LÊ XUÂN QUANG - Chế Lan Viên từ Điêu Tàn đến... Bánh Vẽ

25 Tháng Chín 201312:00 SA(Xem: 6659)
LÊ XUÂN QUANG - Chế Lan Viên từ Điêu Tàn đến... Bánh Vẽ

 

Có lần, trong một hội thảo văn thơ, một nhà thơ nổi tiếng của giòng Thi Ca Tiền Chiến đã nói: Thi sĩ Việt Nam đã, đang rơi vào tình trạng: ’’Hiện tượng một bài’’. Ông nêu dẫn chứng về khá nhiều tác giả nổi tiếng thời Tiền Chiến rồi sau khi đi kháng chiến trở về, cố lắm mới có một bài có thể gọi là hay, sau đó... không có thi phẩm nào vượt qua được ’’một bài’’ kia. Nhận xét này khá đúng . Ngay đến tận bây giờ vẫn chưa mất tính thời sự.

Thế nhưng - Đối với Chế Lan Viên có thể xem là trường hợp ngoại lệ.

chelanvien-content
Chế Lan Viên, vợ và hai con

Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, người quê ở Bình Định, học trường Quy Nhơn (1). Ông đến với thi đàn Việt Nam bằng tập thơ Điêu Tàn (1937) lúc mới 17 tuổi. Đó là tập thơ có chủ đề đặc biệt, cấu trúc độc đáo. Vào lúc nổi danh, tác giả là chàng trai - theo quan niệm chung của các bậc cha chú, đang tuổi ’’Ăn chưa no, lo chưa tới’’. Lẽ ra, Chàng Phan đang mài đũng quần ở trường lớp chuyên nghiệp nào đó. Hoặc ít ra, cần được vũ trang lí luận của một ngành chuyên khảo về lịch sử, nhân chủng, phải có thời gian sống, chiêm nghiệm thế thái nhân tình, ’’đào bới’’... ’’quằn quại’’, ’’suy tư’’ - mới viết được những vần thơ làm người đọc ’’Sốc’’ trước đau thương của cả một thời đại, một dân tộc, một quốc gia hoàn toàn xa lạ với Phan Ngọc Hoan - giờ chỉ còn hoang phế.

Đọc Điêu Tàn, người đọc bỡ ngỡ... đến choáng ngợp. Điều ’’kinh hoàng’’ hơn: Chàng Phan còn dựng dậy những hồn ma, làm họ sống động như những con người thật, đi lại, vật vờ xung quanh đống đổ nát điêu tàn của cả triều đại, cất tiếng than khóc cho số phận nghiệt ngả của mình. Chế Lan Viên đã ’’nhập hồn, hóa cốt’’ vào dân tộc Hời rồi bước lên thi đàn Việt Nam như một biểu tượng trong giòng Thơ Mới phôi thai ở nửa đầu của thế kỷ 20.

Có thể đọc một bài tiêu biểu trong Điêu Tàn làm thí dụ:

 

TRÊN ĐƯỜNG VỀ

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời

..............................................................
..............................................................

(2 giòng này bị kiểm duyệt thời đó cắt bỏ)

Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian,
Những sông vắng lê mình trong bóng tối,
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.

Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn.
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi;
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn,
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ quy!

Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận,
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang,
Mắu Chàm cuộn tháng ngày niềm óan hận,
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn.

Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm Quốc,
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi,
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp,
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui.

Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng,
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm trơ trên sông lặng,
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành.

Đây, trong ánh ngọc lưu ly huyền ảo,
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo,
Cùng nhịp nhàng, uyển chuyển uốn mình hoa.

Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi,
Và từ đáy lòng ta luôn tràn ngập,
Nỗi buồn thương, nhớ tiếc giống dân Hời!

(Điêu Tàn - 1937)

Tập thơ ra đời được 5 năm, ngay cả Hoài Thanh nhà biên khảo có uy tín trên văn đàn Việt Nam - cũng viết: ‘’…Vong linh đau khổ của nòi giống Chàm đã nhập vào Chế Lan Viên, cho nên dầu không phải người họ Chế, CLV vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành…’’(2). Nhiều người theo đó cũng phát triển, nhận định: ‘’… tập thơ (Điêu Tàn) miêu tả nỗi cô đơn của một người không tìm thấy sự hòa hợp với cuộc đời…’’ (3).

Nếu chúng ta đọc Điêu Tàn theo một cách khác: Mở rộng và suy tư thêm, nhận ra - Nghĩa đen, đúng là tác giả hướng dẫn người đọc đi vào thế giới mộng ảo và cảm nhận quá khứ bi thương. Nhưng trấn tĩnh lại, ta chợt giật mình, nhận ra, ở phía sau - nghĩa bóng của Điêu Tàn - bao thế kỷ, bao năm qua, dân tộc Việt, nòi giống Việt cũng đã bao phen chèo chống, cố thoát ra khỏi cảnh bị nô lệ, nhưng vẫn bị dân Hán (…) tiêu diệt nòi giống, cướp đất, phải bồng bế nhau xuôi giòng sông, chạy xuống sinh cơ lập nghiệp ở mọi vùng đất mới trong đó có Việt Nam ngày nay. Rồi, đã có kinh nghiệm của quá khứ, quyết không để Người Phụ Mình cho dù phải bắt buộc Mình Thà Phụ Người để tồn tại. Lịch sử đã ghi lại, chứng minh: Việt Nam đã từng bị vương quốc Chiêm Thành xâm chiếm…vua nhà Trần phải mang con gái cưng của mình hiến cho vua Chiêm, để đổi lại sự yên bình cho giòng tộc Việt ở phía Nam. Trong thời đại thế giới hỗn mang trên nguyên tắc tồn tại: Mạnh được, yếu thua. Hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ lại bị ép từ 2 phía:

Bắc - phong kiến Trung Hoa lăm le thôn tính, lợi dụng cuộc Huynh - Đệ tương tàn của 2 giòng họ: Trịnh - Nguyễn, coi nhà Trịnh như một tên lính xung kích chờ tiêu diệt họ Nguyễn, sẵn sàng hớt tay trên.

Nam - Chiêm Thành luôn luôn xâm lấn, đe dọa….

Không còn đường nào khác, thế là cuộc trường chinh: Dẹp, mở rộng phía Nam để yên một mặt, chú tâm chỉ chống một kẻ thù phía Bắc - thay vì chống với cả hai. Đây là hoàn cảnh, là lịch sử. Nếu lần này nữa lại hành xử như quá khứ: Bồng bế nhau rút chạy? Nhưng bây giờ: chạy đi đâu? Thế là phải thực hiện quy luật: Cùng tắc Biến (Biến tắc thông). Và, thảm cảnh ’’Nam tiến’’ đã xẩy ra…

Cao hơn, đúng hơn: Chế Lan Viên viết Điêu Tàn chỉ là cách ‘’mượn xác - hoàn hồn’’ - lấy xưa nói nay. Tác giả đã đánh thức cả dân tộc bằng một thông điệp: Dân tộc Việt Nam hãy nhìn gương tấy liếp đây: Hoặc là bị người diệt rồi đi đến mất nước diệt vong. Hoặc là chống cự, phản kích, mở rộng bờ cõi để duy trì nòi giống tự bảo vệ mình !

Xin bạn đọc hãy chú ý 2 câu thơ - thứ 3 và 4 - ở khổ thơ thứ nhất của Trên Đường Về. Tôi rất muốn biết hai câu thơ đó là thế nào, mà kiểm duyệt Pháp thời năm 1937 - xóa đi?

Chúng ta biết: Từ năm 1936, Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền ở Pháp. Họ đã mở rộng ‘’thí cho’’ các nước thuộc địa một số cải cách để dân nô lệ đỡ ngột ngạt trong đó có kiểm duyệt văn chương… Thế mà 2 câu thơ này vẫn bị xóa, chứng tỏ nội dung của nó rất ’’dữ dội’’ khiến chính phủ bảo hộ ở A Nam không chịu được. Chắc chắn 2 câu thơ ‘’phạm húy’’… động chạm đến chính sách cai trị của chế độ thực dân ở Đông Dương. Nếu trước 1936, viết như vậy sẽ bị chính quyền hành xử khác. Nhưng còn bây giờ, vì có chỉ thị từ bên nhà (Pháp quốc), bộ máy kiểm duyệt đành cho cắt bỏ 2 câu kia và để cả bài thơ vì mất 2 câu - đã chuyển hướng theo ý nghĩa khác rồi vẫn được phổ biến, để không bị Sếp lớn cho là - bất tuân thượng lệnh! Cái chính – vì mất 2 câu thơ, có thể người đọc đã hiểu sai nguyên tác Điêu Tàn, sự phản kháng của ngòi bút đã bị hóa giải !

Thời kì đầu Thế kỉ 20 đến cuối những năm ba mươi, Thực dân Pháp đàn áp các cuộc nổi dậy, chém giết các chiến sĩ cách mạng tràn lan qua các vụ Hà Thành Đầu Độc, Ngày Tang Yên Bái, Cần Vương, Đề Thám. Từ suy nghĩ phân tích trên, có thể đi đến nhận định: Chế Lan Viên viết Điêu Tàn là có chủ ý: Khơi dậy trong lòng người đọc – dân tộc Việt - tinh thần chống ngoại xâm. Bảo vệ độc lập chủ quyền của lãnh thổ. Chúng ta phải phục hiện sự thực, cho dù hơi muộn nhưng muộn vẫn còn hơn không. Không thể để các thế hệ sau tiếp tục hiểu sai lệch ý tác giả Điêu Tàn, chỉ vì vài ý kiến trước đó hiểu chưa đầy đủ, hời hợt, kéo theo, làm biến dạng nguyên tác...

Chế Lan Viên là người yêu tổ quốc, đất nước như bao người Việt Nam khác. Chỉ nói riêng phần thi ca, ông đã viết, làm nổi lên những giá trị, nối tiếp sau Điêu Tàn. Chỉ cần 4 câu thơ trong bài Tiếng Hát Con Tầu đã đủ, tiếp tục đưa ông lên vị trí nhà thơ lớn của dân tộc:

‘’…

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua mà chẳng thấy yêu thương
Nơi ta ở - chỉ là đất ở
Nơi ta đi - đất bỗng hóa tâm hồn
…’’

Nhà Văn Nghệ Sĩ có thể có nhiều cách thể hiện ca ngợi tổ quốc mình bằng sáng tạo tác phẩm - dài, ngắn. Chế Lan Viên chỉ cần 4 câu thơ đã nói thay cõi lòng của nhiều người. Tổ quốc - là Đất, Nước. Đọc lên mọi người cảm nhận ngay bởi mấy từ Đất bỗng hóa tâm hồn. Vì là tâm hồn nên Đất trở thành thiêng liêng, thân yêu. Đất - chính là Mẹ hiền, là Tổ quốc Việt Nam !

Phải nghe tiếp những câu thơ hào hùng trong bài: Tổ quốc có bao giờ đệp thế này chăng, xâu chuỗi lại mới thấy rõ chủ ý của Chế Lan Viên - từ Điêu Tàn, ngược từng cột mốc lịch sử của hôm qua rồi quay trở về hôm nay: Kêu gọi cả Dân tộc đứng lên Bảo Vệ Tổ Quốc khỏi họa xâm lăng đang ngày đêm tiềm ẩn :

Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chưa đâu!
Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất!
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên
trên sóng Bạch Đằng...

Những anh hùng dân tộc - đứng đầu các cuộc chống xâm lăng phương Bắc được nhà thơ ghi lại trong từng câu thơ khiến người đọc đương thời cảm động, trỗi dậy khí thế hiên ngang nhờ oai linh của tổ tiên…

Chế Lan Viên đã để lại cho thi đàn Việt Nam nhiều bài thơ giá trị, cùng những tác phẩm nhiều thể loại khác. Nhưng ông cũng là người duy nhất trong làng thơ Việt Nam khi các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đã lùi xa, vẫn viết, để lại những thi phẩm trác tuyệt. Dù đã đi vào cõi vĩnh hằng, dù lúc còn sống các thi phẩm giá trị chưa được công bố . Giờ, khi tác giả đã trở về với cát bụi, các thi phẩm tuyệt vời mới được người đời, đọc, biết đến. Người đọc Việt Nam ngay lập tức phải ngả mũ kính chào, tôn vinh Chế Lan Viên, xem ông là Thi sĩ trứ danh của Văn Chương Việt Nam hiện đại.

Các thi phẩm nổi tiếng công bố muộn mằn của Chế Lan Viên - in trong Di Cảo Chế Lan Viên - chính là 3 bài thơ: Ai Tôi - Bánh Vẽ - Trừ Đi!

AI TÔI ?

Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm còn sống sót có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó?
Tôi!
Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi lúc xung phong

Một trong 30 người khi ở mặt trận
về sau mười năm
Ngồi bán quần trên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy mọi chỗ
Chả Huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính tôi!

Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ!
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm
Mà tôi xấu hổ!
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay
Tôi có thể cười!...

1987. (Di cảo của Chế Lan Viên)

 

BÁNH VẼ!

Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui!
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì còn đâu dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì sảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...

(Rút trong tập Văn học và Dư luận,

NXB Trẻ TP HCM - Di cảo của Chế Lan Viên)

 

TRỪ ĐI!

Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu ? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ.
Tôi giết cái cánh sắp bay...
trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi
cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển.
Giết mưa và giết luôn cả cỏ
mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi,
không có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình !

(Rút trong tập Di cảo (4) của Chế Lan Viên)

Berlin 27.9.2007 – 8.2013

LXQ

___________

1 - Rút từ Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1942. Theo Bách khoa toàn thư VN : Chế Lan Viên sinh ở Cam Lộ, Quảng Trị (?)
2 - Thi Nhân VN trang 238 - 239
3 - lời giới thiệu của Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam…
4 - Di Cảo được Hội nhà văn Việt Nam tặng giải thưởng văn chương.


Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Sáu 20192:22 SA
Khách
Bạn phải đọc cả tập Điêu tàn của CLV rồi mới có thể có ý kiến về bài này cũng như với từng bài khác của tập thơ này. Đây là một vấn đề lớn khi bàn về Cụ "Chế" này.
Vấn đề không giản đơn đâu. Cả tập "Điêu tàn" là cảm xúc của CLV về cả một Đế chế- Đế chế Chiêm Thành và CLV đã xót thương sự "Điêu tàn" của Đế chế này đến mức lấy Chế làm Họ cho mình, trong khi ông tên là Phan Ngọc Hoan sinh tại Quảng Trị. Ông thương sót một Triều đại đã từng là "Giặc phương Nam" của nước Việt ta với các Thủ lĩnh như Chế Củ, Chế Bồng Nga,..đã bị các Vua Việt Nam "Mang gươm đi mở Cõi"(Thơ Huỳnh Văn Nghệ) chinh phục để có một Việt Nam "Từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau"(Ta đi tới- Thơ Tố Hữu) như hôm nay.
Bạn hãy liệu mà Khen- Chê cho toàn diện, không Khen vặt từng bài được đâu

Lê Sỹ Thiệp
20 Tháng Ba 20194:35 SA
Khách
Cần cẩn thận với Ông này
Lá Mặt, lá Trái có ngày Quốc Vong
Viết Điêu Tàn, chửi Tổ Tông
Ai làm nên nỗi Tiêu vong Sứ Chàm?
Độc đi, Lịch sử Việt Nam
Ngàn năm mở Cõi Trời Nam một vùng
Thế mà Ông Chế não nùng
Ông chỉ còn thiếu Chửi Ông Cha mình
Kẻ xâm lược Đất Chiêm Thành
Biến vùng Chù Tháp nay thành "Tàn Điêu"
Lê Sỹ Thiệp
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
)
04 Tháng Sáu 20237:35 SA(Xem: 15)
Anh Cung, tiếng cuốc trong thơ anh chắc cũng đau đáu cái nỗi đau con quốc quốc của Bà Huyện Thanh Quan. Nhưng chỗ tụ lửa trong tâm hồn anh, tôi đồ, vẫn là Ngày Mai anh viết hoa.
28 Tháng Năm 202312:14 CH(Xem: 70)
Tác giả “Ly Rượu Mừng”, nhạc sĩ Phạm Đình Chương, là một đột phá trong nền âm nhạc Việt.
10 Tháng Tư 20234:11 CH(Xem: 575)
Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ lớn, người cách tân táo bạo Thơ Việt, khơi mở Thơ TỰ DO.
24 Tháng Ba 20235:18 CH(Xem: 318)
Tôi gặp nhà văn Minh Quân lần đầu tại nhà nhà văn Võ Hồng ở Nha Trang năm 1973.
04 Tháng Ba 202310:00 SA(Xem: 356)
Chưa bao giờ tôi ước mình là công dân một nước khác.
27 Tháng Hai 202310:33 SA(Xem: 307)
Thi sĩ Nguyên Sa đã nói “Làm thơ hay dễ lắm. Thơ hay như một đường gươm bén. Làm thơ dở mệt lắm, giống như đi cày!” Khi gặp anh, tôi nói rất tâm đắc câu nói về chuyện làm thơ hay của anh. Nguyên Sa nói thêm, thật ra không có thơ dở. “Cái gọi là thơ dở không phải là thơ!”
24 Tháng Giêng 20233:21 CH(Xem: 262)
Nhà văn hóa Nguyễn Vỹ đã gắn bó, hoạt động năng nổ, đầy tâm huyết nên có con đường mang tên Nguyễn Vỹ!
06 Tháng Giêng 20239:23 SA(Xem: 314)
Năm 1943, Nguyễn Bính cùng Vũ Trọng Can và Tô Hoài rủ nhau làm một chuyến giang hồ từ Hà Nội vào Sài Gòn.
30 Tháng Mười Hai 20222:00 CH(Xem: 326)
Nói về chuyện mê đồ cổ thì chắc không ai bằng Vương Hồng Sển
05 Tháng Mười Hai 202210:08 SA(Xem: 421)
Có khi nào chúng ta tự đặt ra câu hỏi: đời sống văn học cần nhà phê bình để làm gì?
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 31641)
Bài thơ đầu tiên (?) của Tô Thùy Yên được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết tháng 4 năm 1956.
(Xem: 3219)
Nói cách khác, theo tôi, Vĩnh Quyền nhà văn đã vượt trên chính mình. Điều không dễ với khá nhiều người cầm bút, còn lại.
(Xem: 7893)
Người đầu tiên hăm hở xắn tay áo, bước vào lãnh vực xuất bản, giai đoạn sơ khai, là ông Đỗ Ngọc Tùng, nhà Đại Nam
(Xem: 8845)
Tôi không rõ thời gian ở VN trước tháng 4-1975, nhà báo Ngọc Hoài Phương có làm thơ nhiều không?
(Xem: 18315)
Nếu không kể những nhà xuất bản chuyên nghiệp như nhà Sống Mới, Khai Trí, Đồng Nai, Nguyễn Đình Vượng, hay Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn, Trí Đăng…thì, những nhà xuất bản được điều hành bởi các nhà văn, nhà thơ cũng đã tạo được ít, nhiều tiếng.
(Xem: 18)
Du Tử Lê nổi tiếng nhất với tư cách một thi sĩ.
(Xem: 4984)
Hôm nay, một sáng nắng ấm, trời thu, Nam California, chúng tôi ngậm ngùi đưa tiễn một Nhà thơ.
(Xem: 4861)
Sáng thứ tư 9/10/2019, thấy cái post của Hạnh Tuyền: “Ông ngoại đã lên trời”.
(Xem: 10138)
Du Tử Lê, quả nhiên vẫn là một nhà thơ hiếm hoi. Anh vẫn một mình một cõi. Đó là một điều đặc biệt. Và đối với một thi sĩ, thì đó là một sự thành công.
(Xem: 16360)
Tại sao cả hai tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại là Mai Thảo và Nguyên Sa lại có cùng một nhận xét giống nhau về thơ Du Tử Lê
(Xem: 15961)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 5795)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 5683)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 6046)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 6331)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 26680)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 18480)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 21986)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 19703)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 18255)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 15670)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 14695)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 14992)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 13972)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 13747)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 20853)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 28128)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 32273)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,