Tuy nổi tiếng ngay với hai ca khúc đầu tay “Chuyến đò vỹ tuyến” và “Kiếp nghèo,” nhưng theo tôi, đó chỉ là hai đòn bảy để cõi nhạc Lam Phương vươn tới những chân trời rực rỡ khác.
Một trong những chân trời mà cõi-giới âm nhạc Lam Phương vươn tới, thành tựu, như một dấu ấn riêng, nghĩa là những người cùng thời với ông, không có được. Đó là sự thể hiện trung thực những nét đặc thù của miền nam Việt Nam, trong những năm đầu, kể từ thời điểm lịch sử đất nước bị chia đôi hai miền Nam / Bắc.
Nhìn lại dòng chảy của nền tân nhạc Việt Nam, giai đoạn 1954-1960, các nhà phê bình âm nhạc ghi nhận rằng, gần như hầu hết các nhạc sĩ của chúng ta, ở giai đoạn vừa kể, ít hay nhiều, đều đề cập tới cảnh thanh bình, đời sống an lành, sung túc của mảnh đất miền Nam. Cùng những đặc tính hiền hòa, đôn hậu, hiếu khách của người dân nam bộ. Nhưng tôi nghĩ, có dễ chỉ riêng một Lam Phương bằng vào nốt nhạc, ca từ của mình, đã vẽ được toàn cảnh miền nam và tâm tình người dân miền Nam, một cách trung thực, lấp lánh nắng, mưa êm đềm của giải đất phù sa, trù phú này.
Điển hình như ca khúc “Khúc ca ngày mùa” được Lam Phương viết xuống từ giữa thập niên (19)50. Đó là thời điểm hơn một triệu người miền Bắc vô Nam, đã hòa nhập đời sống, tâm tình họ vào miền đất mới. Ở ca khúc này, tính chất thanh bình, tính đồng nhất bắc / nam trong nhịp đập thương yêu, thuần lương và, niềm tin đương nhiên vào hạnh phúc, tương lai đời sống ở miền Nam được Lam Phương khắc, họa lại (bằng nốt nhạc và ca từ), như những nét khắc và những sắc mầu cụ thể - - Khiến tôi có thể đi tới kết luận rằng: Những người dù không sống ở miền Nam trong giai đoạn vừa kể; luôn cả giới trẻ lớn lên ở quê người, vốn không có một chút ý niệm gì về cảnh thổ mà ca khúc này đề cặp tới, khi nghe, cũng có thể hình dung cảnh thổ của phần đất, nơi mà ông bà, cha mẹ họ đã một thời sinh sống:
“Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát
“Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác
“chiếu hồn quê bao khúc ca yêu đời
Mừng trăng lên chúng ta cùng múa hát
“Ước mong sao lúa hai mùa thơm ngát
“Lúa về mang bao khúc ca tuyệt vời.
“Lờ lững trôi qua trôi mãi trong chiều tà
“tiếng tiêu buồn êm quá
“Hồn ngất ngây trong tiếng hát đưa nhịp nhàng
“tiếng cười thơ ngây
“Mịt mùng đêm thâu cung hằng chênh chếch bóng
“khuất sau rặng tre
“Tiếng ai hò chập chùng xa đưa
“Hò là hò lơ hó lơ hò lơ
“Nầy anh em ơi ! Giã cho thật đều, giã cho thật nhanh
“Giã cho khéo kẻo trăng phai rồi
“Khoan hò khoan tiếng chày khua vang mãi trong đêm dài.”
Cũng chỉ với Lam Phương, qua ca khúc “Nắng đẹp miền nam,” ông đã cho thấy sức sống, sự chan hòa tình người, không phân biệt nam, bắc, thành phần xã hội:
“Đây trời bao la ánh nắng mai hé đầu ghềnh lan dần tới “đồng xanh.
“Ta cùng chen vai đem tay góp sức tăng gia cho người người
vui hòa
Đường cày hôm nay lên tràn bông lúa mới ôi duyên dáng đồng ơi!
Đên mai sẽ là ngày muôn hạt chín lả lơi mình ngắm nhau cười.
Kìa đàn chim quê chim tung bay về đâu mang tin rằng giờ đây ta sống với bình minh
...
Đây quê hương thân yêu miền nam
Nắng lên huy hoàng đẹp mùa vui sang."
Tôi không biết chính xác, khi Lam Phương sáng tác ca khúc này, lúc ông bao nhiêu tuổi?) chỉ biết một chắc một điều, khi ấy ông còn rất trẻ. Ở độ tuổi thanh niên, mới chia tay thời niên thiếu, mà ông đã viết "buột lòng mình vào nứi sông..." tôi nghĩ khó ai có thể biểu tỏ tình yêu quê hương, đất nước một mạc mà nồng nàn hơn ông được.
Trong khi tàng tân nhạc Việt Nam, ngày nay, vẫn còn lưu truyền những ca khúc đẹp, viết về thời thanh bình của miền Nam trước đây của khá nhiều nhạc sĩ tài danh. Nhưng, ca từ của ca khúc đó. hoặc quá bóng bẩy, lãng mạn, hoặc thậm xưng, cực tả với ngôn ngữ bác học...Theo tôi, vốn không phù hợp với bản chất đơn giản, chân chất của hồn tính con người và đất Nam Bộ.
Phải chăng, đây cũng là một rong những lý giải thích hợp nhất, cho sự kiện những ca khúc viết về miền Nam của nhạc sĩ Lam Phuong, tự thân, đã định vị cho nó một chỗ đứng đáng kể trong tâm hồn đám đông. Đó là chúng ta chưa kể tới khả năng đem vào các khúc ca mình, làn hơi hò-miền-nam của tài năng này.
Nhưng song hành với những ca khúc ngời ngợi ánh sáng tin yêu và sự đồng cảm của đám đông, bên cạnh những thành tựu vang dội, như những vòng nguyệt quế rực rỡ hạnh phúc thì, ở một góc khuất nào khác, trong đởi thường, Lam Phương cũng không ngần ngại gửi tới số người yêu mến ca khúc của ông, những tự sự, như những khoảng tối. Lặng. Tê. Điếng. Của riêng ông:
“Em ơi nếu mộng không thành thì sao
“Non cao đất rộng biết đâu mà tìm
“Đường đời mịt mời vạn nẻo về đâu
“Mong chờ duyên kiếp đưa lối bắc cầu.
“Em ơi nhắc lại phút xưa gặp nhau
“Trên đê vắng người lúc tan chợ chiều
“Ngại ngùng mỗi lần anh đến tìm em
“Má em ửng hồng vì quá thẹn thùng.
(Lam Phương, trích “Duyên kiếp.”
Hoặc nữa:
“Đời là vạn ngày sầu biết tìm nơi chốn nào
“Ta quen nhau bao lâu nhưng tình đã có gì đâu
“Nhiều khi anh cũng muốn biết bao giờ sẽ có tình yêu
“Cho lòng không thấy quạnh hiu khi đêm rừng buông xuống tịch liêu…”
(Trích “biết đến bao giờ,” Lam Phương).
Trung thành với ca từ thành khẩn, chân chất, như một loại “ID,” thẻ nhận dạng cõi giới âm nhạc của mình, nhưng qua ca khúc “Duyên kiếp,” giới thưởng ngoạn lại nhận được từ nơi người nhạc sĩ trẻ tuổi, tài hoa phát tiết quá sớm này, một thứ “ID” khác. Nó như mặt bên kia của đồng tiền hạnh phúc. Nó như mặt khác của khán đài vinh quang.
Tôi muốn hỏi, phải chăng, đau khổ, tuyệt vọng luôn là thuộc từ, là mặt trái, mặt khuất lấp của những tấm huy chương danh vọng?
Nếu sự thực đúng là như vậy thì, cũng phải chăng, ngay tự những năm đầu trên lộ trình sáng tác ca khúc, Lam Phương đã có những dự báo, những tiên tri bất hạnh thuộc phần đời riêng của ông, sau này?
Du Tử Lê,