“mỗi chúng ta là một vùng đất trũng
“mà đau thương là mạch nước trôi xuôi.”
thơ dtl.
Tháng Tám ra đi nhưng không quên gửi lại cho tôi nhiều tin buồn lớn! Tôi muốn nói tới chuyến “đi xa” của nữ danh ca Minh Trang, người bạn đời của cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Bà mất ngày 17 Tháng Tám! Một tuần sau, tới lượt ca sĩ Thúy Nga, tức bà quả phụ Hoàng Thi Thơ, từ trần: Ngày 24 Tháng Tám!
(Những người ở thế hệ của tôi, nhiều người còn giữ được hình ảnh ca sĩ Thúy Nga, tóc thề, áo dài trắng nữ sinh, với chiếc Accordion tự đệm cho mình hát vào những năm cuối thập niên 1950, ở Saigòn.)
Những tưởng sự mẫn cán của thần chết dành cho giới làm văn học, nghệ thuật ở quê người như vậy, cũng đã vượt “chỉ tiêu!” Ai ngờ, chỉ ba ngày sau, 27 Tháng Tám, một buổi chiều từ chỗ làm, T. gọi về báo tin:
“Anh Thảo Trưởng mất rồi!”
Đang viết bài, tôi buột miệng hỏi một câu vô nghĩa:
“Chắc không? Sao T. biết?”
“Gia đình của anh ấy gọi đến NV báo tin.” T. đáp.
Tôi bần thần đứng dậy. Ra vườn. Ngồi bên hồ cá. Nói thầm mấy câu với tác giả “Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp.” Như với chính mình!
Tháng Tám trao tay lái chiếc xe thời gian cho Tháng Chín. Tháng Chín ngồi chưa ấm chỗ, đã hấp tấp gõ cửa ngôi nhà bằng hữu tôi, cho tin:
“Nhạc sĩ Trần Quan Long không còn nữa.”
Theo tấm lịch treo tường của tôi thì, đó là ngày mồng 3 của mùa thu miền nam
Lần này, tới phiên tôi báo cho T. biết. Tôi nghe được trong im lặng của T. những mũi kim lao xao chạm tới các đầu dây thần kinh liên tưởng...
Chỉ 2 tuần thôi, tôi lui tới Tang Môn Quán Feek Family Funeral Home ba lần. Nhiều và nhanh tới độ, một nhân viên ở đây ngỏ lời chia buồn với tôi. Ông ý nhị pha loãng nỗi buồn tử biệt sinh ly bằng câu nói vui (không cười nổi):
“Tôi đoán chừng ông không có ý định tìm việc ở đây?”
“Vâng. Hẳn nhiên là tôi không có ý định ấy. Nhưng tìm một chỗ nằm ở đây thì có.” Tôi đáp.
Vẫn bằng giọng đùa vui nhẹ nhàng (không cười nổi), ông bảo:
“Khi nào tới lượt ông, tôi sẽ lo cho ông ‘đảm bảo’ chu đáo.”
Tôi cảm ơn và kể khá nhiều bằng hữu của tôi, cuối cùng, đã tìm đến nơi này. Tôi nói, có những người theo trật tự của sự xếp hàng dọc, thì họ ở sau tôi xa lắm. Vậy mà vì lý do nào đấy, họ đã tách khỏi hàng. Xăm xăm đi trước… Làm như vội vã đi xa kia, hiểu theo một nghĩa nào, cũng là một hạnh phúc. Thứ hạnh phúc ngần ngật đớn đau người ở lại.
Mỗi lần tới Peek Family, trong tôi lại âm vang một câu trong bài “Thánh Hỏa Ca” của “Minh Giáo” trong truyện chưởng “Cô Gái Đồ Long” của Kim Dung.
Đó là khi toàn bộ “cán bộ đầu não” của Minh Giáo bị những người thuộc phe “chánh phái” vây khổn trên Quang Minh Đỉnh. Với cái chết đang lầm lì xiết chặt vòng vây, họ quây quần quanh đống lửa, cùng hát bài chia tay trần gian.
Trong bài hát ấy, có một câu đại ý: Sống không hẳn đã vui, chết chưa chắc đã buồn. Vậy thì hà cớ gì chúng ta không hát ca trước khi cùng chết…
Đó là những trang sách tôi đọc nhiều sớm mai, lúc chờ người phụ trách mở cửa căn phòng ở tòa nhà chính của Peek Family, cho tôi vào thắp nén hương đầu ngày cho mẹ tôi. Trước khi anh tôi và, những người viếng thăm tìm đến.
Đó là những ngày đầu tiên của trung tuần tháng Mười Một, 1988, thời điểm mẹ tôi từ trần.
Đã hai mươi hai năm, khi đó, Feek Family còn xa lạ với cộng đồng người Việt ở quận hạt
Xa hơn nữa của ký ức tôi, là cuối thập niên 1960. Thời điểm chúng tôi dọn về căn phòng ở đường Hồng Thập Tự, trong khu cư xá Bưu Điện, đối diện căn nhà số 7 (Cư xá Thành Tín. Trụ sở chính của hai đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do và, Gươm Thiêng Ái Quốc (tiền thân đài Mẹ Việt
Tôi không biết có phải vì ở khúc đường rất ngắn này có tới hai cư xá lâu đời; nên người ta đã lợi dụng khoảng trống giữa bức tường thấp và, hông cư xá Bưu Điện để giăng bạt, bày xe bán từ bún riêu, bún bò Huế, phở tới bánh cuốn, cháo gà, xôi lạp xưởng… Khiến nó trở thành một thứ “foods court” nổi tiếng, không chỉ với cư dân thuộc hai cư xá vừa kể mà, còn “hút” khách từ đài Truyền Hình Việt Nam cũng như nhân viên của đài phát thanh Saigòn (đầu đường Phan Đình Phùng,) đi tắt qua bức tường vỡ…
Thời gian này tôi gặp tác giả “Viên Đạn Bắn Vào Nhà Thục” gần như mỗi sáng.
Khi ấy Thảo Trường phục vụ tại cục An Ninh Quân Đội. Sáng nào ông cũng tới sở sớm. Cất xe. Đi bộ vài chục bước. Tới căn nhà tôi ở. Dùng loa tay, ông gọi tôi đi ăn sáng.
Ông không phải là người kiệm lời. Nhưng khi dùng loa tay gọi tôi, ông chỉ xử dụng một trong trong hai “khẩu lệnh”:
- “Thằng Lê dậy chưa, ra mau, tao cho ăn sáng!” (Hoặc)
- “Lê ơi, dậy đi. Ra ăn sáng với tao!”
Tới hôm nay, tôi vẫn không rõ khi nào bạn tôi dùng “khẩu lệnh” thứ hai, tương đối nhẹ nhàng, êm ái hơn “khẩu lệnh” thứ nhất. Chỉ nhớ, dù với “khẩu lệnh” nào, khi ông bắc loa miệng gọi tới lần thứ ba, bao giờ bác chủ nhà cũng rụt rè gõ cửa phòng tôi, nhắc: “Ông ra mau, bạn ông đang đợi.”
Trước “vấn nạn” này, tôi cũng không biết có phải bác chủ nhà vì lòng tốt không muốn bạn tôi phải đợi lâu? Hay chỉ vì bà sợ nếu để Thảo Trường “ra lệnh” thêm một lần nữa thì, cường độ “khẩu lệnh” sẽ “tăng tốc,” khiến đứa cháu mới mấy tháng tuổi bà có thể giật mình. Khóc thét! Tuy nhiên, dù tôi ra nhanh hay chậm, bạn tôi luôn hỏi “Hôm nay mày muốn ăn gì?” Trước khi tự gọi món ăn cho mình.
Đó cũng là thời gian rất nhiều bằng hữu của chúng tôi “đi xa.” Không ít người chúng tôi mới thấy đó… bỗng được tin họ tử trận!
Gặp nhau trong tình cảnh ấy, lần nào Thảo Trường cũng lắc đầu. Ngao ngán. Chúng tôi không biết nói với nhau điều gì, khác hơn câu nói quen thuộc Thảo Trường dành cho tôi, như một điệp khúc:
“Đời sống sao buồn quá!”
Phần tôi, cũng chỉ có một câu trả lời (lập lại):
“Ừ! Đời sống buồn quá!”
Khi ấy, chúng tôi đều là lính, hiểu theo nghĩa cái chết đối với chúng tôi đã mặc nhiên sẵn đấy. Như khí trời. Nhưng thú thật, chẳng vì thế mà chúng tôi có được cái tinh thần “cười cợt” trước sự chết, như những người thuộc phe “ma giáo” trong truyện chưởng Kim Dung! Chúng tôi vẫn mừng rỡ gặp lại nhau sau những chuyến công tác dài ngày.
Trước đó một năm, Thảo Trường rủ tôi in chung với ông một tập truyện. Ông bảo tôi chỉ việc chọn truyện… Ông đã liên lạc với Thế Nguyên. Trình Bày sẽ phụ trách tất cả những việc còn lại.
Do đấy, trên nguyên tắc Thảo Trường là người có quyền chọn một nhan đề truyện ngắn của ông, làm nhan đề chung cho cả tập. Nhưng ông nhường quyền ấy cho tôi. Ông bảo:
“Mày chọn đi. Nhan đề một truyện ngắn nào đó của mày, làm tên chung tập truyện của hai đứa.”
Tôi chọn một nhan đề truyện của tôi:
“Được lắm. OK ngay. Tao không biết nội dung truyện ấy của mày thế nào. Nhưng với tao, hai chữ ‘Chung Cuộc’ mang ý nghĩa chúng ta cùng chơi chung một cuộc chơi…” Rồi như để tôi khỏi áy náy, ông tiếp:
“Nhưng tao giao trước rằng, tiền tác quyền cưa đều đó nghe…”
“Đương nhiên,” tôi đáp.
Thuở ấy, đa số các nhà xuất bản chưa quen với nguyên tắc trả bản quyền cho tác giả theo kiểu tính phần trăm trên giá bán, trên số in. Thường thì hai bên thỏa thuận với nhau một khoản tiền nào đó. Xong, tác giả giao bản thảo cho nhà xuất bản và, không bận tâm nữa. Nhưng nhà Trình Bày của Thế Nguyên thì khác. Thế Nguyên cho tôi biết, Trình Bày sẽ trả tác quyền cho tác giả là 10% tính trên giá bán và số in. Lại nữa, nhà Trình Bày cũng có “tục lệ” khi in xong một tác phẩm, sẽ mời tác giả đi ăn tối cùng một số thành viên của nhà xuất bản. Tôi và Thảo Trường đương nhiên được mời, sau khi Thế Nguyên giao sách cho nhà Hiện Đại, phát hành.
Tuy nhiên, tôi suýt hố nặng, nếu Thảo Trường giải thích thêm rằng, nhà xuất bản chỉ đài thọ tiền ăn cho một mình tác giả mà thôi. Muốn đem theo một người nào khác, tôi phải cho Thế Nguyên biết trước. Và tôi sẽ là người trả phần sai biệt.
“Nhưng không sao,” Thảo Trường nói. “Mày muốn mời ai cũng được. Khỏi hỏi thằng Thế Nguyên. Tao sẽ lo cho mày chuyện ấy…”
Buổi họp mặt ăn nhậu mừng tập truyện “Chung Cuộc” ra đời, (1) cuối cùng đã diễn ra một cách suôn sẻ tại một nhà hàng… thịt chó, bên hông vườn Tao Đàn. Tôi và Thảo Trường đi mình ên. Phía bên nhà xuất bản, ngoài Thế Nguyên còn có Diễm Châu, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Ngọc Lan… cũng mình ên.
Nhắc lại những chuyện này, tôi chỉ muốn nhấn mạnh, bề ngoài tác giả “Thử Lửa” to con, dềnh dàng, đen… ròn. Ông di chuyển cẩn trọng, nhanh nhẹn như một con beo gấm, lúc nào cũng trong tứ thế sẵn sàng tấn công. Hay như một tay chơi giang hồ thứ thiệt… Nhưng bản chất ông lại là người thích nuông, chiều bạn. Bất cứ ai khi trở thành thân thiết, đều được ông đối xử ân cần, tế nhị. Như sự tế nhị, ân cần mà, người ta có thể dành cho một tình nhân.
Thời gian tôi còn ở thuê trong một căn nhà thuộc cư xá Bưu Điện cũng là thời gian Thảo Trường được mời viết một feuilleton cho nhật báo Tiền Tuyến. Ông đặt tên cho tiểu thuyết này của ông là “Bà Phi.”
Anh em văn nghệ không ai thắc mắc “Bà Phi” có thật? Hay chỉ là nhân vật tưởng tượng? Chỉ biết ngay từ những kỳ báo đầu tiên, truyện “Bà Phi” của Thảo Trường đã lôi cuốn người đọc. Đồng thời Thảo Trường cũng nói, đó không phải là một tiểu thuyết thường. Nó là trường thiên dầy trên nghìn trang. Khi công bố ý định của mình, ông dọa:
“Có khi báo Tiền Tuyến chết ngắc mà, “Bà Phi” mới chỉ đi được nửa đoạn đời… Chừng đó, tao không biết phải cho bà ấy ‘tái giá’ với ai nữa!”
Giữa lúc feuilleton “Bà Phi” của Thảo Trường tăng dần độ “nóng,” thì một buổi trưa Thảo Trường điện thoại cho tôi, bảo ra ngay Pagode:
“Bà Phi muốn gặp mày!”
Café La Pagode là “tụ điểm” một thời của văn nghệ sĩ Saigòn tính tới ngày 30 tháng 4-1975. Ở đó mọi người không chỉ biết mà, còn rõ cả tính nết của nhau. Khi tôi ra tới, Thảo Trường và Bà Phi đã ngồi sẵn nơi một trong hai chiếc bàn kê giữa hai chiếc cột gỗ vuông, lắp kính một phần, giữa quán.
Bà là một phụ nữ cao lớn. Rắn chắc. Duyên dáng… Nhiều phần hơi… bị khác những gì Thảo Trường mô tả trong truyện. Suốt cuộc gặp gỡ, Bà Phi tuyệt nhiên không hé lộ một chút gì về thân thế mình. Thảo Trường cũng vậy. Tôi không biết và, cũng không thấy tiện hỏi tên bà. Chúng tôi đồng tình gọi bà là “Bà Phi.” Cá nhân bà, lâu lâu cũng tự xưng mình là… “Bà Phi.”
Qua những lần gặp lại nhau sau này cũng ở Café La Pagode, tôi chỉ biết đại khái Bà Phi không ở Saigòn. Bà có business ở nhiều nơi, luôn cả ngoại quốc (?) Một tháng đôi lần bà về Saigòn, chỉ để thăm tác giả truyện… “Bà Phi” mà thôi.
Tôi không biết có phải vì bà Phi không muốn gặp những người bạn khác của Thảo Trường, hay do thói quen nghề nghiệp mà, không lần nào tôi thấy Thảo Trường mời những người bạn khác của chúng tôi ở Pagode ngồi chung bàn với họ.
Khi tôi gặp Bà Phi cũng là lúc rạp Rex mới chiếu phim Doctor Zhivago với tên Việt là “Vĩnh Biệt Tình Em" (?) Thảo Trưởng có đôi nét hao hao giống Omar Sharif, tài tử chính gốc Ai Cập trong phim. Một lần, tôi hỏi Bà Phi có biết chúng tôi gọi Thảo Trường là Omar Sharif Việt
“Chắc vậy!”
Tôi nghĩ bạn tôi có vẻ thích thú với so sánh này. Bằng chứng sau đấy, mỗi khi gọi tôi để thông báo chuyện Bà Phi, Thảo Trường bảo “Lara mới về!” Phần ông, những khi cao hứng cũng xưng: “Omar Sharif gọi mày đây!”
Cuối năm 1972, chúng tôi rời khu cư xá Bưu Điện về làng Báo Chí Thủ Đức. Khoảng cách địa lý cũng như tình hình chiến sự leo thang khiến Omar Sharif/ Thảo Trường không còn cơ hội ban “khẩu lệnh” cho tôi mỗi sớm mai. Chúng tôi ít gặp nhau. Nhưng do một chuyện không vui, tôi lại được biết rõ hơn công việc của bạn tôi ở cục An Ninh Quân Đội.
Số là trong mấy năm cuối cùng của miền Nam Tự Do, tôi có hai người bạn vướng vòng lao lý. Họ bị tạm giữ ở cục An Ninh. Mỗi khi muốn gặp bạn, tôi phải tìm Omar Sharif của tôi tại nơi ông làm việc. Nhờ thế, tôi biết tác giả “Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng” sự thực chẳng giữ một chức vụ, hay một vai trò ghê gớm gì, ngoài việc biên soạn… tài liệu học tập cho cục!
Trước đó như đã nói, vì bản chất Thảo Trường kín đáo, ít tâm sự nên dù chơi với nhau thân thiết bao nhiêu năm, tôi vẫn hình dung bên cạnh con người nhà văn, trong tưởng tượng của tôi, ở đời thường có thể bạn tôi là một thứ James Bond, điệp viên… thượng hạng, ngoại hạng!!!
Năm 1993, tôi đang ở
Người đón và chở tôi đến gặp Omar Sharif của tôi là Trần Duy Hòe, em ruột của Thảo Trường/ Trần Duy Hinh. Hòe nói:
“Thảo Trường nôn gặp mày lắm.”
“Tao cũng vậy. Mày thấy nó sao?” Tôi hỏi.
Hòe cười:
“Gặp rồi biết.”
Sau mười tám năm bặt tin mới được gặp lại nhau, tôi còn nhớ cảm giác nôn nao, đồng thời lo lắng của mình. Tôi nôn nao gặp bạn và, lo lắng không biết thời gian có cho lại chúng tôi những ngày tháng cũ? Tôi hiểu mười bảy năm tù đầy là một điều gì quá ư khủng khiếp. Nếu không có một nghị lực phi thường, tôi nghĩ khó ai có thể tồn tại trong hoàn cảnh cùng những điều kiện sống thua cả cầm thú!
Bên cạnh đó, không hiểu tại sao, tôi lại thấy mình như có lỗi! Như không phải với bạn! Mặc dù những người di tản từ năm 75 như chúng tôi, cũng có những thảm cảnh mà người đi sau khó thể hình dung. Chưa kể đời sống riêng của cá nhân tôi còn rách nát hơn nữa.
Gặp lại Omar Sharif của tôi trong ngôi nhà khang trang ở thành phố Huntington Beach, để được thoải mái, chúng tôi kéo nhau ra hiên sau, nơi nắng chiều chan hòa nhất.
Bề ngoài, bạn tôi không thay đổi nhiều sau hơn một năm được vợ, con chăm, bón từ hải ngoại. Cạnh đó, bạn tôi cũng có vài thay đổi. Tôi cảm nhận được khá rõ. Đó là cử chỉ của bạn tôi có phần chậm chạp. Tinh thần thì mạnh mẽ, lạc quan hơn trước. Nhưng, đáng kể nhất đối với tôi là sự thay đổi cách xưng hô của bạn.
Tôi không biết đổi thay này do bạn tôi phải giữ ý trước mặt vợ, con? Hay từ nguyên nhân sâu xa nào khác? Chỉ nhớ, thoạt tiên tôi ngỡ ngàng. Cũng nhiều phút sau, tôi mới quen khép mình theo cách xưng hô “anh anh, tôi tôi” của bạn.
Thảo Trường nói rất ít về những năm lao tù, dù tôi hỏi và muốn nghe. Ngược lại ông bảo ở Việt
Cũng có những lúc chúng tôi im lặng nhìn nhau. Lặng lẽ hút thuốc. (Thời gian mới tới Mỹ, Thảo Trường còn hút thuốc.)
Với tôi đó là giây phút tôi sống lại với Saigòn. Với Hạnh Thông Tây. Hồng Thập Tự. La Pagode. Bà Phi/ Lara. Với cả những “tai họa” mà tôi mang tới cho bạn. Nhiều lần tôi định hỏi ông về Bà Phi, nhưng luôn kịp giữ lại. Tôi cho tốt nhất nên để bạn mình tự ý.
Tới lúc phải ra về, tôi nghĩ, dường như hình ảnh Lara trong Omar Shrif của tôi, không còn nữa. Nó như chiếc lá đã lìa cành. Đã dạt, trôi cõi khác.
Đêm xuống nhanh khi tôi ngồi vào chiếc sofa nơi chiếc nhà kho biến thành phòng làm việc của tôi và Trần Duy Đức, nhiều năm trước. Chiếc cửa sổ duy nhất, nhỏ xíu trên cao mở hết cỡ, vẫn không nói với tôi điều gì khác câm nín. Ngột ngạt.
Tôi mượn điện thoại của Đức gọi ngược về
Đêm đó, tôi nằm mơ thấy tôi được ngồi trên chiếc xe jeep của bạn tôi, đi cùng khắp Sàigon. Gặp lại từng khuôn mặt. Trò chuyện, la hét ì xèo với các bằng hữu một thời Pagode. Chỉ một người tôi không gặp lại (trong giấc mơ), là Bà Phi.
Phải chăng khi một chiếc lá đã lìa cành, thì chính nó cũng không biết nó sẽ dạt, trôi về đâu? Huống hồ kẻ đứng ngoài nó!
Trở lại
Đó là thời điểm tôi lặng lẽ quyết định bỏ ngang tờ Văn Nghệ. Chấm dứt ngang chương trình điều trị bệnh thyroid mới đi được khoảng một phần ba đường. Cắt đứt mọi liên lạc dù với những người thân nhất. Tôi “chạy trốn” ngày tháng, giống như tựa một tác phẩm của Thảo Trường, xuất bản năm 1964 ở Saigòn.
Ẩn mình trong căn nhà dưới đáy một con dốc của Nguyễn Văn Phán/ TQLC ở
Toan tính thực hiện một buổi “
Hai năm sau, trở về
Một lần khác, cũng tình cờ tôi gặp ông ở nhà hàng Tài Bửu. Khi đó nhà hàng này còn ở gần ngã tư đường Magnolia và Bolsa. Bạn tôi vẫn đi ăn với người vợ "như vầng trăng vằng vặc thủy chung" của mình.
Lần đó, Omar Sharif ra hiên ngồi cùng bàn với tôi, nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Tony Hoài (và vài người bạn trẻ khác của Hoài.) Biết mình không có nhiều thì giờ, bạn tôi lại nói ngay về cuốn thơ “
Tôi cũng nhớ có lần tôi còn nhấn mạnh, nếu không tin tưởng tôi, ông có thể giao cho T… Nhưng câu trả lời của ông trước, sau vẫn là cái lắc đầu. Dứt khoát! Hay ông thấy tôi không xứng đáng có lại một đứa con tinh thần của mình? Có thể.
Dĩ nhiên, bạn tôi có lý!
Lần gặp đó, ông kể thêm, trong tù hằng đêm ông nhẩm đọc bài “Thạch sùng” in trong tập thơ ấy. (2) Bài thơ nhỏ kia, đã ở với ông lâu tới độ bây giờ ông cố khu trục nó khỏi đầu mà không được.
Tôi tự hỏi, phải chăng vì bài thơ khởi đầu với những câu như:
những lúc ngủ tôi thường quen lập lại
một điều gì in là tôi đã nói
và đôi khi cũng lầm bầm
những khao khát từ lâu tôi hằng dấu kín
dù mơ ước không bao giờ làm nên sự thực
nhưng giúp mình bật dậy ở ngày mai
để kéo tiếp đời lên dốc đá
chờ một giờ
bỗng, buột ngã, xuôi tay…
Hay:
tôi sống như thạch sùng
đêm chép miệng từng hồi kiếm bóng.
…
hãy cố sống đời ta
đừng vẽ lầm dung nhan kẻ khác…
Hoặc giả ngay tự năm, tháng quê nhà, ông đã thấy tôi (chúng tôi) là hiện thân của câu thơ:
mỗi chúng ta là một vùng đất trũng
mà đau thương là mạch nước trôi xuôi…
Phần nào ứng hợp với kiếp tù-không-án của bạn tôi? Nên nó ở được với ông như người “bạn vô hình” (chữ của Thảo Trường) trong đêm đen lao xá một phần đời ông?
Ở những lần gặp tình cờ sau đó, chúng tôi không nhắc nữa, quá khứ.
Tôi vẫn nghĩ kho ngữ vựng của Thời Gian rất giới hạn, nghèo nàn. Suốt ngày nó đắc chí với hai chữ “lãng quên.” Như thể nó đã mua đứt bản quyền từ ngữ này.
Mặt khác vẫn theo tôi, nó lại có phần hơi… bị “tửng” khi ra mặt đố kỵ hai chữ “lập lại!” Tuy nhiên, cách gì tôi cũng phải nghe lời nó.
Tôi hiểu, thời gian không cho phép chúng tôi lập lại hẹn hò một buổi “
Thời gian cũng không cho phép tôi kể, cuối thập niên 90, đầu tân thiên niên kỷ 2000, tôi nhận được điện thoại của Bà Phi, gọi từ thành phố San Jose. Đó là thời gian bà thình lình xuất hiện như sự hóa thân bất ngờ của chiếc lá lìa cành dạt, trôi đã lâu. Bà nói bà đang gọi tôi từ nhà hàng “Hàng Xanh” nằm trên đường
Đó là đoạn: “Đêm về theo bánh xe qua/ nhớ tôi xa lộ/ nhớ nhà Hàng Xanh/ nhớ em kim chỉ khíu tình/ trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre…”
Nhưng ngày 1 Tháng Chín vừa qua, khi cùng Phạm Phú Minh, Đạm Thạch, Đặng Phú Phong dàn hàng ngang, thắp nén hương trước linh cữu tác giả “Những Miểng Vụn,” tôi nghĩ đây là lúc tôi có thể “kể” chuyện Bà Phi… cho bạn tôi nghe mà, không sợ mang tội với ai. Cũng không ngại bạn tôi, bối rối!
Tôi cho, thời gian dù quyền năng tới đâu, cũng có lúc sẽ bị thần chết vô hiệu hóa.
Đó là lúc con người thực sự được giải thoát khỏi nhà tù mang tên Thời Gian. Để bạn tôi tự do bước tới với những “… mơ ước không bao giờ làm nên sự thật.” Tự do “chép miệng mỗi đêm tìm bóng.” Hoặc giả, mỗi chúng tôi, dù chỉ là “một vùng đất trũng” thì, cũng sẽ không bao giờ “vẽ lầm dung nhan kẻ khác.”
Du Tử Lê,
(
---------------------------
Chú thích:
(1) “Chung cuộc,” tập truyện Thảo Trường, Du Tử Lê. Trình Bày xuất bản. Saigòn, 1969.
(2) Muốn đọc trọn bài, xin quý bạn gõ vào tiểu mục “Du Tử Lê, những bài thơ cũ.”