(Bài nói chuyện về thơ văn Du Tử Lê tại Hoa Thịnh Đốn ngày 11 tháng 5, 1997)
........
Tôi là người lúc nào cũng ao ước rằng cộng đồng Việt Nam p hải ngoại của chúng ta mỗi ngày một trù phú trên mọi phương diện, kinh tế, xã hội, cũng như văn hóa, để được các sắc dân khác nhìn chúng ta với sự kính nể, để tiếng nói của chúng ta có ảnh hưởng với chính quyền ở quốc gia chúng ta cư ngụ, và nếu cần thì chúng ta có thể dùng sức mạnh của cộng đồng áp lực để quê hương xưa đỡ lầm than, nhân quyền được tôn trọng, tương lai vận nước dược hanh thông. Vì thế mà mỗi lần được đọc một bài thơ dịch sang Anh ngữ của Du Tử Lê, được tin thơ anh đăng trên New York Times hay Los Angeles Times, hay thấy thơ anh được chuyển dịch sang Pháp ngữ hoặc Anh ngữ để giảng dậy trong chương trình văn học Việt Nam hải ngoại ở các đại học ở Aâu châu, là tôi thấy mừng rộn ràng, trước hết mừng cho Lê khi thấy thơ anh được các nhà văn học ngoại quốc chú ý tới, rồi mừng cho cộng đồng Việt mỗi ngày đạt được một bước tiến hơn lên, vì song song với mọi bộ môn kinh tế, khoa học, kinh doanh đủ mọi ngành chúng ta cũng phải tranh đua với các sắc dân khác về văn học và nghệ thuật.
Đại học Michigan, nơi tôi dây học, là một đại học lớn, tất nhiên có chương trình giảng dậy và nghiên cứu về mọi ngôn ngữ chính; tiếng Á châu đặc biệt có tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa, vân vân... Chính phủ Nhật Bản có lần tặng không vài triệu Mỹ kim để phát triển sự giảng dậy về Nhật học. Vậy mà người Việt mình chỉ tay không mà đã thuyết phục được nhà trường mở chương trình dậy Việt ngữ chính thức, mỗi khóa có hai hoặc ba lớp dậy, đi ngang qua lớp ta nghe thấy sôn sao tiếng Việt nói rộn ràng. Chúng tôi đã giúp Dặi Học
Cách đây mấy tuần, tôi được Thư Viện Trung Ương liên lạc và nhở tìm hộ cuốn thơ Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà / Your Scented Garden, My Nostalgia của Du Tử Lê; vì có một sinh viên Mỹ muốn đọc mà không có.
Để nhanh chóng và tránh những phức tạp hành chánh tôi nhận lời mua hộ và gủi tặng luôn. Mấy hôm sau, tôi nhận được thiếp cám ơn của ông Giám Đốc Thư Viện, dại diện cho Hội Đồng Nhiếp Chính Đại Học. Tôi xin trao lại thiếp này cho Du Tử Lê, ghi nhận là sáng tác của anh hiện nay đã nằm trên kệ sách thư viện cao, làm tài liệu nghiên cứu chocác sinh viên văn học Á Đông.
Trong những năm xa xứ, Du Tử Lê không ngừng sáng tác. Có thể nói thêm là anh đã sáng tạo, khai phá. Tôi yêu thơ của Du Tử Lê, hay đọc thơ anh, vì qua những dòng chữ mà anh cho là dồn dập như những hạt nước, theo tôi là những hạt ngọc, xô đẩy nhau gợi cho tôi nỗi khắc khoải yêu con người, dù đồng hương hay khác giống, nhớ tổ quốc xa vời, mòn mỏi đếm từng ngày xa xứ.
“đêm nghiêng bình rót ly không đáy
mỗi ngụm buồn, vui trớt tháng năm.”
Nhờ đọc thơ của Du Tử Lê mà nhiều khi tôi đã tưởng chừng vượt được ra ngoài không gian để đi nhìn về địa cầu nhỏ bé, nghĩ rằng đâu đó có quê hương mình. Qua những câu:
“núi thi sĩ phá vòng vây ngụy sử
em trưng bày tâm, tượng, bất an sông
mười thế hệ sạch trơn không dấu vết
trái đất buồn: hạt lệ đứng quay lưng.”
ta thấy con người dù nhỏ bé cũng đã vượt lên từng không xa vời. Tôi thích đọc thơ lục bát, vốn dĩ là do thói quen, thuở nhở đã học thuộc gần hết cuốn truyện Kiều của Nguyễn Du, mà Du Tử Lại ít viết thơ theo thể lục bát. Điều không ngờ là nhà thơ của chúng ta lại đã để rất nhiều tâm trí để có những thử nghiệm đổi mới về thể Lục Bát.
Trải những năm tháng qua, ta đã có lục bát trường thiên của Nguyễn Du, tuy đọc lên có nhiều chữ là, chữ rằng, chữ thì, nhưng vẫn tồn tại là áng thơ tuyệt tác, vẫn sống mãi là gia tài văn học của dân gian, xưq kia người Việt lấy 10 người thì có đến 9 người ít ra cũng thuộc vài đoạn. Sau này lại có thơ lục bát của Phạm Thiên Thư trong “Động Hoa Vàng” ta nghe tha thiết, có những hàng thơ quên dục, chim đi, trang kinh hiện hóa thiên đường. Rồi lại có lục bát của Bùi Giáng phong vận nguy nga, thiên nhiên về thiết lập tòa / mười muôn bến nước giang hà Cửu Long. Với Du Tử Lê, lục bát đã thành siêu lục bát.
Ý kiến sáng tạo để đổi mới thể lục bát của Du Tử Lê thật là độc đáo. Tôi phải thưa trước với quý vị thân hữu là tuy nghiên cứu về khoa học mà về văn học nghệ thuật tôi lại là con người ưa chuộng cổ điển, rất sợ những gì thay đổi một cách táo bạo. Chẳng hạn nếu có người nào cho tôi một bức tranh vẽ theo lập thể, kiểu trường phái Picasso, chắc là tôi không treo ở thư phòng. Có khi tôi lại nghĩ rằng vì không vẽ được những nét hiện thực nên người họa tranh mới quay ra lập thể. Nhưng nếu một hôm nào có người chỉ cho tôi coi một bức tranh cổ kính đẹp tuyệt với và nói rằng đó là tranh của buổi sơ khai của họa sĩ vẽ tranh lập thể đó, thì tất nhiên sự thán phục của tôi sẽ gia tăng gấp bội. Sự đó cũng như là tâm trạng kích động của mình một hôm gặp một con người bình dị, ngồi câu cá ven sông mà có người rỉ tai nói cho hay rằng mới tuần trước con người này đã ký một chi phiếu vài triệu Mỹ kim để tặng một cơ quan từ thiện.
Vì vậy, muốn thật hiểu con người Du Tử Lê, trước hết ta phải đọc thơ lục bát cổ diển của Lê. Trong bài Thấy Bình Minh Trên Sa Măc
“gọi ai gió nổi bốn trời
chiếc nhau tôi lạnh phía đời bên kia
mẹ nằm lặng lẽ trong khuya
lắng nghe biển dội lời thì thầm quên.
xương tàn một dúm chưa yên
cố lay lắt sống để đền lỗi con.”
Hỏi ai là người xa xứ còn có mẹ già đợi trông ở vòng nửa trái cầu, đọc những lời thơ này mà lòng lại không ray rứt?
Đọc thơ lục bát của Du Tử Lê, có chút dư âm của những nhà thơ nổi tiếng tiền chiến, nhưng nghe lại rất lạ, một cái gì chỉ có ở trong thơ của Du Tử Lê. Như bài “Cõi Tôi” anh viết mới đây:
“cõi tôi, cõi nát, cõi tàn
cõi hoang mang vội, cõi bàng hoàng, qua
cõi vui thân thể, cỗi già
cõi lang thang, mượn mái nhà hư, không.”
Đã viết được lục bát cổ điển để đưa tình cảm người đọc vào cõi siêu việt, giờ đây Du Tử Lê lại tiếp tục tìm tòi, đưa những ý kiến sáng tạo. Ai cũng biết rằng theo thể lục bát, chữ thứ tư ở câu sáu bắt buộc phải là trắc:
“Trăm năm trong cõi người ta
chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”
Thơ Nguyễn Đình Chiểu:
“Lênh đênh một chiếc thuyền tình
mười hai bến nước đưa mình về đâu?”
Hay thơ Nguyễn Bính:
“Lang thang anh dạm bán thuyền
Có người trả chín quan tiền, lại thôi.”
Hay thơ Bùi Giáng:
“Cõi phù trầm với phù du
một hàng mở gió thiên thu hai hàng.”
Những câu thơ lục bát của Du Tử Lê đã viết, dù không nhiều cũng dư thừa để anh ngang nhiên ngồi cùng chiếu với những danh tài thơ lục bát thượng thừa. Nhưng anh đã dũng mãnh khai một san đạo khi đề nghị rằng nếu cần diễn tả tâm trạng cho rộn ràng, hay làm cho câu thơ thêm trang trọng thì có thể bỏ âm trắc, như câu anh viết:
“Tôi Lê. Lê. Lê. Lê nào?”
Không những thế anh lại đặt câu 6 này là câu cuối trong bài. Dứt bài thơ một câu ngắn ngủi, lại có âm bằng, tạo cho ta một bâng khuâng, vương vất, trong cái thiếu thốn lại nẩy ra một dư hưởng lê thê, ngập ngừng của du tử. Lê đã vạch ra một con đường rẽ từ thể lục bát, nhưng không phải I cũng đi theo được vì con độc đạo này chưa phải là con đường mòn đã có nhiều chân dẫn lối. Tỷ dụ, tên tôi là Vinh, và tôi có bắt chước Du Tử Lê mà viết lại rằng:
“Tôi Vinh. Vinh. Vinh. Vinh nào?”
thì không phải là thơ mà là tiếng của một người nói lắp. Rồi muốn cố tình để trở thành vần lục bát thì rồi cũng phải đổi chữ thứ tư thành âm trắc, rồi viết thêm một câu 8 chữ với sáo ngữ chẳng hạn:
“Tôi Vinh. Vinh, biết Vinh nào,
Nhìn trăng viễn xứ dạt dào tình thương.”
Đọc lên dù nghe thấy có vần điệu, nhưng câu thơ thật là giả tạo, và cũng vì thế xưa nay không ai gọi tôi là thi sĩ.
Như một tráng sĩ đi tiên phong, Du Tử Lê đề nghị dùng gạch chéo / Slash/ như một đao pháp để hoán chuyển chữ trong một câu thơ.
Chẳng hạn trong 2 câu:
“còn / rừng / gương / soi cho tôi
bao dung / núi / đợi. Nghiêng vai / sông / chờ.”
có đến 7 gạch chéo để người đọc có thể hiểu và hoán vị thành: tôi soi gương, hay rừng soi gương, hay rừng còn soi gương, hay gương soi rừng... Lối hoán vị này đã cởi những trói buộc cho thơ. Sau này, ở thế hệ tới, tôi tin chắc sẽ có nhiều bạn trẻ khi làm thơ lục bát đổi mới, sẽ thầm cám ơn Lê đã chỉ đường vạch lối cho họ.
Điều sau cùng mà tôi muốn nói là tập Chuyện “Tiếng Kêu Nào / Bên Kia Thời Tiết/” là cuốn sách thứ 33 mới đây của Du Tử Lê. Theo lời tác giả đây không phải là một tập TRUYỆN, mà là tập CHUYỆN , hiểu theo nghĩa tập văn tâm sự của Du Tử Lê, như anh đãviết chuyện của chúng mình theo van xuôi, với tâm hồn của một nhà thơ. Với Du Tử Lê, chúng mình đây không phải chỉ có riêng ta với mình, mà chúng mình thay đổi liên miên bất tận với thời gian và không gian. Tên những người trong chuyện tôi không biết là giữ nguyên hay thay đổi, nhưng qua những bài vừa là hồi ký, vừa là tùy bút, viết chuyện nay, hay chuyện xưa, ta sẽ thấy những Donna, những kỷ niệm thời trẻ ở Indianapolis, ở Chicago, những ngày thơ ấu chạy loạn ở Kim Bảng, Phủ Lý, Nho Quan, những nỗi buồn tang tóc, những ngày tới thăm Song Thành ở Minnesota một buổi sáng, mưa ướt lạnh buốt tận xương. Nhà thơ, mà giờ đây là nhà văn đã kể lại những ngày ở Cali, mảnh vuờn sau ngôi nhà ở Ranchero Way, những kỷ niệm với bằng hữu, những tháng năm đầu tiên di cư, vừa làm khuya vừa viết những bài thơ như “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn” đề tặng Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, bài thơ đã làm nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương để ra nửa năm trời để vật lộn mới phổ nhạc thành một bài hát tuyệt vời, vì trong thơ đã có nhạc rồi, phải gỡ ra rồi mới soạn lại được. Phạm Đình Chương đã thành công với bài “Mộng Dưới Hoa” của Đinh Hùng, lại thành công với “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn” của Du Tử Lê.
Qua những trang sách ta theo anh trong đoạn đời trên đất khách, theo anh từ
Qua những trang sách, khi đọc lên ta như vẳng nghe có tiếng hát, có lời thơ, có cung nhạc, và ta cũng thấy đưa ra mùi son phấn, nhìn thấy những ánh tóc vàng, và cũng có cả những khuôn mặt thuần túy Á Đông chưa có vết dao sửa. Đọc cuốn sách này ta sẽ cùng đi với Du Tử Lê con đường anh đi những năm vừa qua.
TOÀN PHONG-NGUYỄN XUÂN VINH.