Tôi không biết có phải định mệnh đã mang đến cho sinh hoạt văn chương của chúng ta, một hạnh ngộ giữa lục bát Huy Cận và, lục bát Cung Trầm Tưởng? Hay đó là “bước trùng” của hai tài thơ lớn ở thể thơ truyền thống, đặc thù Việt?
Với tôi, Cung Trầm Tưởng không chỉ đi tiếp con đường lục bát Huy Cận mà, họ Cung còn đẩy vận hành của một chu kỳ lục bát tới chỗ rốt ráo của nó. Hai chữ “rốt ráo” tôi dùng ở đây, xin hiểu theo nghĩa Cung Trầm Tưởng, bằng vào tài hoa và trí tuệ của mình, đã hoàn tất một thời kỳ lục bát. Đem lục bát ra khỏi bóng rợp của giai đoạn lục-bát-kể-chuyện, kéo dài mấy trăm năm, kể từ khởi điểm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Tuy vẫn xây dựng lục bát của mình trên căn bản nhịp chẵn: 2- 2 - 2 cho câu sáu và, 2 – 2 – 2 - 2 cho câu tám:
“Bù em / góp núi / chung đồi (2-2-2)
“Thiêu nương / đốt lá / cũng rồi / hoang sơ” (2-2-2-2)
(“Kiếp sau,” CTT.)
Hoặc nhịp đều 3-3 cho câu sáu, 4-4 cho câu tám:
“Ôi thông xanh / ôi hồng đào (3-3)
“Phong rêu mấy thuở / hồn nào không đau” (4-4)
(“Thu ngây,” CTT.)
Nhưng lục bát Cung Trầm Tưởng đã vượt khỏi cái không gian núi, đồi, cồn, bãi, sông, nước, mây, gió, trăng, sao…của lục bát Huy Cận:
“Bỗng dưng buồn bã không gian
“Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
(H.C.)
Hay:
“Canh khuya tạnh vắng bên cồn
“Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang.”
(H.C.)
Theo tôi, những hình ảnh như núi, đồi, cồn, bãi, sông, nước, mây, gió, trăng, sao… đó, nếu không đi liền với những liên tưởng là những hình ảnh, những biểu-ngữ (signifier) hoặc những hoán dụ (metonymy) thì chúng chỉ là những sáo ngữ, đã bị “cliché.” Chúng thiếu sinh khí. Rời xa đời thường. Không cùng nhịp đập thời đại. Không chủ thể. Và, khi toàn bộ hồn vía bài thơ chỉ bảng lảng những đám mây hoài cổ thì, nó sẽ khó có được cho nó tính nhân loại!
Cung Trầm Tưởng, ngược lại.
Chẳng những ông công khai ném mình ra “tiền trường” của thổ- ngơi bài thơ với một thời gian, không gian chuẩn xác:
“Mưa rơi đêm lạnh Saigon
“mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi”
(“Đêm sinh nhật,” CTT.)
Mà, ông còn đem hình ảnh tạp của đời thường, hợp hôn với những ý niệm siêu hình vào trong thơ của mình, như:
“Bãi nhăn nhàu vết lăn xưa
“Một xe thổ mộ giờ trơ gỗ gầy.”
(“Đất Nghĩa một chiều mưa,” CTT.)
Hoặc:
“Quả đào chín vỡ làm đôi,
“Tôi nhân tiền sử nằm phơi trần truồng.”
(“Nấm xanh,” CTT.)
Hoặc nữa:
“Bát cơm miếng cháy khê vàng,
“Miệng chua khó nuốt, địa đàng khó lên.”
(“For rent,” CTT.)
Hay, đời thường một cách nhân loại hơn:
“Trời hay thu khóc ủ ê?
“Cổ cao áo kín đi về đường tôi.”
(“Đêm sinh nhật,” CTT.)
Với “cổ cao áo kín đi về đường tôi,” họ Cung đã san bằng khoảng cách giữa thi sĩ và người đọc. Nó là phản ứng tự nhiên của con người (dù ở đâu,) trước thời tiết.
Thêm nữa, mỗi con chữ trong câu thơ “cổ cao / áo kín / đi về / đường tôi,” nếu đứng riêng, chúng là những biểu-ngữ xác tín cá tính chủ thể. Nhưng khi đứng chung trong dòng chảy của một nguồn mạch ngữ nghĩa thì, chúng lại là một liên lập hình ảnh vừa ẩn dụ (metaphor) vừa hoán dụ (metonymy) như một xâu chuỗi lấp lánh tu từ (rhetoric).
Chỉ cần một chút chú ý, người đọc sẽ gặp được rất nhiều những xâu chuỗi lấp lánh tu từ như thế, trong lục bát họ Cung.
Thí dụ:
“Mình tôi với phố non cao
“Tàu như dưới tỉnh núi còn vọng âm.”
(“Khoác kín,” CTT.)
Hoặc:
“Muối nồng vị mặn tình quê
“Sóng ôm nguyên gói biển về tặng tôi.”
(“Quà biển,” CTT.)
Ở đây, tôi xin được mở một ngoặc để nhấn mạnh, bài thơ trên, họ Cung viết từ năm 1962. Nhưng với hai chữ “nguyên gói” thì nó giống như ông mới viết hôm nay, 2012 vậy.)
Cũng vẫn khởi đi từ tài hoa làm mới, làm giầu ngôn ngữ Việt, lục bát Cung Trầm Tưởng thơm tho những xâu chuỗi tu từ, như:
“Trời nong chặt nỗi thu phiền
“Hồn cây hồng mộc ngợp miền thu Tây.
(“Thu ngây,” CTT.)
Hoặc nữa:
“Thôi em xanh mắt bồ câu
“Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”
(“Kiếp sau,” CTT.)
Ở 2 câu lục bát trong “Thu ngây,” thì “nong” là động từ cụ thể. Trên nguyên tắc “nong” phải đi liền với một bổ túc từ cũng cụ thể. Nhưng Cung Trầm Tưởng đã làm một cuộc cách mạng ngôn ngữ (cho riêng ông.) Khi bổ túc từ theo sau động từ “nong” của ông, lại là một cụm từ trừu tượng: “nong…chặt nỗi ưu phiền.”
Cũng thế, khả năng khoác cho chữ nghĩa một linh hồn mới của họ Cung, còn rõ ràng, dễ nhận thấy hơn nữa, qua câu thơ:
“Thôi em xanh mắt bồ câu.”
Đơn giản, nếu phải so sánh hay liên tưởng mầu xanh đôi mắt người yêu của mình, người ta thường nghĩ ngay tới mầu xanh đại dương, mầu xanh mây trời…Tôi chưa thấy ai so sánh mầu xanh đôi mắt người yêu của mình với mầu…xanh của mắt…bồ câu! Mặc dù, tới nay, nhân loại chưa phát hiện một loại bồ câu nào có đôi mắt mầu…xanh!
Lại nữa, tôi nghĩ, ngay với thơ lục bát bây giờ, chúng ta cũng khó thấy những câu thơ lãng mạn, pha lẫn chút tự trào, như:
“Chờ em anh để râu xanh
“Lòng xây bốn bức tường thành giam em.”
“Râu xanh,” CTT.)
Hoặc:
“Tặng em một gã lo xa,
“Vành trăng tươm tất, bình hoa bày bàn.”
“Lẩn thẩn,” CTT.)
Cũng như nỗ lực nhân cách hóa đẹp tới bất ngờ, như:
“Sóng dâng còn ngấn môi kề
“Đêm hôn bãi nhớ, sớm về viễn khơi.”
“Quà biển,” CTT.)
Tuy nhiên, quan trọng hơn, đáng kể hơn nữa, vẫn theo tôi thì, tài hoa và trí tuệ Cung Trầm Tưởng nằm nơi nỗ lực cởi bỏ giới-hạn-không-gian-lục-bát - - Để từ đó, nhân loại tính hiện ra như một cuộc “giải phóng” triệt để, quyết liệt. Chúng tôi xin bạn đọc lại một lần nữa câu thơ:
“Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”
Đó là một câu thơ vẫn mang tính liên lập hình ảnh (vừa ẩn dụ, vừa hoán dụ) như một sâu chuỗi lấp lánh tu từ, rất Cung Trầm Tưởng…Nhưng ở phương diện ngữ-nghĩa thì “tóc vàng sợi nhỏ” là một thứ thẻ nhận dạng Tây Phương. Cũng ý đó, cụ thể hơn, một năm sau (năm 1957,) ông viết:
“Thôi Diane diễm kiều Âu,
“Mẫu hình yểu điệu xin hầu kiếp sau.”
(“Kiếp sau nữa,” CTT.)
Tóm lại, Cung Trầm Tưởng không chỉ đi tiếp con đường lục bát Huy Cận mà, ông còn đẩy vận hành của thời kỳ lục bát mới, tới những không gian, những ngữ-cảnh, ngữ-nghĩa mà trước đó, lục bát không hề có.
Nếu không có cuộc “giải phóng” lục bát một cách dứt khoát, quyết liệt của họ Cung, đồng nghĩa với nỗ lực kết thúc chu kỳ vận hành của một thời kỳ lục bát, tôi e hôm nay, chưa chắc văn học Việt đã có thể bước qua một thời kỳ lục bát khác nữa, như đã thấy.
Nhìn lại 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, trong lãnh vực thi ca, chúng ta có khá nhiều nhà thơ thành danh nhờ ứng dụng xuất sắc kỹ thuật, cũng như cải biên (modify) hình ảnh, ý tưởng của một số thi sĩ nổi tiếng của Âu châu - - Nhưng với thể thơ truyền thống, đặc thù lục bát thì, đóng góp của họ Cung cho thể thơ thuần Việt này, là một đóng góp cực kỳ to lớn. Mức độ to lớn ở đây, còn còn được đo định bằng sự kiện có nhiều nhà thơ đã hân hoan đi theo con đường lục bát Cung TrầmTưởng!
Vì thế, nếu lục bát của họ Cung có được coi là một “trường phái” - - “Trường phái lục bát Cung Trầm Tưởng,” thì tôi nghĩ, cũng không là một lời nói quá!
Du Tử Lê
(Sept. 2nd 2012.)