dutule.com (ngày 25 tháng 7-2013): Trang nhà dutule.com vừa đăng tải một bài thơ mới của Đa Mi / Lê Đình Thắng. Bài thơ của họ Lê một lần thêm, dấy động trong tôi vấn nạn “cách tân” hay làm mới thi ca, ngày càng trở thành một thôi thúc ngấm ngầm nhưng nôn nóng (một cách nghiệt ngã), trong khao khát (đôi khi mù lòa) của những người làm thơ cũ, cũng như mới hôm nay. Có người đi tìm sự …“cách tân” qua những hình thức, tưởng như…mới mẻ! Sự thực, đã lâu, chúng không còn tồn tại ở những quảng trường thi ca thế giới; vì chúng không có giá trị thực hữu. Chúng chỉ là phong trào (mode) mà thôi. Có người đi tìm sự “cách tân” (nhất là một số không nhỏ, giới làm thơ trẻ), bằng cách lao mình vào những cuộc tìm kiếm hình ảnh, ý tưởng sần sượng, vượt xa biên độ thi ca - - Vì cho rằng, như vậy là làm mới, là… “cách tân”! Mặc dù ở phạm trù thi ca, những từ, những hình ảnh đó, chỉ cho thấy lối bày hàng, những rao bán những con chữ phản cảm, dị dạng, PR…

Nhà thơ Đa Mi
Tuy nhiên, song song với những hoang tưởng tội nghiệp kia, chúng ta cũng có những người làm thơ trẻ lắng xuống được tới dộ sâu tâm cảm, với những tư duy có đường truyền máu huyết đời thường. Nhưng không vì thế mà thơ họ không mới. Không cách tân.
Một trong những người làm thơ trẻ đó là Đa Mi / Lê Đình Thắng, với bài thơ tiêu biểu, “Khúc đêm”.
Trong ghi nhận của riêng tôi thì, trên lộ tình thi ca (cũng như văn xuôi), Đa Mi luôn lưu lại nhiều phản ảnh cá tính; nhiều dấu vết đời thường, giữa chập trùng bóng đêm và, cô quạnh bất phân ly. Tựa đó là hai mặt của đồng tiền định mệnh họ Lê, sau mấy chục năm nổi, chìm qua nhiều giai đoạn thăng, trầm đất nước và, khủng hoảng, bế tắc văn chương.
Đa Mi với qua “Khúc đêm”, một bài thơ mà tôi cho là một khác biệt lớn, không chỉ với những người trẻ làm thơ cùng thời mà, còn là một khác biệt với chính cõi giới thơ của Đa Mi / nữa.
Trước nhất, “Khúc đêm” của Đa Mi là một bài thơ kiệm chữ / đa nghĩa. Bài thơ có 11 phân khúc. Tám phân khúc chỉ có tối đa 3 dòng. Số chữ cộng chung, nhiều nhất 15 chữ. Ba phân khúc còn lại, chỉ có 2 dòng và cũng nhiều nhất, 10 chữ, tính chung cho cả 2 dòng đó.
Mười một phân khúc này được họ Lê chia thành 2 đoạn, y cứ trên 2 khoảng thời gian, tiếp cận nhau nhưng, tự thân, chúng lại độc lập và, tách lìa, tựa 2 tâm cảnh (như hai vật) đặt cạnh nhau, cho người đọc một tâm cảnh thứ ba (tâm cảnh khác – Hình ảnh một vật khác)
Mở đầu đoạn thứ nhất của “Khúc đêm là màu đen đặm đặc (solid):
“Đêm rồi
đêm tôi đen”
Ngữ cảnh “đen” đậm đặc dẫn tới phản xạ tự nhiên là nhu cầu xua tan bóng đêm. Nhưng nhu cầu xua tan bóng đêm, với tác giả, không chỉ chút ánh sáng mà là nhu cầu an ủi, vỗ về:
“thắp một niềm ấm nóng.”
Ở lãnh vực kỹ thuật thơ, với tôi, đó là liên tưởng bậc một hay, liên tưởng gần.
Đa Mi đã cố ý (hoặc vô tình?) khai thác kỹ thuật liên tưởng bậc một trong thơ của mình, ở tất cả những khúc thơ còn lại. Như:
“Đêm rồi
đêm tôi im”
Hiểu theo một nghĩa nào khác thì, im lặng, không hề luôn mang ý nghĩa tắt tiếng hoặc bật âm mà, nó có nhu cầu (phản xạ) cần một nơi chốn để gửi “lời” (mặt bên kia của “im”.) Do đấy, câu kế tiếp của khúc thứ hai này là:
“lời chui vào hương mỏng” (1)
Họ Lê cho thấy, ông rất nhuần nhuyễn với kỹ thuật liên tưởng bậc một, trong tất cả những phân khúc còn lại.
Cũng vậy, khi Đa Mi viết “Đêm rồi / đêm tôi run” - - Sự run rẩy vì lạnh, dẫn tới liên tưởng gió, bão, nên câu kế tiếp là “tám phương trời hú lộng” v.v…
Nếu phải đi tìm nội hàm tức, đúc kết mọi ý tưởng, hình ảnh…của đoạn thơ này thì đó là:
“Đêm này
Đêm tôi trôi…”
.
Bước qua đoạn thứ hai của “Khúc đêm”, Đa Mi / Lê Đình Thắng chọn “Buổi tối” làm “thi nhãn” cho phần thơ còn lại. Tuy là hai khoảnh khắc thời gian tiếp cận nhau, nhưng như đã nói, tự thân, chúng độc lập và, tách lìa, tựa 2 tâm cảnh đặt cạnh nhau, cho người đọc một tâm cảnh thứ ba.
Phân khúc mở đầu tác giả viết:
“Buổi tối tôi ra đường
Màu âm như triêu mộ (2)
Xe đi như đòi tang”
Câu thơ thứ ba của phân khúc này theo tôi là một trong những câu thơ rất mới. Đẹp tới nao lòng của Đa Mi trong “Khúc đêm”
Trung thành với chủ tâm khai thác liên tưởng bậc nhất, đọc tiếp, ta thấy những liên tưởng rất gần, rất trực tiếp như:
“Em hà hơi tôi gió” – danh từ “gió” dẫn tới liên tưởng hình ảnh “mưa” ở câu kế tác giả viết: “mưa cũng bày trò chơi”. Hoặc tính từ “đỏ” dẫn tới nhiều liên tưởng khác, trong đó có hình ảnh“máu”:
“Ngọn đèn treo khé đỏ
tôi âm tường máu ai” v.v…
Đoạn thứ hai, kết thúc bằng hai câu thơ:
“Buổi tối tôi ra đường
những mặt câm như lá.”
“Những mặt câm như lá” trong “Khúc đêm” của Đa Mi / Lê Đình Thắng, không chỉ là một câu thơ mang tính ẩn dụ mới mẻ mà, còn là một câu thơ cho thấy họ Lê đã đạt tới mức cao của nỗ lực cách tân thi ca qua ngôn ngữ và hình ảnh.
Nói cách khác, đó chính là một hình thái của sự cách tân đúng nghĩa và, đáng kể của Đa Mi / Lê Đình Thắng. Họ Lê không cần phải lùng xục những hình thức đã lỗi thời hoặc những con chữ dị dạng để bày hàng, PR vậy.
Du Tử Lê,
(Garden Grove, July 2013)
--------------------
Chú thích (của người viết):
(1) Nếu có một từ nào thiếu thi tính trong bài “Khúc đêm” của Đa Mi, theo tôi, là động từ “chui” đi trước cụm từ “…vào hương mỏng” ở câu thứ ba này.
(2) “Triêu mộ” chữ thuần Hán, có nghĩa buổi sáng-buổi tối (nói chung). Hai từ này được Lý Bạch sử dụng trong bài thơ nổi tiếng “Tương tiến tửu” của ông:
“Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai / Bôn lưu đáo hải bất phục hồi / Hựu bất kiến cao đường minh kính bi bạch phát / Triêu như thanh ti mộ như tuyết…”
Bài thơ được nhiều tên tuổi lớn của chúng ta, dịch tiếng Việt như Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương, Tchya… Nhưng, thời trung học, học sinh miền Nam, được học bản dịch của một dịch giả Khuyết Danh, dịch theo thể Hát Nói:
“Biết chăng ai: / Sông Hoàng Hà ngọn nước tại lưng trời / tuôn
đến bể khôn vời lại được / Biết chăng nữa: / Đài gương mái tóc bạc /
sớm như tơ mà tối đã như sương”
(Theo Wikipedia – Tiếng Việt)
Gửi ý kiến của bạn