giờ này đang ở đâu, làm gì? Nghĩ tới chính mình và những người chung quanh - Thế hệ hiện tại - Tôi thấy cà phê đắng hơn mọi bữa và hình như không có mùi vị gì… Vì có hẹn trước, trưa hôm sau, trở lại, chúng tôi gặp Bùi Giáng đang xúng xính trong chiếc quần ngủ vải thô vàng, chiếc áo sơ mi cụt tay màu xanh với những khoang tròn vàng (loại bán sẵn ở chợ), chiếc kính trắng dày cộm, nặng nề trên sống mũi thấp, ông bắt tay chúng tôi bằng nụ cười nửa như mừng rỡ, nửa như méo xệch, xa xăm…

 

Ông gỡ kính cất đi và mời chúng tôi ngồi bộ salon nhỏ, lối đi xuống sân nhà bếp.

 

Tôi lấy cuốn thơ đề tặng từ trước đưa cho ông. Ông ngắm nghía bìa trước, sau, rồi đọc vài trang trong, đăm chiêu, im lặng. Không biết ông nghĩ gì, nhưng được dịp, tôi quan sát kỹ khuôn mặt đầy những vết sậm loang lổ (có thể ông bị tàn nhang).

 

Đầu ông đã to, lại thêm mớ tóc hớt “cua”, chắc cũng có tới 3, 4 tháng không được bàn tay ông phó cạo sờ tới, nó đâm tua tủa, che lấp một phần trán rộng, to, vuông vắn. Trán ông hình như bị xẻ hai vì tôi thấy ngay ở giữa trán, một vết dài lõm xuống nhưng không phải là sẹo. Cặp mắt nhỏ sâu, miệng rộng, hai gò má nhô cao, cằm bạnh.

 

Ông cầm cuốn thơ của tôi cất đi và nói:

“Để tôi tìm ít sách biếu các anh”. Lát sau, ông mang ra cho tôi 3 cuốn “Mưa nguồn”, “Màu hoa trên ngàn”, thơ và cuốn mới nhất “Dialogue” (2). Chúng tôi say sưa nghe ông nói chuyện về những vấn đề liên quan tới văn hóa, nghệ thuật, tới một vài nhân vật hiện có uy tín đối với giới sinh viên. Nhưng theo ông, họ lại là những người thiếu ý thức, vô trách nhiệm trong việc hướng dẫn tư tưởng sinh viên. Họ dùng những tiểu xảo, để đánh lừa, dối gạt sinh viên. Họ không dám viết những lời nói đó thành sách hay trên báo, mà chỉ phát ngôn trong vòng 4 bức tường vôi, nên dù ông rất muốn cho họ nhìn thấy lầm lỗi vô cùng tai hại của việc làm thiếu ý thức đó mà đành chịu.

 

Ông cũng nói tới trường hợp cố văn sĩ kiêm cách mạng gia Nhất Linh. Ông bảo: Nhất Linh có tài viết văn, dựng tiểu thuyết, nhưng Nhất Linh đã lầm lỗi lớn, khi tạo nên những tệ đoan của xã hội Việt Nam ta, đã đi quá xa sự thực, khiến bọn ngoại quốc nhìn vào tưởng rằng xã hội Việt Nam mà căn bản là gia đình, nát bấy như vậy. Thực ra, trạng huống đó không đến nỗi bi đát thế. Chính mấy ông trong TLVĐ tạo cho nó một bộ mặt xấu xa, rồi cũng tự các ông lên án, đập phá. Một Loan của Đoạn Tuyệt mới chỉ có những bề mặt phảng phất Việt Nam, nhưng thiếu vắng hẳn chiều sâu tư tưởng. Tuy nhiên cái chết thật đẹp của Nhất Linh đã cứu vãn lại rất nhiều những gì không hay mà ông để lại cho xứ sở này”.

 

Ông cũng nhắc tới Thạc Sĩ Phạm Duy Khiêm và cho rằng người ta chửi rủa Phạm Duy Khiêm mất gốc, vong bản, khi ông này dám nói rằng Tiếng Việt Nam không ra gì cả. Nhưng theo ông, chính Phạm Duy Khiêm là người yêu nước nhiệt thành. Vì có ai làm như và hơn được Phạm Duy Khiêm, khi ông này đem những chuyện cổ tích Việt Nam, viết lại bằng tiếng Pháp để các dân tộc trên thế giới, nhìn thấy rõ cái thâm thúy, trầm sâu của dân tộc ta. Chứ bọn văn sĩ lăng nhăng không những chẳng giúp ích gì được cho đất nước này mà còn khiến người ta coi thường, lầm tưởng dân mình mọi rợ man di mà thôi.

 

Bị quyến rũ bởi giọng nói chuyện và nhất là chiếc miệng duyên dáng của Bùi Giáng, tôi quên cả giờ đi làm. Tới lúc đứng dậy thì buổi trưa đã qua từ lâu. Khi ra khỏi ngõ, giọng nói đặc biệt Quảng Nam nhỏ nhẹ, hơi rè của ông còn văng vẳng bên tai tôi. “Với tôi, điều quan trọng bây giờ là phải làm sao đặt định lại đúng tầm mức quan trọng của văn hóa. Phải làm sao tạo được sự bình đẳng. Vấn đề bình đẳng quan trọng lắm, lớn lắm. Từ đó Đông Tây mới có thể nói chuyện với nhau được.

 

TIỂU SỬ

 

Bùi Giáng sinh năm 1926 tại Quảng Nam (Vĩnh Trinh). Ông là người con thứ 6 trong số 13 anh em. Ông chỉ có một người em gái út duy nhất. Người này hiện ở Đà Nẵng. Ông rất quý cô em gái và có một thời gian ông đã sống cùng cô.

 

Trong số 12 anh em trai, hầu hết đều là giáo sư, sĩ quan. Tuy nhiên, người ta ít thấy ông nhắc tới tên các anh em của ông. Thuở bé, ông đã từng chăn trâu, làm ruộng. Có thể nói, phần lớn tuổi thơ của ông trôi qua nơi hoa đồng cỏ nội.

 

Năm 18 tuổi, ông lập gia đình. Nhưng chiến tranh và nạn lụt lần lượt cướp mất người vợ và 2 con thơ thân yêu. Riêng trường hợp vợ ông là cả một dĩ vãng đau buồn, tủi nhục, ở đây, tôi tự thấy không được phép nói.

 

Cho đến bây giờ, mỗi khi nghe ai hỏi tới gia đình vợ, con, ông thường ôm đầu, gục mặt, ra dấu đừng nhắc tới.

 

Ông bắt đầu hoạt động văn nghệ từ năm 1953 tức năm ông 27 tuổi. Cũng thời gian này, ông là giáo sư Việt Văn tại các trường trung học tư thực. Trước khi xuất bản cuốn sách đầu tiên “Tư Tưởng Hiện Đại”, ông đã viết rất nhiều sách giáo khoa ( 6 quyển) loại bình giải cho nhà xuất bản Tân Việt. Thường ông viết rất nhanh và viết không biết mệt. Như cuốn “Tư Tưởng Hiện Đại” ông đã viết liên tiếp, ròng rã bảy ngày đêm không ăn. Nên với ông, chỉ có thời gian thai nghén tác phẩm là lâu mà thôi, còn khi đã đặt bút viết, bao giờ ông cũng viết luôn một mạch. Ông đã từng nằm dài ở sàn nhà in mấy ngày đêm liền, viết tới đâu, quẳng cho sắp chữ tới đó.

 

Ban đầu ông in cuốn “Tư Tưởng Hiện Đại”, rồi “Mưa Nguồn” rồi “Martin Heidegger Và Tư Tưởng Hiện Đại” (tập I và II) rồi “Sao Gọi Là Không Có Triết Học Heidegger”, “Lá Hoa Cồn”… Nhắc tới Bùi Giáng mà không nói cuộc “Chỉnh Lý Tư Tưởng” của Bùi Giáng dành cho giáo sư Trần Thái Đỉnh ở đại học Huế, tôi nghĩ sẽ làm điều thiếu sót lớn!

 

Nguyên khi Bùi Giáng cho xuất bản cuốn “Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại” tập I, ông Trần Thái Đỉnh, giáo sư đại học Huế có viết một bài tựa đề “Heidegger Và Thi Ca” đăng trên Đại Học số 33 có ý ám chỉ Bùi Giáng là kẻ “… chuyên nghề quảng cáo biết nhãn hiệu hơn là nội dung”. Và trước đó, trong phần mở đầu, lời tòa soạn, người ta đọc thấy: “Triết gia ý thức được bản lĩnh của mình thì đôi khi ưa sáng tác hơn là tìm hiểu người khác. Nhưng đối với đa số chúng sinh, triết lý đối thoại, là tìm hiểu người khác, chứ không phải là gán cho họ tư tưởng của mình, thì cho dù thiên hạ đã viết nhiều bằng tiếng Việt Heidegger, có cố gắng để tìm hiểu Heidegger cũng không phải là một công việc dư thừa vậy”. (Thiên hạ ở đây là ai nếu không phải là Bùi Giáng vì ở V.N mới chỉ có Bùi Giáng viết về Heidegger mà thôi - do đó “gán cho họ tư tưởng của mình”, tác giả bài báo trên có ý bảo Bùi Giáng đã gán tư tưởng của mình cho Heidegger?). Sau khi số Đại Học trên phát hành, giới quan tâm tới nền văn học ở đây đã xôn xao, bàn tán một thời gian. Bùi Giáng viết bài trả lời, nhưng báo lại không đăng. Không lẽ đành câm lặng! Ông liền cho in bài trả lời thành một tập sách nhỏ mang tên “Sao Gọi Là Không Có Triết Học Heidegger” để trả lời giáo sư họ Thái. Để quí vị nào chưa đọc qua cuốn sách đó. Tôi xin trích dẫn dưới đây một vài đoạn, hầu cho rộng đường suy luận…

 

….”Không có triết học Heidegger, và giả như có thì chính tôi không tha thiết gì đến nó hết” … nói như thế không phải có triết thuyết Heidegger nhưng triết gia có ý nhắn nhủ rằng đối với công việc còn phải làm trong lãnh vực tìm hiểu bản chất của con người, những thể hiện trước đây của ông chưa đáng kể chi và chưa đáng gọi là một triết học thực sự”.

 

 “Triết học thực sự nó ra như thế nào? Những thể hiện của ông chưa đáng gọi…?

 

Muốn đáng gọi và đáng kể thì phải làm sao? Phải viết theo lối viết “Heidegger và thi ca”? Phải đăng ở phần đầu tờ Đại Học? Phải nấp sau lời tòa soạn để công kích những kẻ nào là “Thiên hạ đã viết nhiều - bằng tiếng Việt - về Heidegger?”

 

Từ đó về sau?

 

Từ đó về sau trái đất đã âm u, và trên mặt đất chỉ còn có những “les derniers hommes quicligment de I’oeil”.Nhà tư tưởng viết sách, lắm khi đứng trước sự đời đảo điên, đã đành lòng thốt lời chua chát.

 

“Chém cha cái số ba đào
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”

Nhưng không phải vì vậy mà hạng người “les derniers hommes” được phép tự cho mình là tài.

“Nọ nghe rằng có con nào ở đây
Hãy xem có biết mặt này là ai”

Sự việc đã sờ sờ ra đó. Sự thật quá rõ., Nhân tình đã biết rồi ra sao! Ai đã gây nên tội lỗi?
………..
………..
Nguyên cớ chỉ như vậy. Không viết nổi một quyển sách. Chỉ lo cản đường. Làm bóng ma dọa dẫm. Xuyên tạc mãi một tiếng “Hiện hữu”, “Hữu thể”, nhắc đi nhắc lại mãi một điều vô ý thức, và đắm đắm việc lũng đoạn tư tưởng. Do đó, tiếng nói lộn phèo.

 

Vừa ỡm ờ bảo: Những thể hiện trước đây của ông chưa đáng kể chi và chưa đáng gọi là một triêát học thật sự…

 

Đã tiếp liền:

 

Sở dĩ ông nghĩ thế vì ông cho rằng tự khi có triết học đến nay, các triết gia vẫn chỉ mới nhận ra những hữu thể (les étants) mà thôi, chưa vị nào đắm nhìn thâu vào bản chất (daswesen, I’être) của những hữu thể đó.

 

Tại sao có sự ăn nói như trẻ con vậy? Lý luận gì vu vơ như ngái ngủ vậy? Vừa mưu toan cản lối kẻ tài giỏi hơn mình (mặc dù chỉ quen đọc nhãn hiệu và quen viết quảng cáo) vừa lo sợ bốn phía chị em cười mình hàm hồ xuyên tạc!

 

Phải chăng đó là nguyên cớ xui giáo sư viết văn bất thành chương cú?”

(Trang 7 và 8)

 

“Trần Thái Đỉnh không phải là kẻ chuyên nghề quảng cáo, Trần Thái Đỉnh biết nội dung hơn là nhãn hiệu, Trần Thái Đỉnh nhiều thận trọng trong cuộc xuyên tạc ra sao? Hãy xem ông nói về Heidegger và tác phẩm Kant et Le problème de la métaphysique:

“Trong cuốn Kant và vấn đề Siêu Hình Học, Heidegger đã trách Kant nặng lời, rằng “Kant đã lùi bước trước cái nền tảng mà ông đã xây được với cuốn Phê bình Lý trí Thuần túy của ông”.

(Đại Học – Trang 298)

 

Trần Thái Đỉnh vớ vào một câu trong sách Heidegger và lôi nó ra khỏi mạch nguồn tư tưởng, dịch lệch đi một chút ngắt trên, rớt dưới, để bảo Heidegger đã trách Kant nặng lời.

Thật ra chưa có một nhà tư tưởng nào như Heidegger đã mở rộng viễn tượng suy tư của Kant. Chưa bao giờ có kẻ đã phơi rộng phần vô ngôn của Kant như Heidegger. Heidegger trách nặng lời là trách triết gia Âu Châu đã bỏ lạc “MỘT KẾT QUẢ CÓ TÍNH CÁCH QUYẾT ĐỊNH” - un résultat décisil - của Kant trong công việc thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học kể từ Platon tới nay. Heidegger đã dành cho Kant một chỗ ngồi hầu như độc tôn trong lịch sử triết học: thiết lập được, kết xe được Mối Liên Hệ - La connexion - giữa bản thể và bản thể của Căn sơ Siêu Hình Học”.
…..
……
Hãy nghe Heidegger nói:

Mais le Véritable Résultat de I’instauration Kantienne n’était pas d’avoir établi la connexion de la question concernant I’essence de I’homme avec celle du fondement de la métaphysique?

Cette connexion ne doit-elle pas lournir le fil directeur de la répétition de I’instauration?
………..
La critique de I’idée d’une anthropologie philosophique montre cependant qu’il ne suffit pas simplement de poser la question de I’essence de I’homme; au contaire, son imprécision même nous indique que finalement nous ne sommes pas encore entrés, même maintenant, en possession du résultat décisil de I’instauration Kantienne du fondement. (3)

(kant el le problème de la Métaphysique – page 2710)

Thật là quá rõ”.

(trang 9-10)

 

Và một đoạn chót trong tập sách:

“Trần Thái Đỉnh không nắm được chỗ cốt yếu nọ trong suy tư. Những tiếng: thực rõ ràng, triết lý không thể là thi ca và thi ca chưa phải là triết lý… thi ca chưa bộc lộ… mối tiếp thông… ý thức phản tỉnh… cái nền chưa phản tỉnh… v.v…. (Đại Học - trang 297) - Những lời lủng củng, va chạm kia bởi đâu mà có? Trần Thái Đỉnh yên trí rằng: không kẻ nào nhận thấy ông đã mập mờ đem tư tưởng Socrate ra, cho len lấn vào lời Heidegger? Để làm chi vậy? Thiên hạ ngờ nghệch cả sao?

 

Nhưng tư tưởng Socrate có chứa một phần Vô Ngôn của Platon. Ông nên khám phá sự vụ này trước khi “tiếp tục luận địa kia”.

(trang 38)

 

Sau cuốn “Sao gọi là không có Triết học Heidegger?”, ông còn cho ra tiếp cuốn “Trả lời chung nhân một tiếng Dasein”.

 

Chung quanh bộ sách “Tư tưởng hiện đại” của ông, có rất nhiều nguồn dư luận, xuyên tạc, đả kích. Như hồi đó, nhật báo Tự Do, trong một bài phê bình, tôi không nhớ rõ tên tác giả bài báo, đã dùng những lời chê bai thật quá đáng, tồi tệ. Khi ông lên tiếng, thì báo này trả lời rằng “với một người như Bùi Giáng phải dùng những tiếng đó mới xứng”.

 

Tuy nhiên, những chuyện lặt vặt đó, không làm ông quan tâm lắm. Ngay cả trường hợp T.T.Đ, ông bảo: “Tuy thế, hắn còn biết điều là im luôn và điểm đáng khen là dám đăng lên báo. Nhưng cái bọn nguy hiểm hơn cả vẫn là bọn trí thức dùng cái uy tín của mình, hướng dẫn đám hậu sinh vào con đường vong bản, lầm lạc bằng giọng ‘trịnh trọng, uyên thâm, lấp lửng’ ”.

 

Người ta đọc sách Bùi Giáng, và nghĩ rằng “thằng cha này in nhiều ghê!”, nhưng không mấy ai thấu rõ cảnh đau lòng, chua xót của họ Bùi, vì mỗi khi in một cuốn sách là một lần ông phải bán ruộng đất hương hỏa của song thân để lại, và đã từ lâu, ông không còn một mảnh đất nhỏ cắm dù tại nơi ông sinh trưởng nữa.

 

Những người thành khẩn, thiết tha vô vụ lợi với nền văn học nước nhà như Bùi Giáng quả là không có bao! Ngoài khía cạnh đam mê, nhiệt thành, ông còn là một người có sức chịu đựng bền bỉ hiếm có. Ông có thể nhịn ăn một tuần liền để đọc sách hay viết sách. Nhờ có căn bản ngoại như Anh, Pháp và Đức, lại thêm một bộ óc thông minh và một trí nhớ lạ lùng - chỉ nhớ những gì cần nhớ - còn quên hết, cả ngày sinh tháng đẻ; do đó ông còn có một tầm kiến thức vô cùng sâu rộng - mặc dù ông không hề đỗ đạt bằng cấp này nọ. Đã có người gọi ông là “mọt sách”. Nhưng nói thế là nhầm, bởi ông là người biết tiêu hóa, lọc lựa những gì hấp thụ được. Một bằng chứng cụ thể là bộ sách “Tư tưởng hiện đại” (3 quyển).

 

Riêng về hội họa, ông có ý định tổ chức một kỳ triển lãm từ lâu. Nhưng sau khi nhờ một người bạn xin phép giùm không được, ông chán nản không thiết vẽ nữa. Gần đây, ông định đốt bỏ tất cả số tranh hiện có (trên 100 bức). Ông bảo: “Tôi không muốn triển lãm nữa anh à! Tôi sẽ đốt hết. Tôi vẽ lúc tôi thích, lúc chán thì thôi! Đốt đi chứ để làm gì! Đời này có ai hiểu mình đâu anh!”

 

Với một mẫu người đặc biệt, khác thường như họ Bùi, tôi nghĩ, dẫu có viết cả trăm trang giấy về ông, cũng vẫn còn cảm thấy chưa đủ.

 

Nên chi tôi tạm ngừng tại đây những ghi nhận về khuôn mặt đời của Bùi Giáng và mời độc giả bước qua phần thứ hai. Ở phần này, tôi ghi lại những cảm nghĩ của tôi về tiếng thơ của một người được thời đại mệnh danh là “cuồng si”? hay gã “chăn trâu trên đồng cỏ Việt Nam?” Như ông, thỉnh thoảng vẫn tự nhận bằng giọng bỡn cợt, khinh bạc.

 

*

Bùi Giáng một trong những thi nhân cách biệt với đám đông, tuy xưa ông đã từng đăng thơ trên tạp chí Bách Khoa, Mai… Những tiếng thơ rất ít phổ cập đại chúng, ngược lại, ông là người được anh em trong văn giới tại đây nhắc nhở nhiều nhất. Không phải tại thơ ông khiến họ nhớ, cũng chẳng phải tại ông đã xuất bản nhiều trong vòng từ 1963 trở về trước, mà vì cuộc sống khác thường, tinh thần đôi khi bị mất quân bình, cũng như thái độ xử thế với anh em văn nghệ gây nhiều điều tiếng, nhiều giai thoại…

 

Nếu nghĩ về Bùi Giáng chỉ với chừng đó, tôi thấy quá bất công đối với ông, với một thi nhân ôm cao vọng về nguồn cội - đối với một tâm hồn vang vọng tiếng nói thâm sâu trầm kín của tinh túy đông phương nghìn thuở xa xưa, của lẽ huyền nhiệm đơn sơ đạm bạc. Tôi muốn đi vào thế giới tâm hồn nhà thơ này mong sao chụp vẽ được phần nào khuôn dáng đích thực Bùi Giáng, người đã bị đời mệnh danh là cuồng sĩ.

 

Bằng những bước chân thành thiết, tôi tìm vào vũ trụ thi ca họ Bùi. Cảm tưởng đầu tiên trực nhận được nơi quê hương linh hồn chàng là cái cảm tưởng bồng bềnh trôi nổi giữa một khoảng trời bao la, gồm chứa nhiều bỡ ngỡ - hoang mang - lạc lõng hỗn độn. Từ vùng ưu tư này trôi dạt sang vùng ưu tư khác - từ một không gian của Nguyễn Du trầm tư một niềm tin Thiên Mệnh, tới một không gian vang bóng Heidegger cùng những băn khoăn khắc khoải siêu hình.

 

Trong cái thênh thang rộng mở bốn trời đó - người ta cũng thấy một Bùi Giáng chân phương không son phấn điểm trang với những xung động, những khao khát hướng vọng về một vĩnh thể trì tồn, một vũ trụ miên trường - một Bùi Giáng lửng lơ giữa hai đầu tuyệt đối và hữu hạn - một Bùi Giáng ngụp lặn, khua rẫy trong màn lưới trầm suy bên những quay cuồng, điên đảo của kiếp người. Phải chăng ông cố dựng tạo cho mình một thế giới phức biệt trên từng cao, rồi đưa hồn mình bay bổng, vươn thoát, hầu ẩn trú chiếc hồn đơn lẻ?

 

Giấc xanh cô độc thề vàng
nguồn tiên nga dậy mơ màng gieo âm

Xưa một Huy Cận với

Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển
suốt một đời như núi đứng riêng tây

 

Vì tham chiếm, vì khao khát khôn cùng một vũ trụ bao la, một khoảng trời cao ngút, một thế giời mộng tưởng ngoài hư vô, với đôi tay bé mọn, với ý thức bất lực trong tầm định mệnh của thân kiếp trót sinh làm người để đến đỗi nhìn thấy hình hài cô đơn, trơ trọi, lạc bước giữa nhân gian.

 

Nay ở Bùi Giáng, cũng mang tâm thức tìm về nguồn trời lượng bể, tìm về với tinh thần hoằng viễn phương đông với tinh túy dân tộc luôn bừng bừng cháy rực trong tiềm thức:

 

Vì thiên cổ và bây giờ gần gũi
vì hôm nay là chính bữa hôm qua
thế nên chi anh xin trở lại nhà
vì hơi thở là linh hồn của phổi
vì máu se là nhịp đập của tim
thế nên chi anh ngồi ở dặm nghìn

 

“Xin trở lại nhà” và “xin ngồi ở dặm nghìn” quê hương chàng là cõi miên viễn (?), cõi trú của những tâm hồn mang ý thức bị đọa lạc, đầy ải, lãng quên. Đây cũng là tâm thức chung của đa số thi nhân hiện đại. Chỉ khác nhau ở chỗ có tìm cho mình một lối thoát, tự tạo cho mình một tiếng nói, một sắc diện độc đáo không chìm lẫn, một niềm tin siêu việt hay không mà thôi. Ở nhà thơ này, cũng với những khổ đau, những cào xé đay nghiến của kiếp người:

 

ngủ yên nghe rộng mười phương
mây trời tâm hướng thổi hương lại đèo
sịch bừng suối đá trôi rêu
ghềnh se sắt vó ngựa leo chán chường

 

Tư tưởng của hầu hết các nhà thơ hôm nay, người ta thường ghi nhận được một thực trạng không biết nên mừng hay nên buồn, đó là sự chịu ảnh hưởng một cách máy móc hay vay mượn, hình ảnh ngôn từ của những khuôn dáng danh nhân Tây phương như của Nietzche, Malrau, Camus, St. J. Perse, Paul Claudel, Jaque Prévert, Eluard… hoặc núp bóng trong những Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương…

 

Không mấy ai chịu quay về với Nguyễn Du, một tác giả hậu bán thế kỷ 18, một thiên tài thi ca V.N mà tôi nghĩ không một thi sĩ thế giới nào sánh kịp, họa may chỉ một Tagore của Ấn Độ.

 

Riêng Bùi Giáng, với khát vọng về nguồn, về với bản thể dân tộc, với tinh túy phương đông, chàng đã chấp nhận Kiều của Nguyễn Du như ngọn lửa thiêng soi sáng tâm hồn khắc khoải, bơ vơ, đưa dẫn chàng tới một vòm trời cá biệt riêng tư.

 

Nửa năm hương lửa đang nồng
bây giờ cố quâän xuống giòng viễn lưu
cõi cư trú rộng băng cần
nhịp thao thiết gọi về thâu thiên hà

(xuống giòng viễn lưu)

 

Hoặc:

 

tôi người viễn khách đa mang
lọ là thâm tạ con đàng ai đi
ngồi trong cỏ mọc xanh rì
cầu xin mưa lại đền nghì cho hoa

Mang trong tiềm thức của một mùa xuân tinh thể đã mất một hình ảnh đã nhạt phai, một thần tượng đã không còn chân đứng. Thi nhân bước vào đời, vào cuộc sống hôm nay như một lãng tử đi giữa quê người mà nắng gió hiền hòa đã chia xa; còn chăng chỉ là những lầy bùn, những thương tiếc đang ngày một lớn thêm, loang rộng.

 

Buổi về đắm lụy điêu linh
còn nguyên xứ sở nguyên hình chiêm bao
máu se tàn lạnh điệu chào
trên đầu phố lạ vẽ mầu quê chung

 

Quê chung ở đây phải chăng là cõi trú - là chốn dừng chân cuối cùng của những tâm hồn khao khát tìm ý nghĩa cho cuộc sống xô bồ phồn tạp, mà chiều sâu chỉ là một khoảng trống hãi hùng và bề mặt chỉ là những bon chen tư kỷ, những vật dụng nổi dềnh. Trước thực trạng đen tối đó, tất cả còn gì? Còn gì đâu! Kể cả những biểu tượng của những niềm tin thiêng liêng cũng đã xiêu đổ - khiến bước chân thi nhân trên lộ trình xuyên qua cuộc đời đi về tình người chỉ là những bước chân hẫng, hụt giữa một khoảng không chới với u mê. Cả phần đất mà vết dầu vật chất lẽ ra chưa đủ điều kiện, hoàn cảnh thấm tới, văn minh cơ khí chưa lan tràn xâm lấm được cũng đang xa dần, xa dần truyền thống đạo nghĩa thanh tao.

 

Tin từ cố quận bờ nương
hoàng hôn thâm tạ môi hồng bình minh
gửi trăng lục nhạc về ghềnh
bước du tử dựng miếu đền chiêm bao
mọc từ đất trích mòn hao
mùa xuân tinh thể xin chào bồng sơn
cổng xô còn vọng tiếng hờn
xin em ở lại bấm tròn cho cung

 

Ở Bùi Giáng, người ta thường bắt gặp những tư tưởng thâm sâu nhưng chua xót, những hình ảnh tượng trưng cho một dĩ vãng vàng son nhưng đã mai một. Là những chiếc lá rơi, là những cánh hoa hiu hắt thoáng bay, là những tiếng cười tố nữ mong manh, trong vắt thủy tinh, bàng bạc tiếng hò ruộng đồng, xa vắng như tư tưởng người xưa. Như một Huy Cận tiền chiến bằng trực giác, bằng linh khiếu thi nhân đã nhìn ngắm mùa thu đang chuyển mình qua ngàn cây núi thẳm:

 

Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về

 

Cũng thế, họ Bùi cam đành dìm đắm thân xác đọa lạc tâm hồn trong vũng lầy cuộc sống, trong những xao động u ẩn của nhân thế để tạo cho mình một kinh nghiệm, một tư-hữu-đau-đớn-xót-xa- rồi từ đó, ông đưa tư tưởng vươn thoát lên cõi miên viễn mà danh từ nhà thơ thường dùng là chốn vĩnh-thể trì-tồn.

 

sóng đi lớp mọc phiêu bồng
mang về thớ củi chất chồng mưa sa
thư cưu mỏng mắt hiên nhà
tròn như ngược tự người ta ngó người
đất xanh vẽ cỏ xa trời

 

Với ngôn từ dung dị, trong sáng, những hình tượng mang nhiều sắc thái quê hương Việt Nam cùng những địa danh đất nước, tôi muốn nói đó là những chất liệu chính mà Bùi Giáng đã phối dựng một vòm trời thi ca mang tên ông, một khoảng không gian mang linh hồn Việt Nam, mang linh hồn phương đông cổ kính, không náo hoạt, không sốc nổi hời hợt; mà trái lại, rất dịu nhẹ trầm sâu, phảng phất những nét khinh bạc kiêu sa, những dấy động dằn vặt đã lắng xuống đáy sâu tiềm thức để siêu hóa thành những khắc khoải tư duy:

 

giết linh hồn lúc nghiêng mày
mù sa xứ sở trùng vây hai miền

(Nietzche)

 

Hoặc:

 

Bây giờ tôi ngó bãi ngang
bên này dọc ruộng duỗi vàng hoe nương

 

Nói theo Hoài Thanh, Hoài Chân, khi kết luận về Huy Cận là: “… đã gọi dậy cái hồn buồn Đông Á, đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. Thì nay với nhà thơ Bùi Giáng, quả ông cũng đã đang nổi trôi trong nguồn suối sầu vạn cổ. Nhưng không phải vì thế mà Bùi Giáng giống Huy Cận. Bởi ở Huy Cận, đúng như Uyên Thao nhận định “ông là thiên nhiên từ trước khi thành thi sĩ…” (4) còn Bùi Giáng chỉ mượn thiên nhiên làm bối cảnh trải bày như Xuân Diệu hay lẩn vào thế giới nội cỏ mây ngàn, của trăng của gió… làm cõi ẩn trú cho những chán chường, mất mát lòng tin, sút giảm độ thành khẩn. Thiên nhiên trong thế giới thi ca Bùi Giáng là một thứ thiên nhiên phác vẽ, phối dựng bởi lý trí thức thỉnh và tiềm thức ấu thơ, làm bật nổi những đay nghiến khát khao hướng vọng về một giá trị thiêng liêng, một tinh thể sơ khai thánh thiện.

 

lạc về đầu rú truông khe
trút linh hồn giữa máu me xương rờn
chuyện đời đau khổ từng cơn
màu hoa cỏ mọc mang hờn phượng xanh
em về mùa hạ mông mênh
dựng hồn sông lục vây thành chiêm bao


hoặc:

 

Cánh tay trắng vói chùm bông kết trái vói chùm bông em vói hai tay vói nguồn phai nhạt đầu ngày mùa xuân mùa xuân và mùa xuân măng mọc mùa xuân ở lại vòng tay cánh trắng đi về với suối đi về với hoa không về được nữa…”

 

Trước những biến thái thảm bại, trước những suy sụp của hiện tại, một thứ hiện tại chênh vênh mất mát trước sự đi xuống, đi xuống mãi của những giá trị tinh thần, trước trào lưu văn minh cơ khí đang vùn vụt tiến tới, trước chiến tranh tàn phá, đục rữa mọi công trình, mọi cố gắng đi đến một đời sống xứng đáng hồn nhiên, thuần hậu, thi nhân tìm vào thiên nhiên, ẩn vào cõi trú thanh thoát của một vũ trụ trong sáng. Ở Bùi Giáng, thiên nhiên còn mang ý nghĩa một tinh thể, một quê hương khả dĩ dung nạp nổi một tâm thức đã quá sôi động, quá ray rứt hoài nghi sự lan tràn của cuồng lưu hiện sinh, của những thúc bách, những hoang mang trước bao nhiêu xung động, bao nhiêu ngược đảo xã hội đã đưa thi nhân đến đỉnh chóp bi thảm, đến chân tường ô nhục:

 

trong đời cây cỏ á đông
chết về một nửa trong đồng tây phương
một tà áo mỏng bay ngang
quần hoen ố đẹp hai hàng chân đi
(trong đời cây cỏ)

 

 

giữa đêm khép mở bùi ngùi
nhìn mơ hồ thấy một người xa xa…

 

Về với thiên nhiên, thi nhân nhìn nhận mình gần gũi hơn với quê nhà, với những gì Việt Nam thuần chất, những gì của Việt Nam đang tàn rữa, đang hằn in thương tích trên thân thể úa tàn. Càng tha thiết say đắm với tình yêu đất nước, với tình yêu tổ quốc bao nhiêu, họ Bùi càng cảm thấy đau xót, càng quay cuồng trong cái tuyệt vọng khủng khiếp của những bế tắc, những mặc cảm tủi nhục, ươn hèn - nhà thơ càng cảm thấy mình xa lạ - lạc lõng vì bất lực, vì ý thức được những gì đang và còn lụi nát, còn rời xa. Nhưng chỉ với một tâm hồn thành thiết, một nồng độ đam mê, một ý hướng mong muốn kéo lại, ghìm giữ, gọi về không thể nào đưa đến một biến thay. Cho nên, có lẽ chúng ta cũng nên thông cảm với họ Bùi khi ông có vẻ yếm thế, bi quan:

 

bây giờ sông rộng trời xa
bàn chân đo bóng mù sa chân trời

 

Cũng như một số nhà thơ khác, ông cảm thấy không còn gì đáng để bám víu, đáng để ngợi ca tôn thờ trong cái hiện tại loạn ly này. Ông về với cõi trú tư duy, nhưng không vì thế mà tiếng thơ ông chỉ là những mộng ảo không tưởng, những thanh sắc rạc rời, hời hợt bóng nhoáng kêu to những âm thanh của khuôn mẫu cũ. Trái lại, tiếng thơ ông vẫn chảy xiết, vẫn cuộn trôi bên nguồi cội sáng trong của đông phương, của ca dao hay của tinh túy dân tộc, của ý thức rực sáng bộc lộ một tâm hồn vươn lớn, thoát cao trên mọi thấp mọn thói thường thế nhân, để hòa mình vào vũ trụ thâm sâu, siêu thoát:

 

ngành cong vẽ lá trong lời
sớm miên mang vọng điệu người cổ sơ
chiều thơ dại nước khe mù
con chim về núi mộng chu-hán-đường

(vào nguyên thủy giục)

 

hoặc:

 

Bước qua rào lá nghe chim
chào cây có trái xuân tìm gió đưa
ngàn hoa rớt hột về mưa

(dệt áo)

 

hoặc nữa

 

vành cong chim nhớ buổi chuyền
rời sông bến đẩy qua miền đông du

(phusis sơ nguyên)

 

Trong thế giới cách biệt của riêng thi nhân, họ Bùi cũng không quên dựng vẽ một tình yêu mộng tưởng, một tình yêu mà chỉ có nhà thơ mới có đủ đam mê, đủ đắm đuối đón nhận. Người tình của Bùi Giáng không là một thể thực hiện hữu giữa một không gian hữu hạn như thế giới phàm nhân, người tình của chàng là Thúy, là Kiều, là tố nữ, là tiên nga, đúng hơn là biểu tượng của một tinh thể, một nguồn suối miên trường, thoảng như làn gió, như hơi thở nhẹ, buốt trong như tuyết băng, hay là chính dĩ vãng, chính tiền thân thi nhân.

 

Tam kỳ Rường quán ra sao
Tòa thiên nhiên nọ mòn hao bây giờ
Cầu xin tinh thể xuân chờ
Em là em của mộng chờ của em

(Em là Em của)

 

Hoặc:

 

Xa trời anh bỗng nhớ em
Giữa miền đất cũ xương mềm trong da
Rằng hồng nhan ấy đàn bà
Mà em cũng vẫn như là trăng xanh

 

Hoặc nữa:

 

Mở hai hàng cỏ lim dim
Màu phơi vô định mênh mông phượng quỳ
Nước xanh nương tử tên gì
Mỏng thân mở khép tuyết trì ngự da

 

Nhưng không phải ôm ấp một tình yêu trườu tượng không tưởng đó mà thi nhân không bị những đớn đau dằn vặt của tình yêu, bởi hồn vốn đa mang, tình vốn nồng nàn mê luyến hơn ai hết, cho nên Bùi Giáng trước sau vẫn không thoát khỏi phận kiếp nô lệ vì tình và có thể chết vì tình, vì cái nòi hào hoa, cái nghiệp tài tử

 

người bước xuống ngựa ngăn đường bốn vó
nghe âm thanh người khóc ở sau lưng
người tay vói bắt hờ bông phượng đỏ
người phố xanh cây lá rụng vô chừng
…..
sương chìm đắm đời anh trong huyền mộng
hờn nguyên tiêu bờ hy lạp sang đò

 

Với một tâm hồn đã trốn chạy vào cõi mộng, vào cảnh trí vô cùng của vũ trụ hư không, vẫn còn cảm thấy như bị lãng quyên bị ruồng rẫy đó, thử hỏi thi nhân còn gì để bám víu, còn gì để tin tưởng trông vào? Nhưng với Bùi Giáng thì vẫn còn ông còn - một niềm thành khẩn nơi tương lai, không phải cái tương lai gần gũi, sát kề hiện tại, ở đây tương lai là một kiếp mai sau, một kiếp mà thi nhân tin rằng mình sẽ hiện hữu trong khung trời ảo huyền đó:

 

một giờ tỉnh thức ra khơi
sầu reo bến trước đi rời cõi sau

 

hay:

 

đi về trong thế kỷ sau
nhìn trong mắt thấy trời đau trong mình

(đi về)

 

Bàn về nguyên nhân dấy loạn tâm hồn của Bùi Giáng, có người cho rằng đó là phản ứng của tri thức bị dồn nén cao độ trước cuộc chiến tranh phi lý đã và đang tiếp diễn. Cái điên loạn của họ Bùi cũng là cái điên loạn chung của đất nước này, của cả những ai có một chút ý thức về thân phận nhược tiểu đất nước; chúng ta đang ngoi ngóp khua vẫy trong cái thế cùng đường. Không bao giờ và không ở đâu có một dân tộc đau khổ vì chiến tranh như dân tộc Việt Nam. Đó cũng là nhận xét của Jules Roy, tác giả tập hồi ký “Trận đánh Điện Biên Phủ”. Thế hệ Bùi Giáng là thế hệ mà vừa sinh ra, mở mắt lớn lên, đã bị dập vùi trong chiến tranh vô cùng đau đớn nhục nhã, vì kẻ chiến thắng chưa chắc đã cần nắm được vinh quang, hãnh diện của sự thắng cuộc, trái lại họ sẽ phải gánh chịu điêu tàn trong mặc cảm ăn năn phạm tội. Cái phi lý cùng cực một ý thức: “Đều là nạn nhân và vật hy sinh trong thảm kịch tương tranh vẫn là nòi giống Việt”. Một thứ chiến tranh hủy diệt mọi cố gắng của con người muốn vươn, đạt, giành giựt lại quyền làm người. Một thứ chiến tranh đã xô ném loài người tới giấc u mê, đối diện với bất lực, với những khô héo tàn rữa:

 

Chín mùa đông đổ sau hè
Bây giờ máu đỏ trôi về tràng giang
Xuân rừng tía mộng lang thang
Bước chân về bỗng chìm ngang lưng đèo

(Rừng tía)

 

Nỗi u uất xót xa của Bùi Giáng không chỉ thu hẹp trong một phạm vi không gian hữu hạn. Ông mang nặng trong tâm tưởng của những nghiệm suy về cái bất hạnh chung của nhân loại và coi đó như một định luật bất biến. Một biểu tượng trong tầm định mệnh mặc nhiên. Trước những gẫy đổ, những mai mỉa của cuộc đời, con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc, nhưng chúng ta đã gọi về được gì, tìm thấy những gì cho nhu cầu tồn sinh thúc bách, ngoài những:

 

Con người là để chửa hoang
Khóc rưng rức để hai hàng xa nhau
Khép hang hở, để nghiêng đầu
Hốt hoa rụng để chia mầu chửa hoang

(chia mầu)


Ngoài những
Máu se từng sợi chỉ vàng
Chết ngang ngửa sống giấc bàng hoàng mê
Tỉnh say đứng phố ngồi hè

Khi viết về Gabriel Marcel, họ Bùi đã nhận định: “Tâm thức người thời đại chúng ta càng ngày càng duy lý một cách bướng bỉnh. Niềm tin Tôn giáo bát ngát khó mà thấm nhập vào tâm hồn những người có đầu óc khoa học. Hình như những danh từ văn minh tiến bộ, đã phờ phỉnh chúng ta, gạt chúng ta ra ngoài những truyền thống thần bí cương liệt”. (5)

 

Trước những gẫy đổ, xiêu nát chiến tranh, của dĩ vãng, mang trong tâm hồn những chênh vênh, hoài nghi của hiện tại, của nếp sống tinh thần đã bị biến thái, méo mó bởi sự rỗng trống niềm tin, tư duy bế tắc trước những hệ thống tư tưởng thời đại quay cuồng, con người càng ngày càng sa lầy trong cái hố phù phiếm của lý trí, của những khuynh hướng duy lý, bắt nguồn từ Hégel tới những tiêm nhiễm của lý thuyết duy vật biện chứng, khơi dẫn từ Marx, đã đưa chúng ta tới chân tường tuyệt vọng. Tới sự xa lìa tàn rã của tinh thể tâm hồn. Họ Bùi ôm ấp hoài bão muốn dựng lập lại cho mình, cho đời, một thế quân bình giữa lý trí phiến diện nguy hại và bản thể tồn sinh đang rạc rời. Như cơn gió mát, như hơi thở nhẹ, như lời vọng âm vang từ ngôn ngữ yên lặng của thiên nhiên hồn nhiên, dung dị. Nhưng trước mắt nhìn thi sĩ, cái không gian riêng tây, âm vang một tiếng nói tròn đầy truyền kiếp, một danh từ viết hoa từ thuở lọt lòng đã thoát xác, đã trở thành một vùng biển máu hòa chung nước mắt mang tên Việt Nam. Cái thời gian chảy xiết mấy nghìn năm cuốn trôi mệnh nước thăng trầm, có những khoảng khắc thăng hoa, nay chỉ còn là những con dốc đứng thẳng theo một chiều tăm tối, thảm khốc, gió mưa.

 

Bùi Giáng buột mất hay chúng ta buột mất, chúng ta buột mất hay nhân loại buột mất cõi trú của tương lai, sân ga của hiện tại, bến đậu của linh hồn đơn lẻ:

 

Tìm cố quận xanh mờ thủy nguyệt
Kiếm quên hương khóc bích ngạn đào
Nhung nhớ chết đọa đày biền biệt
Gió một vùng huyễn mộng chiêm bao

(Câu hỏi)

 

Những ray rứt, những đớn đau khoắc khoải của Bùi Giáng khiến ta nhớ tới một Tarrou trong La Peste của Camus. Chiến tranh cũng là một thứ dịch hạch mà hậu quả của nó là những nhát dao chém xả, lao tới, hay những làn roi cay nghiệt quật vụt xuống thân phân con người. Nó trở thành những ám ảnh siêu hình từ tiềm thức, vây hãm đến cả mộng mị chiêm bao. Vòng dây tuyệt vọng siết dần, thắt mãi, chặt lại, cuối cùng sức trì kéo của trọng lực tinh thần hoang mang, ý thức bi đát, đưa nhà thơ hay chính dân tộc ta chạm kề những điếm nhục thảm thiết:

 

Những bà mẹ khóc canh thâu
Ngàn năm có biết đất nào nấu nung
Làng kia lửa cháy điệp trùng
Bốn mùa thiêu đốt tận cùng hang con

 

Nếu chúng ta công nhận rằng tiếng thơ Thế Phong là của người lớn, của những ai muốn tìm vào sự thật của trạng huống xã hội điên loạn này, thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng Bùi Giáng là của những ai muốn tìm hiểu ít nhiều khía cạnh siêu hình, có từ một thi sĩ đã bị đời coi như mất thăng bằng trí não!

 

Quả thế, không những thế giới thi ca của họ Bùi rất bao la mà còn vô cùng phồn tạp, hỗn độn. Bên cạnh những câu thơ chứa chất những ảnh hình, những tư tưởng thâm sâu, thi nhân còn vô tình hoặc hữu ý, sắp xếp những bài thơ không những hỏng từ ngôn ngữ, từ hình ảnh đến cả nội dung nữa. Người đọc dù can đảm tới đâu, dù thân thiết với tác giả bao nhiêu chăng nữa cũng không thể chấp nhận nổi những bài thơ lục bát gần như vè, những bài thơ xuôi suốt một hai trang không hề có một dấu phẩy, cũng như ngôn ngữ lủng củng tới độ người đọc có cảm tưởng: nếu viết một vài giòng ra và không đề tên Bùi Giáng, dám chắc có người sẽ lầm tưởng đó là đoạn thư của một người nhà quê thiếu học với những lời lẽ nôm na dùi đục.

“Mùa lụt năm nay anh chèo ghe bắt cá hai con cả thảy bỏ vô nồi nướng đủ hai con một lần ăn hết trong miệng hàm răng em tròn như tiêu ớt no nê thiên thần trời cao té xuống cười như nắc nẻ…”

(Hạnh phúc)

 

Hoặc:

 

trời xanh úp mặt nghe tin
thôi rồi em má ri lyn đi rồi

(Trời khóc Marilyn)

 

Hoặc:

 

mở trong nguồn lệ phương tràn
cánh se dâu biển hồng tàn khép xiêm
lệch tà sổ đứt ra xem
mòm con mắt ngó ồ em em ồ

(Ồ em)

 

Hoặc:

 

trăm năm trong cõi người ta
thân còn chẳng tiếc lọ là ô Ri
riêng công chúa nọ Ly Kỳ
là tôi tiếc suốt li bì càn khôn

(Nhớ Chế mân)

 

Hoặc:

 

ở ngoài em có làn da
ở trong em có một tòa thiên nhiên
tứ chi là cẳng, tay mềm
trăm năm động đậy gọng kềm thiên hương

(Biết sao nói năng)

 

Hoặc:

 

mở hai hàng cỏ thơ ngây
mắt người nương tử đêm dày dạn sương
mở hai hàng cỏ lên đường
liễu in giòng rụng xin nường mở xem

(Tượng số thiên nhiên)

 

Nhưng xét cho cùng thì chính từ chỗ hỗn độn ngớ ngẩn, lăng nhăng đó đã cho chúng ta thấy rõ khía cạnh tâm thành của họ Bùi. Chính từ chỗ mà thoạt nhìn, chúng ta tưởng là những yếu kém, khiếm khuyết, của thi nhân lại là cả một dụng ý, cố tình của Bùi Giáng trước cảnh huống điên đảo điêu linh của đất nước này.

 

Bằng vào những yếu tính căn bản của con người, của xã hội đổ nát hôm nay, ông phủ nhận và cố gắng phá vỡ mọi hệ thống được dựng tạo bởi lý trí phù phiếm, khiếm khuyết, có tính cách xảo ngôn, ngụy trá của khuôn tắc duy lý, duy vật, kể cả quan điểm duy linh mà ông cho rằng sự vươn thoát vào cõi hư vô, huyền mộng với ý thức chạy trốn, quay lưng, tìm nguồn an ủi cho riêng mình. Vì theo nhận thức của thi sĩ, chính những hệ thống, những khuôn mẫu lý trí, máy móc đã đưa tới tình trạng phá sản, bầm giập của chủ thể tư duy, cản chắn hoài bão tìm về cõi siêu việt huyền nhiệm. Lối thoát thỏa đáng cho những bế tắc, những tuyệt vọng của tâm tưởng bệnh hoạn thế kỷ. Đây cũng là một lý do, không phải để biện hộ cho tiếng thơ mung lung, không đều giòng của Bùi Giáng vì nó chính là chủ đích của nhà thơ. Niềm ao ước gần gũi nhứt mà ông hằng ôm ấp là sự trở lại, quay về một nếp đời giản dị, tự nhiên như lá trên cây, như trăng sao trên trời, như nước xuôi chiều gió, như hơi thở của nhịp tim, như nụ cười trinh bạch trên môi người con gái. Cho nên chúng ta cũng không nên lấy làm lạ, tại sao thi sĩ có thể làm tới cả trăm ngàn bài thơ chỉ để ca ngợi một chiếc lá - một chiếc lá… mong thông cảm được lời chim chóc hồn bướm hoa vạn vật:

 

Cúi đầu tuân nhận lời chim
Mở hàng môi đỏ của tin cho đời

(cành cong thu đỏ)

 

Hoặc nữa:

 

hai bàn tay ngón tay xin
môi mơ màng đỏ của tin ngực tròn
nghĩa là hơi thở chon von
mở xuân thu sợ hao mòn tiếng chim
quay về ngủ mộng bình nguyên
còn mang trong bụng hình tiên nga ngồi
ngày mai mở mắt ngó trời
còn nghe trái đất suốt đời loay hoay

 

Tưởng rằng xa mà thật gần kề, tưởng khinh bạc kiêu sa mà thật đơn sơ thuần hậu, tưởng giông bão một vòm trời mê loạn mà thật trong sáng mơn man, tưởng không mà là… Cái hư ảo, thâm thúy phảng phất quạnh hiu, đơn lẻ của tiếng thơ Bùi Giáng ở đó, cái “lớn” của thơ Bùi Giáng ở đó. Phải chăng cái vô cùng nằm ngay trong cái đơn sơ mộc mạc, cái tuyệt đối nhìn thấy từ hữu hạn ý thức, cái siêu thoát, thoát từ nhơ nhớp lầm than. Cái tinh thể trì tồn giao hòa từ cỏ cây gỗ đá, trăng hoa, từ cồn bờ mương, từ chim muôn dã thú. Tiếng nói linh hồn Bùi Giáng là tiếng-nói-im-lặng-thiên-nhiên, của vô-ngôn-vũ-trụ-huyền-nhiệm linh cảm, của tiềm thức đơn thuần. Với một tiếng nói vượt ngoài tiếng nói, một tâm hồn đã lẩn tan trong từng thớ gỗ, sơ cây cọng lá… Do đó, ngôn ngữ chỉ còn là những xác hình vô nghĩa, và lý trí phù phiếm chỉ còn là lớp bụi bám, những đám mây vẩn đục bao quanh một tinh thể siêu việt mà thôi.

 

*

 

Ý nghĩa cuối cùng của tôi có lẽ là lời nhủ thầm cho chính tôi “Mi hãy bước tới bằng bước chân của gió - Mi hãy đi vào bằng cửa ngõ cảm thông - Mi hãy nhìn vào và soi tỏ khuôn mặt bằng ánh sáng của trăng - Mi hãy trút bỏ những hành lý hệ thống khuôn nếp mà đời đã trang bị cho mi - Mi sẽ tiệm cận hay giao thoa với vũ trụ vô ngôn, với cội nguồn tiếng nói đó. Và hãy nhớ - Khi Khổng Phu Tử hỏi các môn đệ cao thêm về khát vọng đời sống - Sự giải bày của các môn đệ tựu trung đều một lòng thành khiết kiến tạo xã hội, nâng cao đời sống con người. Chỉ riêng một Tăng Điểm khi được hỏi tới đã gõ đàn thưa rằng: “Tôi muốn mùa xuân mặc áo bông, rủ một bầy trẻ thơ ra tắm mát sông Nghi, trở lên, hóng gió nền Vũ Vu, rồi hát mà về”. Khổng Phu Tử đã gật đầu, buồn mà rằng: “Ta cũng chỉ muốn được như Điểm thôi”.

 

 

Chú Thích:

(1) Sài Gòn Kim Hải Việt Nam X.B năm 1962. Toàn bộ gồm 3 cuốn, làm một thời xôn xao dư luận thế giới văn hóa tại đây.

(2) Đây là một tập sách do nhà xuất bản Lá Bối ấn hành gồm những lá thư của Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện gởi cho Martin Luther King, J. P Sartre, André Malraux, Réné Char., H. Miller .

(3) Nhưng kết quả của của sự tạo dựng học thuyết Kant phải chăng đã không tạo lập sự liên lạc của việc hòa hợp giữa ý thức con người và ý niệm căn bản Siêu Hình Học? - Phải chăng sự thiếu liên lạc ấy đã không mang lại đường lối cho sự gây dựng học thuyết Kant?

Tuy vậy lời chỉ trích tư tưởng triết học của một triết thuyết có tính cách văn chương, chứng tỏ rằng không đủ để đặt vấn đề ý thức con người một cách giản dị, trái lại, sự mơ hồ của những lời chỉ trích cuối cùng cũng cho chúng ta thấy rằng chúng ta chưa đi vào vấn đề đó, ngay cả bây giờ, khi có được kết quả chắc chắn của sự tạo dựng căn bản cho học thuyết Kant (lược dịch của DTL)

(4) Lược khảo về thơ 1900-1959 quyển 2

(5) Trích trong “tư tưởng hiện đại” của Bùi Giáng – trang 9

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Bảy 2022(Xem: 6103)
23 Tháng Tư 2022(Xem: 18269)
23 Tháng Sáu 2021(Xem: 4845)
22 Tháng Sáu 2021(Xem: 4039)
22 Tháng Sáu 2021(Xem: 5119)
22 Tháng Sáu 2021(Xem: 3051)
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 21060)
Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, ra sao, thế nào khi đứng trước khu rừng có quá nhiều những gốc lạ, quý? Khu rừng thuộc quyền sở hữu của người dựng thành đêm-từ-biệt…Trần.
(Xem: 15944)
Đề cập tới sự nghiệp âm nhạc giá trị của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nếu chỉ nói tới khía cạnh thơ phổ nhạc (dù cho ông được ghi nhận như một thiên tài) mà không đề cập tới những lãnh vực khác, tôi cho là một thiếu sót không thể tha thứ.
(Xem: 17589)
Tuy nhiên, thế hệ 1940-1950, cũng lại là thế hệ cung cấp cho văn chương miền Nam 20 năm, những bài thơ, những trang
(Xem: 10305)
Loạt bài của Nguyên Vũ / Vũ Ngự Chiêu được độc giả, nhất là giới quân nhân đón nhận nồng nhiệt
(Xem: 18770)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 5127)
Tôi mượn câu thơ kết trong bài 'Đêm, nhớ trăng Sài Gòn' của Du Tử Lê để làm tựa cho bài viết này, bài viết về ông: Du Tử Lê - một nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn đối với văn chương Việt Nam.
(Xem: 1865)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 2415)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 2252)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 23567)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 20052)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 8861)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 9898)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 9274)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 12330)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 31818)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 21554)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 26602)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 24040)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 22833)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 20947)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18980)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 20157)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 17720)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16807)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 25881)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 33201)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 35609)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,