* Câu hỏi của Hoang Nguyen
Khởi
đầu nhà văn Hoàng Chính đã đến với văn chương như
thế nào? Khi qua nước ngoài ông còn hành nghề chính của
mình là bác sĩ không?
* Hoàng Chính trả lời:
Đến với văn chương hay văn chương đến với mình. Tôi loay hoay hoài với ý nghĩ đó từ khi đọc câu hỏi của anh / chị Hoàng Nguyễn. Còn nhớ như in năm đệ lục. Bài luận văn thể loại kể chuyện. Tôi viết về một người bạn cùng lớp chuyên bắt nạt kẻ khác. Tôi gầy gò, yếu đuối, nên cũng là một nạn nhân. Anh ta tên T., có cái sẹo lớn bên thái dương. Bạn bè gọi là T. Sẹo. Bài luận văn được thầy đọc cho cả lớp nghe. T. Sẹo tức lắm, đòi đấm tôi vỡ mũi, nhưng không làm gì được, vì tôi có số đông (những kẻ bị áp bức). Khi bị đón đầu sau giờ học, tôi lúng túng biện minh bằng câu thần chú có những chữ quyền tự do ngôn luận (hình dung một thằng bé - người ta vẫn mỉa mai một cách dễ thương là miệng còn hoi sữa – dựa hơi lũ bạn vây quanh, gân cổ đem hiến pháp nước Việt Nam Cộng Hòa có điều khoản về tự do ngôn luận ra, tự biện hộ ở sân trường). Ấy là tác phẩm văn chương “dấn thân” đầu tiên. Có nên xem đó như bước đầu mình đến với văn chương? Hay là văn chương đến với mình?
Chắc là cả hai đều không rồi!
Nhớ thời tiểu học, thơ ấu tôi không có thả diều, bắt dế dù tôi lớn lên ở làng quê. Sơn Trà, Đà Nẵng. Những trò chơi trẻ thơ tôi luôn dính dáng ít nhiều đến chữ nghĩa. Tôi làm báo một mình. Tờ giấy trắng xé từ trang vở, gấp làm tư làm tám. Những dòng chữ nắn nót. Những tranh vẽ tỉ mỉ bên cạnh các bản tin. Độc giả là mấy cô em gái. Những độc giả đầu đời thường khi phải đánh vần tin tức. “Tin giờ chót: Thứ sáu bố mới đi hành quân về.” Sao bố đi hành quân hoài vậy? Độc giả bé con thắc mắc. Chủ báo chuyển câu hỏi cho mẹ. Con mắt mẹ ướt nhòe. Không nhớ lần ấy mẹ tôi đã trả lời thế nào cho con bé em ngây thơ. Nhưng tôi nhớ rõ thứ sáu ấy bố không về được, vì mới có thêm trận đánh nào đó ở Bồng Sơn. Hôm sau, tờ báo phải đăng tin cải chính. Cái tên Bồng Sơn bây giờ tôi vẫn nhớ. Hơn nửa thế kỷ rồi.
Những chuyện vặt vãnh trẻ con ấy chẳng biết có thể coi là dấu vết của một nhập cuộc, của sự bước chân vào một nơi chốn?
Chắc cũng không rồi!
Rời tiểu học, tôi vào Sài Gòn. Bố mẹ sợ miền trung ly khai. Mỗi tháng một lần, tôi đi bộ ra ngã tư Xóm Mới, mua một cuốn Tuổi Hoa. Cái truyện ngắn đầu tiên trong đời viết về một gã (nhân) vật kiến kiêu căng rụng mất một sợi râu trong cuộc hơn thua nhỏ nhen, đã vung gươm xưng hùng xưng bá trong một tổ kiến gồm toàn những kiến thợ siêng năng, được đăng trên tờ báo thiếu nhi ấy có thể coi như bước đầu tìm đến với văn chương không nhỉ?
Chắc lại cũng không rồi!
Năm đệ tứ, đi với đứa bạn lên đài phát thanh Sài Gòn lãnh tấm ngân phiếu giải thưởng thơ. Cũng năm đệ tứ, gom những bài thơ mày mò viết từ thời vào trung học. Mua giấy stencil, mỗi chiều thứ bảy theo bố vào Tổng Y Viện Cộng Hòa nhờ cái máy chữ, đánh những trang bản thảo đầu tiên. Người quen làm ở đài truyền hình Sài Gòn đem vào chỗ làm quay ronéo giùm. Hí hửng đem về nhà cắt dán, đóng tập. Mùa Thu Hoang Đường. Tặng sách lần đầu tiên cho một cô gái không còn nhớ tên ở Sài Gòn, có bà mẹ làm Nha Sĩ (hay chuyên viên răng giả gì đó).
Có thể khoe là mình đã đến với văn chương từ lúc ấy không. Chắc lại là không rồi, dù bài thơ trúng giải được Hồ Điệp và Hoàng Hương Trang ngâm trong đêm giao thừa, dù cậu tác giả học trò đã được cô gái (con nhà giầu kia) yêu cầu ký vào trang đầu tập thơ in ronéo lem luốc.
Cũng từ năm đệ tứ, tôi bắt đầu đỏ đen với truyện ngắn, trên hai tờ nhật báo ở Sài Gòn. Truyện được đăng thì có tiền nhuận bút. Báo Trắng Đen: một ngàn, báo Tiền Tuyến: năm trăm. Người bạn cùng lớp có sứ mạng lân la chuyện trò với cô gái ở sạp báo ngã tư Xóm Mới, xem ngày nào truyện được đăng thì mua tờ báo ấy. Bởi khi lãnh nhuận bút phải mang theo thẻ căn cước, thẻ học sinh và trang báo có truyện được đăng. Tôi cắt những cột báo đăng truyện mình để dành thành một xấp, mỗi lần mở ra xem mực lại lấm lem những đầu ngón tay. (Sau 75, cứ mỗi lần “chiến dịch”, lại một đợt sách vở ra đi. Những trang báo có truyện ngắn tôi theo nhau lên dàn hỏa. Tôi ngẩn ngơ tiếc nuối không biết bao lâu.)
Sau một đợt truyện ngắn, báo Trắng Đen chọn ra những truyện hay, trao giải. Buổi phát giải có bữa tiệc thịnh soạn trong một nhà hàng lớn ở Sài Gòn. Đến bây giờ tôi chỉ còn nhớ hai thứ: con cua rang muối to hơn cái đĩa chưa ai kịp động tới thì nhà hàng đã dọn đi, và lúc trao cái bao thư tiền thưởng, thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà (“Hoa trắng thôi cài trên áo tím”) đã bắt tay tôi và bảo: “Cố lên, năm tới trúng giải nữa nhé!”
Câu khuyến khích làm tôi thất vọng, cho đến tận bây giờ.
Vậy thì những truyện ngắn (có nhuận bút hẳn hoi) đăng trong Tiền Tuyến, Trắng Đen có thể xem như bằng chứng của sự “đến với văn chương” không?
Chắc là không rồi!
Cùng với những mộng mơ mới lớn tôi lân la vào Tuổi Ngọc. Chuyến nhuận bút đầu tiên: chồng sách tặng của Duyên Anh, Đinh Tiến Luyện, Từ Kế Tường… Con mắt ngưỡng mộ của đám bạn cùng trang lứa; cảm giác lâng lâng khi lạc giữa Sài Gòn một buổi chiều tìm địa chỉ Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa đâu đó trên đường Công Lý còn mãi trong trí tưởng. Thế nhưng giữa cái thời rực rỡ của những Khởi Hành, Văn, Vấn đề, Bách Khoa… thì Tuổi Ngọc chỉ là trang báo học trò. Vậy thì khi có những truyện ngắn thể loại “Bông hồng cho tình đầu” đăng trên Tuổi Ngọc, mình có thể tự hào rằng mình đã đến với văn chương không?
Có lẽ không!
Bởi ấy chỉ là những mơ ước trẻ con, những vẽ vời niên thiếu.
Khi tôi bắt đầu viết được những câu, những chữ có gói ghém chút tâm tư thì đất nước đã đổi thay. Đưa bài thơ vô tội vạ cho báo xuân trong trường cũng được yêu cầu bỏ cái bút hiệu ngày xưa đi.
Biết làm sao bây giờ!
Đến Canada. Bài thơ tình đầu tiên (ký tên thật) trên Làng Văn cải lương như thế này:
thì thôi
lúc rước dâu về cứ vui
cuống quýt
có hề chi đâu
lại còn ngóng trước
trông sau
thấy tôi chi
để cơ cầu sớm hôm
Lúc đăng trên báo “thấy tôi chi” được sửa thành “lấy tôi chi” khiến tác giả đang là kẻ thắng lớn bỗng thành kẻ thua đau. Vậy thì cũng không thể kể lần ấy là lần chính thức đến với văn chương, cho dù Làng Văn những năm 80 đầy ắp những tác giả quen tên của Sài Gòn thuở trước.
Rồi truyện ngắn đầu tiên viết ở hải ngoại Mùa Thu Cuối Cùng - da diết với chuyến dang dở đầu đời - đăng trên tạp chí Văn Học ở California, chẳng hiểu sao, cứ làm tôi nghĩ là đã đánh dấu bước đầu tiên mình đến với văn chương, có phải chỉ vì nhà văn Nguyễn Mộng Giác (chủ bút Văn Học lúc ấy) điện thoại cho tôi, bảo: “Viết vậy sao không viết nhỉ!”
Và tôi mang ơn câu khích lệ ấy.
Và tôi đinh ninh mình đã đến với văn chương, dạo ấy.
Năm 1983 cô em gái bên nhà (vị độc giả nhi đồng đã đánh vần từng chữ trong bản tin trên “trang báo” ngày xưa) chép những bài thơ chi chít lên những trang giấy mỏng - những bài thơ dạo tôi còn loay hoay với những công tác y tế ở Đồng Xoài, ở khu kinh tế mới Lê Minh Xuân, ở phòng trực bệnh viện Chợ Rẫy… viết ra chỉ biết nhét sâu vào ngăn tủ - gửi qua. Gom góp thành tập, đưa bản thảo cho Làng Văn. Ngồi với nhà thơ Cung Vũ soạn thơ. Anh bảo nhiều bài như thế này sẽ dày lắm. Thơ không nên in dầy. Tôi nhắm mắt lấy đại ra một số bài và đưa anh phần còn lại, anh bảo, “Chưa bao giờ thấy thi sĩ nào chọn thơ nhanh và liều như vậy!”
Đứa con đầu lòng ra đời ở xứ người. Nửa Đêm Nghe Mẹ Thở Dài. Làm sao quên được một đêm chợt nghe tiếng mẹ thở dài lẫn trong tiếng chó sủa và tiếng công an lao xao ngoài ngõ. Có những điều nói hoài không hết. Nên từ đó những tập truyện; ngắn, dài theo nhau ra đời. Tôi viết nhưng cứ nơm nớp lo âu có một ngày mình thành cũ kỹ, nhàm chán.
Chín mươi triệu người nói tiếng Việt trên thế giới. Những điều mình viết ra ở xứ người, bằng tiếng Việt, số người đọc, lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Vài truyện ngắn Anh ngữ, phát thanh trên BBC, những đồng nghiệp người Canada thích thú đón nghe càng làm tôi thấy dường như đó chỉ là sự nôn nóng của một người da trắng vào tiệm Việt Nam, háo hức chờ tô Vietnamese soup có cái tên “phở” phát âm lơ lớ.
Đôi khi tôi tự hỏi, vậy thì, mình đã đến được với văn chương chưa.
Chắc là chưa. Và câu trả lời cho anh / chị Hoàng Nguyễn là viết thì viết thế thôi chứ thật lòng, tôi không biết mình đã thực sự đến được với văn chương hay chưa.
Chuyện (nghề) tay trái thì lung tung như thế, còn chuyện (nghề) tay phải thì đơn giản thế này:
Đến Canada 1982, tôi đậu bằng tương đương y khoa xứ này (những hai lần trong mười năm đầu) nhưng lại làm (toàn những) nghề chẳng dính dáng gì đến ống nghe và toa thuốc. Ngặt nghèo lắm mới phải bỏ quê nhà mà đi. Các bạn cùng lớp tôi bây giờ toàn những trưởng khu, trưởng khoa; những trưởng nọ, phó kia. Bây giờ đời sống bớt đọa đày, không biết những người bạn thầy thuốc của tôi có thời gian ngồi bên giường người bệnh, rỉ rả những “chuyện kể bên giường” như (nhân vật) tôi thuở nào?
Bây giờ tôi chẳng còn nhớ trái tim bình thường ở phía nào trong lồng ngực. Nhưng lo làm gì, bởi tôi biết trái tim những kẻ có lòng có thể ở bất cứ nơi nào: ở đuôi con mắt, ở đầu ngón tay, ở trên những ngọn cây, trong những mái tranh lụp xụp, cuối những con hẻm hẹp hòi đời sống, ở trên trang giấy hay ở ngay cả trong ngăn tủ, nơi người ta thường giấu những trang thư.
Cám ơn anh / chị Hoàng Nguyễn đã cho tôi dịp ngồi nhớ lại những khoảnh khắc dễ thương và xin quý độc giả (đã bỏ thì giờ nghe chuyện dông dài) rộng lượng với những mảnh “tôi” rất trẻ con, dù cho tới hôm nay nhìn lại mình, thấy vẫn chẳng lớn hơn đứa bé năm xưa chút nào.
***
Chuyện
Kể Bên Giường
truyện
ngắn - hoàng
chính
giai
phẩm Chủ Đề
số 14
1
Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không
đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết
không phải là chọn lựa thích hợp, rằng đâu đó trên
thế gian này vẫn còn một người yêu thương cô hơn yêu
thương chính mình, rằng trong những thứ con người có
được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một
mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha
tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm
tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé
đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Đã muộn
mất rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho
cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn
là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết.
2
Có nên vô thăm con nhỏ đó không. Cô y tá hỏi
tôi. Những người mới ra trường - mà thiên hạ gọi đùa
là ma mới - hay hỏi lẩn thẩn. Cách tốt nhất là đừng
bận tâm trả lời. Tôi ngó đôi mắt một mí rồi đón
lấy tập hồ sơ mỏng, nhìn lướt dòng chữ nguệch ngoạc
mà đêm trước loay hoay với con bệnh, tôi đã sai y tá
viết vội. Cái tên đồng quê, nơi những bụi chuối rì
rào sau khoảng vườn xanh um cây trái. Cái tuổi là của
một người vừa bắt đầu biết liếc dọc liếc ngang
khi đi qua quán nước có bọn trai trẻ ồn ào cụng ly, gõ
muỗng. Tôi nheo mắt cố nhớ cái địa danh ở tuốt đâu
trong xó kẹt một huyện lỵ miền sông Hậu, nơi phải
quá giang đò máy mỗi lần ra phố chợ.
Ông thầy
nhớ cẩn thận. Cô y tá dặn dò. Hồi hôm con nhỏ đó
dợt bác y công ể mình luôn.
Tôi nhìn cái dáng
mỏng như tàu lá chuối. Sao vậy?
Ông thầy hỏng
tin hả. Cô đẩy khẽ tôi đứng yên một chỗ rồi chạy
vụt đi. Cái bóng nhỏ bé trong chiếc áo choàng lùng thùng
luồn lách giữa những giường bệnh, ghế ngồi, chiếu
rách và người chen chúc nhau trong khoảng hành lang hẹp.
Cái bóng thoăn thoắt gợi nhớ đến đám chuột nhắt
thường xục xạo kiếm ăn ở phòng trực. Những con chuột
bé tí nhưng khôn và nhanh hết biết.
Vài giây sau
cô trở lại, kéo theo người y công. Nhùng nhằng như hai
người bắt nợ. Ông thầy coi mặt chú Tư nè. Sưng thấy
sợ luôn.
Tôi nhìn cái trán giồ lên một cục mầu
đỏ thẫm. Sao vậy?
Con nhỏ đó đó. Ma mới trả
lời hớt.
Người đàn ông thấp bé đưa tay đỡ
một bên đầu, nheo mắt suýt soa. Hồi đêm con nhỏ tỉnh
dậy, thấy nó khát nước tội nghiệp, tui đem nước cho
nó uống ai dè nó quăng cái ly lên đầu tui. Đồ quỷ
cái.
Tôi chạm ngón tay lên u trên trán người y
công. Có nhức không, lấy thuốc trong phòng khám uống đỡ.
Người đàn ông lắc đầu. Nhằm nhò chi đâu ông
thầy.
Hổng sao đâu, chú Tư bị thím Tư uýnh hoài
à. Ma mới chêm vào rồi che miệng cười khúc khích.
Chuyện bác y công bị vợ đánh xưa lắm rồi, chỉ ai mới
nghe lần đầu mới có thể bật cười như thế. Cô y tá
này chưa được bà trưởng phòng nhân viên huấn luyện
kỹ lưỡng. Tôi tự nhủ sẽ giảng cho cô ta bài học xử
thế. Bệnh nhân và người nhà nằm ngồi la liệt thế
này mà y tá, y công đùa giỡn thì còn gì thể thống.
Thấy tôi chăm chú nhìn vào hồ sơ bệnh lý, con ma
mới và người y công kín đáo liếc nhau rồi ngập ngừng
bước về phía phòng “săn sóc đặc biệt”.
Nghe
có vẻ trầm trọng, thực ra chỉ là căn phòng cũ kỹ,
hôi mốc mà nhân viên đã cố làm cho ra vẻ “chuyên môn”
bằng cách kéo lên những bức vách xiên xẹo rồi tẩm
thật nhiều mùi cồn và thuốc sát trùng lên nền nhà và
những tấm khăn trải giường.
Vừa lách qua khung
cửa, bắt gặp cái bọc nhựa có chai thuốc tẩy mầu và
bộ quần áo nhăn nhúm, tôi quay sang hỏi ma mới.
Sao
lại để những thứ đó ở đây.
Cô lúng túng tìm
câu trả lời. Chút bối rối trong những chớp mắt tan
vào cái nghịch ngợm trẻ con. Ngôn từ nhảy nhót trên
cánh môi.
Dạ, mấy chị bên cấp cứu chuyển
nguyên con lên như vậy đó.
Ma mới nháy mắt với
người y công. Anh ta nhanh nhẹn chộp lấy bọc hành lý
của Thần Chết, thoăn thoắt bước đi, đôi dép nhựa
quét xàn xạt trên nền xi măng.
May mà bệnh nhân
không uống nửa chai còn lại. Tôi nói.
Hai con mắt
một mí bối rối nhìn ra cửa sổ nơi chút nắng đầu
ngày nhấp nháy trên khung kính mờ. Không còn gì để nói.
Cô y tá sượng sùng chôn chân trên nền nhà. Cái đầu
hơi cúi nhưng con mắt nhìn lên, dán lên tôi một nửa tia
nhìn nghi ngại, thân mình khẽ đu đưa như vướng mắc
một điều muốn nói. Nhưng cô chưa kịp nói gì thì người
y công đã vạch đám bệnh nhân và thân nhân tụ tập
trong hành lang hẹp, hổn hển trở về.
Vào phòng
săn sóc đặc biệt, hai ngưòi chia nhau đứng hai bên
giường bệnh như sẵn sàng ra tay can thiệp khi có chuyện
bất ngờ. Bốn con mắt dán vào cái khối lùng nhùng chăn
gối võng xuống trên chiếc giường cũ mà lò so đã giãn
tới cực độ.
Cô y tá run run giở mép tấm khăn,
thì thào.
Thắm ơi, Thắm à!
Tiếng thở phì
phò vọng ra từ dưới lớp vải. Vệt vàng sậm loang trên
tấm khăn trông giống hình một bàn tay bốn ngón. Cái
thân người nằm nghiêng co quắp ấy khẽ nhúc nhích. Hai
chân hơi duỗi ra. Một bên vai lay động, chiếc lưng uốn
éo.
Tôi gấp hồ sơ lại, bước tới bên giường.
Đã ngửi không biết bao nhiêu năm tháng cái mùi phòng săn
sóc đặc biệt mà tôi vẫn không khỏi thấy ngứa hai hốc
mũi. Cái ngứa sần sượng khiến mình chỉ muốn luồn
chiếc bàn chải nhỏ vào mà chà sát cho thoả thuê.
Cô
y tá lay nhẹ chỏm vai người bệnh. Thức dậy, sáng rồi.
Tiếng ậm ừ trong cuống họng luồn ra khỏi chiếc
gối ủ quanh đầu và lớp vải khăn trải giường cũ kỹ
nghe xa xôi như vọng ra từ trong vách tường xi măng tróc
lở. Bàn tay cô y tá lay mạnh hơn. Âm thanh ngầu đục lại
phát ra, lần này nghe như tiếng gầm gừ của con thú bị
bỏ đói lâu ngày.
Giọng cô y tá khẩn trương hơn.
Thức dậy, Thắm à.
Hổng muốn thức.
Trong
chuỗi âm thanh sần sượng tôi nghe ra ba chữ ấy. Chắc
cô y tá cũng nghe được nên cô hăng hái kéo bật hẳn
góc khăn trải giường ra khỏi đầu người bệnh. Góc
khăn tuột ra nhưng khuôn mặt vẫn vùi sâu dưới tấm gối
trắng. Mảng tóc đen lòa xòa trên nệm.
Người y
công đánh nhịp bàn chân phải. Trong mắt anh ta thẫm cái
mầu tối ám.
Tui không muốn thức. Tui muốn chết.
Câu nói mạch lạc luồn ra từ chiếc gối nhàu.
Cánh tay vòng quanh đầu như vòng gai cứu chuộc. Những
móng dài tróc loang lổ. Buổi chiều hôm trước, lúc rửa
ruột cho bệnh nhân, tôi không để ý cái màu sơn máu bầm
ấy.
Tui không muốn thức. Để tui ngủ luôn.
Cô
y tá lắc nhẹ chiếc vai gầy. Nói gì nói lại nghe coi.
Trường lớp nào đào tạo ra cô học trò y tế nói
chuyện không chút năng khiếu nghề nghiệp như thế. Tôi
chưa kịp nói gì thì ngưòi y công xen vào. Thức dậy cho
bác sĩ khám bệnh.
Tấm khăn đắp nhăn nhúm như
mặt nước ém con sóng ngầm. Bất chợt mặt nước ấy
bung ra thành lòng sông sủi bọt giữa những đợt sóng
cuồng. Bàn tay móng đỏ giật mặt gối sang một bên. Cái
đầu rũ rượi rồi cả thân hình nhàu nhò xoay lại phía
giọng đàn ông vừa mới phát ra. Bác sỉ hả. Thằng cha
bác sỉ bất nhân đó hả. Chả còn lại đây làm chi. Cả
thân người vùng vẫy như con cá bị đập đầu. Hai chân
đạp nhùng nhằng trong tấm khăn. Thân thể oặt oẹo cơn
động kinh hoảng loạn. Tui không muốn thấy mặt cái
người bất nhơn. Kêu thằng chả đi đi.
Thắm à.
Thắm. Cô y tá vừa luống cuống đặt hai bàn tay lên vai
ngưòi bệnh vừa rối rít gọi. Thắm ơi. Ngoan đi cưng.
Ngoan đi mà. Bác sỉ H. nè, bác sỉ H. đã cứu Thắm hồi
hôm qua đó, biết không?
Bác sỉ hả, bác sỉ gì
mà dô nhân đạo dị chớ.
Cái đầu lắc lư, tóc
rối như miếng bùi nhùi rách. Con mắt nhắm nghiền, răng
nghiến vào nhau. Hai tay vung đập cả lên thành giường.
Mấy người đi hết đi. Rồi con mắt bỗng nhiên trợn
trừng. Tay vồ lên mặt cào cấu. Mười vệt móng tay vạch
đỏ lừ hai má. Những đường kẻ răng cưa tươm máu.
Cái lưỡi tím ngắt thè dài, nhớt rãi trào ra. Mấy người
không đi tui cắn lưỡi tự sát cho mà coi.
Âm thanh
đọng lại nơi hai hàm răng kềm chặt chiếc lưỡi nhầy
nhụa nước bọt.
3
Lúc ra
ngoài hành lang, cô y tá đi sát vào tôi, thì thầm. Đúng
là làm ơn mắc oán, thày há.
Phải trả lời sao
đây. Nếu coi là việc phải làm thì có chi là ơn nghĩa
và có gì đáng gọi là oán. Ý nghĩ xoay trong đầu. Nhưng
đó đâu chỉ thuần túy là công việc. Thân xác tím bầm
vật vã trên chiếc giường xô lệch đâu thể coi như
chiếc máy bơm hư, chỉ cần thay những ống cao su mới.
Trong cái thân thể nhàu nhò ấy còn cả một thế giới
tâm linh.
Nhắm chừng con nhỏ có sống được hông,
hả thày?
Thân thể mỏng gầy của cô chạm nhẹ
vào người tôi trong lúc rảo bước nhưng câu hỏi thì
chạm mạnh vào một góc vắng tư duy. Trong một giây, cái
thắc mắc ngàn đời ấy khuấy động cả tâm tư người
thầy thuốc. Niềm tự hào bốc lên như luồng hơi nóng
trong nồi nước tự ái đang sôi.
Sống chứ. Tôi
quả quyết. Dù cô ta không muốn sống cũng không được.
Rồi tôi ngưng ngay câu nói. Kẻ nào đó trong tôi
nhắc nhỏ rằng nói năng như thế có quá đáng không.
Hình ảnh những lọ thuốc lem luốc, những bọc nước
biển đục lờ, những ống chích với kim tà đầu xài đi
xài lại, những dao kéo cùn mằn kéo nhay vết mổ diễu
hành trong trí. Nhưng bên những trang bị nghèo hèn ấy còn
một thứ mà bệnh nhân của tôi có thể sẽ cần đến,
thứ ấy là hàng ngoại, quà tặng nhân đạo từ Bắc Âu.
Thế nên tôi tạm yên lòng.
4
Ngoài ba mươi tuổi. Những nếp nhăn trên trán và
mái tóc lốm đốm sợi bạc khoe với cuộc đời như thế.
Anh là người nhà của cô Thắm à.
Hai bàn
tay đang thả xuôi theo thân mình, bắt gặp câu hỏi, vội
xoắn vào nhau. Dạ thưa. Một chút ngần ngừ. Hai con mắt
ngó nghiêng. Rồi hai con mắt vẽ xuống nền xi măng lồi
lõm câu trả lời vòng quanh những nét bút chì trẻ con
nguyệch ngoạc trang giấy.
Dạ hỏng phải người
nhà.
Tôi nhìn những ngón tay như những đốt mía
gầy guộc tìm chiếc nhẫn làm tin. Nhưng những ngón tay
anh chỉ đeo đầy vết sẹo. Sao mà ngây ngô. Tôi mắng
mình như thế. Xứ sở miếng ăn còn không có, nói gì
chiếc nhẫn đính hôn giữa những kẻ yêu nhau.
Hay
là bạn. Tôi hỏi.
Cái đầu toan lắc bỗng gật
dồn dập như chiếc dùi gõ hoang lên mặt trống. Con mắt
nhìn tôi. Cái nhìn lo âu của đứa bé ăn trộm sợ chủ
nhà phát hiện thêm món đồ còn giấu trong cạp chiếc
quần tây nhăn nhúm.
Tôi hỏi vì tôi muốn biết
thêm chi tiết về cô ấy mà điều trị cho đúng. Rồi
nhìn những ngón tay đang xoắn lấy nhau trước cái bụng
hõm vào sát xương sống, tôi nói nhỏ, đủ cho một mình
anh ta nghe. Tôi không phải công an, đừng sợ.
Dạ,
tui mang ơn. Câu nói cũng nhỏ đủ để một mình tôi nghe
thấy.
Anh đứng trơ ra đấy. Cái mặt cúi gằm,
con mắt nhỏ. Tia nhìn lấp ló phía sau hốc mắt sâu. Vành
xương ổ mắt cong và vồng lên như vết điêu khắc trên
pho tượng thạch cao làm cho tia nhìn sâu hun hút.
Vào
đây cho tôi hỏi thăm vài chuyện.
Hai bàn tay đặt
lên nhau ngại ngần. Dạ.
Tôi xoay lưng bước đi.
Được vài bước tôi quay lại. Người đàn ông vẫn đứng
đó. Tôi dừng lại, nhướng mắt nhìn anh ta. Hai bàn tay
vẫn đắp lên nhau. Những ngón sần sượng xoắn xuýt.
Rồi cặp môi thâm co lại, vạch ra những chiếc răng khập
khiễng.
Tôi đưa tay, vạch một cử chỉ mơ hồ.
Vào phòng trực, tôi hỏi chút chuyện.
Hàm răng mở
ra. Câu nói phều phào như hơi thở. Dẫu khoảng cách chỉ
ba bước chân, tôi vẫn không nghe được cái câu anh nói.
Tôi bước ngược về phía anh.
Đợi tôi đến gần,
anh thì thào. Sợ em Thắm hổng chịu.
Tôi ngạc
nhiên. Sao vậy.
Co người lại như cố giấu mình ở
phía sau một thân cây vô hình, tránh luồng gió lạnh, anh
nhìn quanh, nhớn nhác.
Sao lại sợ cô ấy không
chịu. Mà không chịu cái gì.
Hổng cho gặp.
Tôi
nhìn chăm chú vào con mắt sâu. Sao lại không cho.
Tại
em Thắm hổng thương.
Bọn y tá y công trong trại
bệnh tất tả với công việc nhưng chẳng người nào
quên ném về phía chúng tôi cái nhìn soi mói. Cái tin bác
sĩ trưởng khoa nội bị bệnh nhân xỉ vả giữa thanh
thiên bạch nhật chỉ một buổi là lan rộng khắp thị
xã. Nhân viên các trại bệnh tạt ngang phòng trực hỏi
thăm xa gần. Những con mắt ái ngại giùm cái đời "làm
ơn mắc oán" nhưng cũng có những ánh mắt xét nét,
hả hê.
Tôi nắm lấy tay áo anh, kéo về phía phòng
trực. Anh cưỡng lại một chút rồi nhùng nhằng bước
theo, như đứa học trò hư bị giám thị lôi vào phòng
hỏi tội.
Ngồi xuống đây đi. Tôi khẽ đẩy anh
vào chiếc ghế có lưng dựa bằng nệm vải.
Dạ
cho tui đứng, tui mang ơn.
Tôi nhìn vào con mắt sâu.
Anh biết cô Thắm bị gì không.
Dạ biết, em Thắm
tui uống thuốc tẩy tự sát. Mấy người học chung lớp
đổ thừa em Thắm tui ăn trộm chiếc cà rá, em Thắm tui
hổng có lấy. Tui biết em Thắm tui hổng bao giờ làm
chuyện đó. Dù em Thắm tui không thương tui, bỏ tui lên
tỉnh học nhưng tui hống giận em Thắm tui. Tui biết em
Thắm tui hổng tham lam. Hổng ai tin em Thắm tui, em Thắm
tui uống thuốc tẩy để minh oan. Em Thắm tui có bề gì
tui sống với ai.
Cái mặt cúi gằm bỗng ngước
lên, vẩy ra những giọng nước mắt.
Mà em Thắm
tui có sao hông bác sỉ.
Anh ngừng lại để thở.
Nước mắt lăn dài hai gò má. Hai bàn tay vẫn níu lấy
nhau, mặc cho nước mắt khơi dòng. Tôi nhìn đám bệnh
nhân và thân nhân hiếu kỳ lấp ló ngoài khung cửa, vẫy
tay ra dấu cho họ để chúng tôi yên. Thiệt tình, cánh
cửa phòng trực không biết đến bao giờ mới sửa xong.
Nhắm chừng em Thắm tui có sống được hông, bác
sỉ.
Anh lặp bặp câu hỏi.
Sống chứ. Câu
trả lời của tôi đầy ắp tự tin. Vấn đề là làm sao
thuyết phục cho cô bệnh nhân ấy yêu được cuộc sống
này, để mai mốt về, cô không phải tìm cách quyên sinh
nào khác. Nhưng tôi không thể nói với anh điều đơn
giản ấy.
Cô Thắm sẽ hết bệnh, sẽ về... Tôi
ngưng ngang. Sẽ về đâu. Ngôi trường có nhà tập thể
nơi người ta nghĩ cô là quân trộm cắp hay về với
người thanh niên chất phác đến ngẩn ngơ này.
Dạ,
tui mang ơn.
Câu nói và cái gật đầu nhanh nhảu
của anh gỡ tôi ra khỏi cái điều khó nói.
Anh vừa
đi khỏi, ma mới lách ngay vào phòng trực. Và ném xuống
mặt bàn gỗ câu hỏi quen thuộc.
Nhắm chừng con
nhỏ đó có sống không hả thày.
5
Chiếc giường trĩu nặng. Không gian võng xuống cái
mùi thân thể đã lâu không tắm gội. Tôi nói cho một
mình tôi nghe. Tôi kể đủ thứ chuyện. Chiếc ghế có
lưng tựa lung lay và bốn chân lỏng lẻo biết than van vì
sức nặng kẻ ngồi lên nó. Tôi nhúc nhích để chiếc
ghế nhắc nhở xa xôi với bệnh nhân rằng chuyện tôi kể
sẽ không bao giờ có đoạn kết. Và tôi sẽ ngồi đây
mỗi tối. Trong căn phòng này, nói chuyện với bốn bức
tường, với những linh hồn lẩn khuất trong bệnh viện
vẫn mỗi tối, trong cái chập choạng của buổi hoàng
hôn, lũ lượt kéo nhau về qua chốn này. Tôi kể chuyện
mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái
tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà
người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay
co giật từng hồi. Muộn mất rồi. Nhưng người mẹ khóc
lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc
gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại
không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu
trong đêm tối. Lần nào kể đến đó tôi cũng ngừng lại
bởi tiếng thở rất đều cái nhịp bình yên của đứa
bé say ngủ. Cô gái mười chín tuổi. Cô ngủ dễ như trẻ
thơ.
Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim
nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối.
Lần này kể đến đó tôi không ngưng vì hơi thở
đều nhịp mà vì tiếng sụt sùi. Khuôn mặt mà tôi chỉ
thấy được khi cô ngủ say đang áp sát vách tường. Mùi
vôi khô chắc phải quyện vào hơi thở. Cô nhất quyết
không thèm nhìn mặt cái kẻ đã giữ cô lại nơi chốn
trầm luân. Và cô tịnh khẩu kể từ cái hôm đòi cắn
lưỡi ngay trên chiếc giường này.
Nhưng sao tiếng
khóc tấm tức ấy lại làm lòng tôi bình yên.
6
Thày ăn mì hông thày. Ma mới hỏi và đứng yên
chờ câu trả lời. Mình có ăn mì không. Tôi thầm hỏi
tôi. Hay hủ tíu Mỹ Tho. Ma mới hỏi tiếp. Mình có ăn hủ
tíu Mỹ Tho không. Tôi lại nghe tôi hỏi tôi như thế. Hay
thày thích hủ tíu Nam Vang. Ma mới nhanh nhảu đổi qua món
khác. Mình có thích hủ tíu Nam vang không. Tôi lại hỏi
tôi. Hủ tíu Nam Vang thì có gì trong đó và khác hủ tíu
Mỹ Tho chỗ nào. Tôi hoàn toàn không nhớ ra. Chắc chắn
giống nhau ở những sợi hủ tíu trắng tinh. Thày. Con ma
mới gằn giọng. Và tôi bắt đầu bực mình.
Cô
đói thì đi ăn đi, tôi không đói.
Nhưng ma mới
không chịu thua. Em mua về cho thày, thày khỏi mắc công
đi. Từ trưa tới giờ thày chưa ăn gì mà.
Tôi vẫn
dán mắt vào cuốn cẩm nang in đầy tiếng nước ngoài.
Trên trang giấy bóng, những hình ảnh nhảy múa như đám
nghệ sĩ non tay nghề cố dành chỗ đứng trên chiếc sân
khấu hẹp.
Thì mua gì cũng được.
Hủ tíu
Nam Vang hay hủ tíu Mỹ Tho hả thày.
Gì cũng được.
Hủ tiếu Mỹ Tho được không thày.
Khi muốn
được chú ý, người ta dễ thành lố bịch. Tôi dùng tất
cả sức lực đang có trên tay để gập cuốn sách lại
thay cho một lời giận dữ. Nhưng khi ngước lên, bắt gặp
đôi mắt có tia nhìn khẩn thiết, lòng tôi chùng xuống.
Giọng tôi mềm oặt.
Mua giùm tôi tô cháo lòng.
Đôi mắt chợt tròn xoe. Vậy mà thày nói gì cũng
được.
Cô xoay lưng dợm bước nhưng đôi chân bất
ngờ sựng lại. Tóc lòa xòa trên trán. Tóc đùa cái lưng
thon. Môi mỏng như miếng mứt dừa.
Nhắm chừng
con nhỏ đó có sống được hông hả thày.
7
Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không
đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết
không phải là chọn lựa thích hợp, rằng đâu đó trên
thế gian này vẫn còn một người yêu thương cô hơn yêu
thương chính mình, rằng trong những thứ con người có
được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một
mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha
tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm
tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé
đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Muộn lắm
rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi
thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có
chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn
ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối. Vậy mà
thằng bé lại sống, cô Thắm biết không. Bây giờ cô
Thắm biết thằng bé ấy đang làm gì không. Nó học y tá.
Nhà nó nghèo không vào trường y được nhưng nó nhất
định làm y tá để cứu người. Cô gái vẫn nằm nghiêng
quay mặt vào tường. Lạnh băng tượng gỗ. Đôi vai khẽ
chuyển động như vật trôi bồng bềnh trên mặt sóng.
Tôi thầm đếm nhịp thở bệnh nhân. Rất đều. Dấu
hiệu nguy kịch đã qua. Thần kinh ổn định. Bao tử chắc
xốn xang ít nhiều nhưng rồi cũng bình yên. Có lo là lo
hai trái thận vất vả lọc ra những chất độc. Rồi chỉ
cần thuyết phục cô một cách đơn giản rằng chả tội
gì phải chết. Nhưng chỉ điều nhỏ nhoi ấy thôi cũng
đã vô cùng khó khăn. Tôi nói chuyện với bốn bức tường
vôi trắng. Tôi nói chuyện với lũ sóng bạc nhược dắt
díu nhau trải lên bờ cát những vẩy bọt xám. Biển ở
bên kia con phố le lói ánh đèn. Ngày xưa có thời tôi
nghĩ sống hay chết cũng vậy thôi. Cái thời mới vào đại
học. Cái thời suy tư triết lý trẻ con. Cuộc sống đầy
những mâu thuẫn. Có bao nhiêu người cố bám lấy sự
sống một cách vô vọng. Chiến tranh. Sự nghèo đói, bệnh
tật. Nỗi đau đớn thể xác, sự khổ đau tâm hồn. Tôi
nói dông dài như gã bán thuốc dạo trong gánh xiệc. Tôi
nói với bốn bức tường. Tôi nói với những ngày còn
đi học của tôi. Tôi nói với những người bệnh mà tôi
đã bỏ cuộc trong trận giằng co với Thần Chết. Tôi
quên là cô bệnh nhân của tôi mới mười chín tuổi, cái
tuổi bắt đầu biết chọn mầu sơn móng tay cho đẹp
mắt. Thì đã sao. Nếu cô ấy không nghe thì tôi nghe. Và
bốn bức tường này cũng nghe. Cả những người đã chết
trong căn phòng này mà linh hồn còn lẩn khuất quanh đây
cũng nghe. Còn nữa, những nhân viên trực đêm đang lấp
ló bên ngoài khung cửa, tai ép sát vách tường, lắng nghe
tôi trò chuyện. Cuộc chiến đấu gay go. Chúng tôi mới
chỉ thắng trận đánh thứ nhất. Chúng tôi mới chỉ đổ
quân xuống được một đầu cầu. Nhưng tôi vẫn kiên
trì kể lể. Tôi kể chuyện cho cả thế gian cùng nghe.
Chợt cô bệnh nhân của tôi trở mình, tôi nín thở
chờ một cơn phẫn nộ. Tôi nghe được cả tiếng những
trái tim đập lỡ nhịp ngoài khung cửa. Giầy dép lao xao
dẵm lên nhau. Nhân viên trực đang săn tay áo, chuẩn bị
giải cứu tôi. Nệm giường nhún nhẩy theo cái trở mình.
Chiếc vai xuôi nghiêng. Bệnh nhân bỗng dưng xoay người
ra phía tôi. Con mắt ướt nhòe. Con mắt nhìn tôi. Trong
tia nhìn có chút gì đó như ánh nắng le lói sau cơn giông.
Con gặp người đó được hông?
Câu hỏi
bất ngờ làm lồng ngực tôi thắt lại. Có tiếng reo vui
hớn hở nào đó bị nén lại bên ngoài khung cửa. Tôi
hình dung đám nhân viên ôm lấy nhau mừng rỡ như khi gặp
lại nhịp đập hồi sinh của trái tim bệnh nhân hấp
hối.
Người nào, cô Thắm muốn gặp người nào.
Tôi lắp bắp.
Cái người học y tá đó.
Tiếng
reo hò trong lòng tôi át cả tiếng cười nói vỡ òa ngoài
khung cửa.
Thắng rồi, mình thắng rồi. Giọng ma
mới - không lẫn được với ai - hòa với giọng đàn ông
trầm đục.
Vậy là em Thắm tui chịu sống rồi.
Cô níu lấy bàn tay tôi. Những móng dài sắc cạnh
cứa lên da thịt tôi như khắc ghi lời nguyền.
Con
hổng muốn chớt đâu, con nhớ nhà, con nhớ má con, con
nhớ ngoại con. Bác sĩ đừng bỏ con chớt tội nghiệp...
Không bỏ đâu. Tôi luống cuống với cơn xúc động.
Bác sỉ phải hứa hổng bỏ con.
Hứa. Tôi
trả lời, lòng đầy ắp niềm tin. Cô nuốt nước bọt
một cách khó khăn; nụ cười nhòe nhoẹt chợt méo xệch
trên khuôn mặt trẻ thơ
Ngoéo tay mới tin.
8
Ma mới đi rồi, tôi lại loay hoay với cuốn cẩm
nang giấy láng chằng chịt những chữ. Tiếng Anh, tiếng
Pháp, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Ả Rập, tiếng
Thụy Điển. Làm sao biết được đó là tiếng Ả Rập,
lỡ tiếng Miên tiếng Lào thì sao nhỉ. Lúc khui cái máy
ra khỏi thùng, bọn y tá đã cãi nhau những chuyện trẻ
con như thế. Tiếng Miên tiếng Lèo ngoằn ngoèo giun sán
còn tiếng Ả Rập có mẫu tự đàng hoàng, chữ tượng
hình sang trọng quý phái. Làm như rành văn minh Ả Rập
lắm vậy. Chứ sao. Ngôn ngữ của một phần tư nhân
loại. Ngưòi chuyên viên phòng xét nghiệm gật gù. Người
chuyên viên phòng thí nghiệm đã trải qua bao nhiêu thăng
trầm. Anh ta kể lại như thế. Thử bao nhiêu nghề cuối
cùng dừng lại ở nghề hút máu người. Cho dù hút qua
mũi kim cũng là hút máu, cũng là ma dơi, ma cà rồng. Mấy
cô y tá hay xúm vào chọc ghẹo anh ta như thế. Có mặt
trong cuộc tranh luận ấy nhưng tôi chỉ lặng thinh. Không
biết chắc có phải một phần tư nhân loại nói tiếng Ả
Rập không nên tôi im lặng. Nhưng bà y tá ngoại khoa quay
qua tôi để tìm đồng minh. Phải không ông thầy. Phải
tiếng Ả Rập không. Đang loay hoay với những cái nút,
những ngọn đèn xanh đỏ, tôi buộc lòng lật vội những
trang giấy bóng. Đây rồi. Ở góc mỗi trang, có cái chữ
nhỏ xíu ghi tên ngôn ngữ trình bày. Tôi dõng dạc gật
đầu. Người chuyên viên phòng xét nghiệm hét lên mừng
rỡ. Đám y tá trẻ thích thú hùa theo.
Cái máy ấy
người ta còn giữ hay đã bán đi rồi.
Tiếng dép
lê ngoài cửa. Tôi ngước lên, bắt gặp cái nhìn đắc
thắng của gã đẹp trai. Trong bệnh viện này ngoài hai
ông bác sĩ sắp về hưu, người nhân viên phòng quang
tuyến, vài anh y công trong đó có người đàn ông bị ném
cái ly lên đầu, chỉ còn lại tôi và gã chuyên viên xét
nghiệm. Hai gã đàn ông độc thân. Hai con cọp bị nhét
chung một xó rừng.
Ông thầy.
Vừa nghĩ đến
là hắn hiện ngay trước mặt tôi như bóng ma. Như thể
con người này vừa từ bậc thềm trí tưởng tượng tôi
bước ra. Hắn đấy. Mảnh giấy phất phơ trong tay.
Kết
quả thử máu con nhỏ đó có rồi.
Hôm nay hắn sơ
mi nhét trong quần, tươm tất như cậu học trò. Ông thầy
nghĩ con nhỏ ấy sống nổi không. Cái điệp khúc quen
thuộc.
Tôi khẽ nhún vai, đưa tay đón lấy mảnh
giấy kết quả xét nghiệm.
Kết quả coi bộ không
êm hả ông. Gã trai lơ tiếp.
Tôi liếc những con
số. Kết quả thế này thì không êm thật.
Phải
mượn cái máy về gấp. Tôi kết luận.
9
Cơn mê nhận chìm người bệnh vào đêm tối. Những
con số nhảy múa trên tờ kết quả xét nghiệm. Những
con số khốn nạn khiêu khích chúng tôi. Những con số
trần truồng khiêu vũ trên mầu vũng mầu trắng bệch của
làn da sũng nước. Lay gọi vô phương. Mới nói chuyện
sáng nay, giờ đã mê man gỗ đá. Mới tíu tít kể cho
nghe về những buổi chống ghe lùa bầy vịt hàng trăm con
kêu réo vang động một góc trời đã con mắt lạc thần,
ngón tay co quắp.
Tôi giộng mạnh cái ống nghe điện
thoại như gõ cho rụng bớt bụi bặm đóng trong đầu
những người quyền thế ở đầu dây kia.
Anh cần
máy lọc thận làm gì. Kẻ nào đó lập lại cái câu cũ
rích.
Tôi muốn hét vào mặt cái kẻ giằng co ở
đầu kia nhưng cô học trò đứng ngay trước mặt tôi,
hai tay chắp lại, van xin.
Bọn họ nói nhiều quá.
Đủ thứ lý do. Tôi chỉ mượn lại cái máy ấy ít hôm.
Phái đoàn y tế Thụy Điển qua thăm cho chúng tôi cái máy
làm phép lạ ấy nhưng bọn họ lấy đi. Chúng tôi lý sự
với nhau đủ cách. Rồi bọn họ lại hỏi tôi cần máy
lọc thận làm gì. Tôi đã nói bệnh nhân của tôi suy
thận cấp tính. Họ lại hỏi vì sao suy thận. Rồi kẻ
nào đó nói vọng vào rằng có phải con bé uống thuốc
tẩy mầu để tự tử đó không. Đáng đời quá rồi. Kẻ
nào đó cười rộ lên thích thú. Có phải con bé chửi
ông như tát nước vào mặt đó không. Chuỗi cười dài
như những toa xe lửa chạy sầm sập trên đoạn đường
sắt bắc ngang óc não tôi.
Cô y tá quơ tay ra dấu.
Cái miệng thì thào. Môi mỏng như miếng mứt dừa ngày
tết. Đầu lắc cuống cuồng. Đừng nổi nóng, ông thày
ơi. Nổi nóng hư chuyện hết ráo trọi. Nhưng không nổi
nóng sao được. Tôi đã làm đơn xin mượn cái máy làm
phép lạ ấy ngay khi rửa ruột xong cho bệnh nhân.
Quân
khốn nạn.
Răng tôi cắn chặt môi dưới. Thế nào
cũng có máu bầm. Vết bầm trên môi đặm mầu như bị
cắn khi được hôn.
Bảo nó ráng chờ tới tháng
sau đi.
Kẻ kia nói thế rồi đập cái ống nghe
xuống mặt bàn. Tai tôi điếc ù. Vậy là xong.
Tôi
nhìn cái ống nghe điện thoại. Tôi căm thù cái điện
thoại đen bóng này biết chừng nào. Tôi vừa mới thuyết
phục được cho một người ham sống. Tôi vừa mới hứa
sẽ không bỏ người ta. Mười chín tuổi, vừa mới bắt
đầu yêu lại cuộc đời.
Cô y tá mỏng như trang
giấy. Trang giấy nhìn tôi. Trang giấy sột soạt. Con mắt
một mí long lanh ngấn nước. Cánh môi mấp máy cái điệp
khúc xưa quá là xưa.
Nhắm chừng con nhỏ đó có
chết hông hả thày?
31 tháng 07, 2008