Mùa thu năm ấy, cưới vợ chưa đầy một năm, gã đã bị gọi sung quân. Thay vì bị đưa ra tận biên giới làm lính trấn ải, gã được điều động về phủ Chúa. Vị quan trưởng phụ trách tuyển chọn đã tình cờ nhìn thấy gã trong hàng quân. Có thể do gã có thân hình vạm vỡ và giỏi nghề kiếm cung. Cũng nghe nói người tiền nhiệm của gã mới chết vì một cơn bệnh đột ngột.
Mới trình diện buổi sáng, buổi chiều gã được lệnh phải thi hành nhiệm vụ. Gã được viên quan trưởng hướng dẫn cách thức và thủ tục hành quyết. Nói thì có vẻ nghiêm trọng, thật ra công việc của gã cũng đơn giản, tưởng chừng như ai cũng có thể làm được. Cứ theo lịch niêm yết, mỗi khi có kẻ tội đồ bị giải đến, trói chặt vào chiếc cọc, gã chỉ việc chờ đợi ba hồi trống dài báo hiệu dứt, tiếng trống lệnh vang lên là vung đao chém, còn những phần vụ khác không thuộc trách nhiệm của gã. Tuy thế, công việc của gã lại rất bề bộn và cấp bách. Danh sách những người sắp bị hành quyết có vẻ như ngày mỗi dài thêm, mà lệnh của phủ Chúa thì không thể thay đổi hoặc trì hoãn được.
Chiều hôm đó, khi ánh mặt trời khuất dần sau bức tường thành, giữa cái yên ắng của buổi hoàng hôn, tiếng trống trên thành bất ngờ dồn dập vang lên từng hồi dài. Cư dân sống trong thành chợt như sững lại, ngơ ngác ngước nhìn, dù họ đã quá quen thuộc với tiếng trống gọi hồn đó. Nhịp trống thưa dần rồi im bặt. Trên pháp trường, gã nhắm nghiền đôi mắt chờ đợi. Gã không dám nhìn thẳng vào mặt kẻ bị trói. Công việc này còn quá mới mẻ đối với gã: lần đầu tiên gã được lệnh giết chết một con người. Còn kẻ tử tội, từ lúc được hai tên quân dẫn đến, trói chặt vào chiếc cọc giữa sân, hắn chẳng hề mở miệng nói một câu. Gã nghĩ, có lẽ hắn hiểu được lời hắn nói ra cũng vô ích, chẳng thay đổi được gì, trước mặt hắn, gã chỉ là một kẻ thừa hành. Hắn có vẻ chịu đựng, chờ đợi cái chết đến. Gã không dám nghĩ tiếp, chỉ muốn những phút giây này qua nhanh, càng nhanh càng tốt!
Bỗng một tiếng trống lệnh vang lên, lạc lõng, khô khốc. Gã xoay người, thanh đao trong tay gã vung lên. Một âm thanh nghe rờn rợn bật lên nho nhỏ, một chất gì đó âm ấm nhờn nhợn phun vọt vào mặt gã. Gã không mở mắt cũng đoán biết xác người tử tội đang đổ gục xuống. Nhưng rồi gã chợt sững người, kẻ ấy mới sống đây mà bây giờ bỗng nhiên phải chết. Chết dưới chính bàn tay gã! Hắn phạm tội gì? Tội của hắn có đáng phải chết không? Ai có quyền phán xét, kết tội và cướp đi sinh mạng mà Thượng Đế đã cho hắn? Gã cảm thấy đó là một cái gì không thể chấp nhận được, cũng không lý giải được. Gã quay người vọt ra, ôm thốc lấy mặt, lợm giọng muốn ói. Như kẻ mất hồn, gã không về nhà. Gã bước thẳng vào quán rượu. Không thấy gì chung quanh, và cũng không cần quan tâm đến ai, gã gọi lão chủ quán cho gã mấy bình rượu. Rồi không kịp rót ra chén, cứ thế gã nâng bình lên miệng, tu ừng ực.
Đêm đó về nhà, vừa nhìn thấy vợ ở cửa, gã không lên tiếng, cũng không để ý đến đôi mắt đầy ngạc nhiên và lo âu của vợ. Gã chồm tới ôm xốc vợ đặt lên phản gỗ, kéo tuột chiếc váy và gã quấn lấy người phụ nữ với sức mạnh của con mãnh sư háu đói. Nửa khuya, gã mơ màng nghe tiếng khóc rấm rứt ở góc giường. Gã nhớ lại tất cả, hiểu rõ tất cả. Gã ngồi dậy bước đến bên nàng và quỳ xuống trước mặt nàng. Gã ngước mắt lên như cầu khẩn, như van xin:
- Ta thật... có lỗi với nàng! Ta không bằng cả loài cầm thú?
Nàng nhìn gã không nói được một lời, chỉ có những giọt nước mắt lăn dài trên má. Gã ôm chặt lấy vợ như sợ nàng tan biến đi rồi bỗng òa lên khóc. Tiếng khóc của gã nghe ồ ồ.
Ánh trăng khuyết nghiêng nghiêng qua khung cửa. Ngoài vườn, sương khuya rơi từng giọt từng giọt trên những phiến lá. Sáng hôm sau gã đến gặp viên quan trưởng, giọng gã còn đọng nước mắt. Gã trình bày ý muốn từ bỏ công việc mới được giao, vì không thích hợp: Gã không muốn giết người!
Viên quan trưởng mỉm cười nhìn gã nói:
- Đó chỉ là bọn cướp của giết người! Ngươi không giết hắn thì cũng có trăm nghìn kẻ muốn giết những đứa như hắn để bảo vệ những người lương thiện như ngươi, như vợ con ngươi và hàng xóm láng giềng quanh ngươi. Ta khuyên ngươi nên tiếp tục công việc này còn hơn bị đẩy ra biên giới, đối mặt với cái chết. Gã thầm nghĩ, thì ra bọn này chỉ là quân cướp của, giết người. Gã như cởi bỏ được cả gánh nặng trong đầu. Gã cúi chào viên quan trưởng rồi bước thẳng ra cửa mà không nhìn thấy khuôn mặt vô cảm và cái nhếch mép cười khó hiểu của hắn. Trên đường trở về nhà, gã thầm nghĩ có lẽ giờ này thằng con trai kháu khỉnh đang mong ngóng gã mau về để được gã bồng bế trên đôi tay rắn chắc của gã; và vợ gã cũng đang ngồi bên mâm cơm nóng hổi còn bốc khói, khuôn mặt nàng sáng đẹp như một thiên thần, nàng đang chờ gã với nụ cười trong mắt, và cái hồn dịu dàng tỏa ra từ mái tóc. Nghĩ đến đó, tự nhiên chân gã bước nhanh và một điệu sáo vu vơ tự nhiên bật lên từ miệng gã. Gã như không còn nghe thấy những âm thanh la hét hoảng loạn trong bụi mù, đoàn người ngựa dồn dập, những chiếc xe bít bùng với những khuôn mặt đầy đau xót, phẫn nộ ló ra, hối hả tiến thẳng về phía phủ Chúa.
Ngày qua ngày, gã quen dần với công việc được giao. Gã không còn lạ lẫm với cái âm thanh tê buốt phát ra thật nhẹ từ sự va chạm giữa thanh đao và da thịt trên cổ của người bị chém. Gã cũng chẳng cần phải nhắm nghiền đôi mắt lại để khỏi nhìn thấy cái đầu của kẻ tử tội lăn lông lốc trên nền đá. Nhát chém của gã đã trở nên thuần thục, điêu luyện một cách lạ lùng như một cơn gió nhẹ. Mỗi lần tiếng trống lệnh từ trên thành vang lên, gã lại cố gắng hoàn tất công việc của mình thật nhanh, thật gọn để sớm quay về nhà với vợ, với con, cái thế giới riêng và nhỏ bé của gã. Thật ra, mỗi lần như thế gã đều tự trấn an: Ta chỉ là một tên quân. Việc nào cũng là việc, làm đao phủ hay ra chiến trường cũng thế. Ở đâu, vị trí nào thì gã cũng chỉ là kẻ thừa hành. Gã chẳng có tội lỗi gì với ai hết. Gã phải sống, vợ con gã cũng phải sống. Chẳng qua chỉ vì sự sống mà gã phải chấp nhận, chứ thật sự gã đâu có muốn làm cái nghề này. Điều đó lâu dần làm cho gã xác tín, hay ít ra gã vẫn có ảo tưởng như vậy. Nhưng đôi khi, từ trong sâu thẳm tâm hồn, gã mơ hồ nghe như có một tiếng nói khác, một thứ mạch ngầm đâu đó mới tượng hình, chảy ngược lại.
Bất chợt gã đưa mắt nhìn qua song cửa sổ. Ngoài vườn, nắng cuối xuân bỗng bùng lên một vùng sáng loáng. Một nhánh cây rung nhẹ, con chim nhỏ vừa đáp xuống, cất tiếng hót tình cờ. Ánh sáng ngọn đèn dầu nhẹ tỏa khắp phòng. Gã ngồi bệt giữa sàn nhà đan những cái sọt để kịp sớm mai vợ gã mang hoa ra chợ bán. Bên cạnh, vợ gã đang phe phẩy chiếc quạt lá dỗ giấc ngủ cho đứa con nhỏ. Ba cái bóng lay động in lên tường. Đêm vẫn yên tĩnh.
Bỗng nàng ngước nhìn chồng ngập ngừng:
- Chàng ạ.
Gã không quay lại:
- Nàng định nói gì?
Giọng nàng thật nhẹ, pha lẫn chút lo âu:
- Sáng hôm nay ở ngoài chợ, lại có chuyện lộn xộn.
Gã thản nhiên:
- Lại bọn trộm cướp?
Nàng lắc đầu:
- Không phải! Thiếp đã tận mắt nhìn thấy một thư sinh công khai xé nát tờ cáo thị tăng thuế và lớn tiếng chỉ trích bố cáo của phủ Chúa. Cũng may, thư sinh vừa đi thì bọn cấm vệ cũng vừa ập đến. Chúng bắt đi cả những người vô tội.
Gã ngừng tay, đưa mắt đảo quanh:
- Nàng không nên nói. Ở đây, tai vách mạch rừng... Vả lại, việc đó chẳng liên quan đến chúng ta!
- Thiếp không hiểu, nhưng thiếp sợ.
Gã quay lại nhìn vợ, nhíu mày:
- Nàng sợ gì chứ?
- Thiếp sợ... một cơn bão bất ngờ thổi tới.
Gã cố cười lên thành tiếng:
- Nàng chỉ lo sợ viển vông!
Bất ngờ có tiếng đập cửa. Cả hai vợ chồng ngạc nhiên nhìn ra. Vợ gã lo lắng, còn gã thì bình tĩnh đứng dậy đến bên cửa mở then. Cánh cửa vừa bật ra thì một thân người đổ nhào xuống. Gã vừa kịp ngưng đôi tay rắn chắc sắp sửa đánh thốc tới. Vợ gã như quên mất cả sự sợ hãi, nàng bước nhanh tới, đóng chặt cánh cửa trước khi cúi xuống bên kẻ lạ mặt quan sát, rồi quay lại nói với gã:
- Người này chính là thư sinh mà thiếp nói. Vết thương khá nặng. Chắc phải mời đại phu.
Bỗng bên ngoài đèn đuốc sáng trưng, tiếng người ngựa, tiếng binh khí ồn ào, náo động cả một khu vực, rồi tiếng đập cửa dồn dập. Trong khi gã chưa kịp phản ứng thì vợ gã đã nhanh tay kéo người bị nạn vào bên trong. Một lát sau nàng quay trở ra, bước đến bên khe ván nghiêng mắt nhìn ra ngoài. Gã lặng im và thụ động dõi theo những cử chỉ của nàng, gã linh cảm một tai ương sắp đổ ụp xuống thân phận của gã, của vợ con gã. Gã muốn nói một điều gì đó, nhưng gã chưa kịp nói thì lại có tiếng đập cửa, lần nầy có vẻ cấp bách hơn. Không chần chờ được nữa, gã mở cửa. Một toán cấm vệ binh, đi đầu là một viên đội trưởng cao lớn, có đôi mắt xếch to, chiếc cằm bạnh và bộ râu vểnh, hùng hổ bước vào:
Viên đội trưởng đưa mắt quan sát khắp nhà. Đôi mắt hắn như có vẻ dịu lại khi nhìn thấy bộ quân phục của gã treo trên tường. Hắn hất hàm lên tiếng hỏi:
- Ngươi cũng là người của phủ Chúa?
Gã gật đầu không nói. Viên đội trưởng vẫn giọng hách dịch:
- Các ngươi có thấy một tên thư sinh chạy vào đây không? Hắn là một tên tội phạm nguy hiểm của triều đình.
Vợ gã lên tiếng:
- Thưa Ngài, tiện dân không nhìn thấy.
Viên đội trưởng gằn giọng:
- Chính mắt ta thấy hắn chạy về phía này. Nếu các ngươi cố tình che giấu thì toàn gia sẽ bị kết tội!
Nàng vẫn giọng bình tĩnh:
- Liệu hắn trốn ở đâu đó...
Viên đội trưởng đưa tay ra lệnh:
- Quân bay, hãy vào trong lục soát!
Được lệnh, hai tên cấm vệ binh xông vào trong. Nàng nhìn theo run bắn người lên, tưởng như muốn khuỵu xuống nếu như không có bàn tay gã kín đáo giữ chặt. Cả hai nhìn nhau với ánh mắt tuyệt vọng. Họ biết rõ số phận của họ sẽ được định đoạt một khi thư sinh bị bọn cấm vệ binh phát hiện. Chỉ ít phút nữa thôi. Bàn tay của họ tìm đến nhau và nắm chặt lấy nhau như không muốn rời ra. Họ vĩnh viễn muốn ở bên nhau.
Nhưng hai tên cấm vệ đã trở ra, quay về phía viên đội trưởng:
- Chúng tôi đã lục soát kỹ, nhưng không có dấu vết gì của tên tội phạm!
Viên đội trưởng cấm vệ hậm hực đưa tay ngoắt và ra lệnh:
- Thôi, đi!
Cả toán cấm vệ binh lục tục quay trở ra. Khi cánh cửa gỗ vừa khép lại thì nàng không còn chịu đựng nổi, ngất đi. Gã hốt hoảng lay gọi:
- Bọn chúng đã đi hết rồi. Nàng tỉnh lại đi!
Một lát nàng mở mắt, ánh mắt vẫn chưa hết vẻ sợ hãi:
- Tại sao bọn chúng không tìm thấy? Rõ ràng là thiếp đã giấu thư sinh trong tủ thờ.
Như nhớ ra, cả hai vợ chồng hấp tấp đứng bật dậy bước vào trong, đến bên tủ thờ. Cánh cửa tủ đã mở từ bao giờ. Chắc chắn là bọn cấm vệ không bỏ sót. Hai vợ chồng nhìn nhau thắc mắc:
- Không lẽ anh ta có cánh?
Bỗng có tiếng động và tiếng nói thật nhẹ của thư sinh từ dưới giường lồm cồm đứng lên, làm cả hai giật mình thảng thốt:
- Vãn sinh làm gì có cánh! Khi bọn chúng lục soát vãn sinh chỉ kịp bám sát dưới thành giường. Có thể, một trong hai tên cấm vệ đã nhìn thấy vãn sinh, nhưng hắn đã làm như không thấy. Tuy vậy, vãn sinh thành thật xin tạ lỗi đã làm hai vị lo lắng. Bây giờ thì vãn sinh phải đi.
Vợ gã buột miệng:
- Nhưng tiên sinh còn yếu lắm. Hãy đợi vợ chồng thiếp băng bó vết thương rồi đi cũng chưa muộn.
Thư sinh lắc đầu:
- Vãn sinh phải rời khỏi đây ngay. Để phòng khi bọn chúng sẽ trở lại. Nếu hai vị vì vãn sinh mà bị liên lụy thì vãn sinh sẽ ân hận suốt đời. Trước đây, vãn sinh chỉ biết luận bàn văn chương thi phú, hay ngược xuôi với chuyện bán buôn. Cứ làm như không nhìn thấy chung quanh còn biết bao kẻ nghèo đói, bất hạnh. Bây giờ thì vãn sinh phải làm một cái gì đó!
Dứt lời, thư sinh quay người biến vào bóng đêm. Gã bất động nhìn theo, miệng lẩm bẩm:
- Ta đâu phải là kẻ ngoại cuộc!
Vợ gã ngước nhìn gã thắc mắc:
- Chàng nói gì?
Gã lắc đầu, kéo nàng sát vào ngực. Gã mơ hồ cảm thấy mọi sự bắt đầu đảo lộn bên trong lòng gã. Cái thế giới thiên đường nhỏ bé giữa khói lửa chiến tranh hừng hực bủa vây, mà từ bao lâu nay gã cố rào chắn, bảo vệ đã thật sự lung lay, không an toàn như gã tưởng. Cái tiếng nói khác, cái mạch ngầm chảy ngược lại mà gã đã cố xua tan đi, khước từ trong lòng gã giờ đã hình thành, đã lớn lên. Gã nâng mặt vợ lên, nhìn thẳng vào đôi mắt nàng. Ôi chao, sao đôi mắt nàng có thể đẹp đến thế. Gã cúi xuống nhẹ đặt môi hôn lên đôi mắt nghìn trùng yêu thương đó, gã cảm thấy ươn ướt và mặn đắng ở đầu lưỡi.
Kể từ cái đêm hôm ấy, gã lầm lì ít nói hẳn. Gã gần như thường xuyên bị những lời nói của thư sinh ám ảnh, dằn vặt. Gã thắc mắc không biết đã có bao nhiêu người như chàng thư sinh kia đã bị giết dưới thanh đao oan nghiệt của gã? Ít ra, họ là những người có trái tim yêu thương, có trách nhiệm với những người cùng sống. Hẳn nhiên họ không phải là những kẻ cướp của giết người. Thế là mỗi khi bước ra khỏi nhà, chen lấn giữa dòng người, gã luôn hy vọng một tình cờ nào đó giúp gã gặp lại thư sinh. Gã cũng không biết gặp để làm gì, sẽ nói gì với thư sinh, nhưng trong thâm tâm gã thật sự muốn gặp. Đã bao ngày qua, sự tình cờ đã không đến, nhưng gã vẫn cứ hy vọng.
Chiều hôm đó, trên đường phố, gã thoáng thấy một bóng người có dáng dấp hao hao giống thư sinh đang chen lấn giữa đám đông. Gã háo hức bước vội theo, bao nhiêu lần tưởng hụt mất, nhưng rồi gã cũng theo kịp. Khi đến gần, gã mừng rỡ níu lấy vai người kia:
- Này, tiên sinh…
Nhưng ngay lập tức gã lắp bắp lên tiếng xin lỗi. Vì người đó không phải là người gã muốn tìm. Gã cảm thấy bị hụt hẫng, đau đớn như có ai đâm vào trái tim gã những mũi kim sắc nhọn. Gã lầm lũi quay trở về nhà. Bất ngờ, phía trước mặt cát bụi mịt mù, một đoàn người ngựa từ xa phóng tới. Trong tiếng gào thét hoảng loạn gã nhìn thấy toán cấm vệ binh, dẫn đầu là tên đội trưởng đã từng lục xét nhà gã. Chợt gã thót người lại vì thoáng thấy trên chiếc xe chở tội phạm có cả thư sinh. Đúng là chàng ta chứ không ai khác. Khuôn mặt thư sinh có những vết thương, áo quần nhàu nát, hai tay bị trói quặt sau lưng và cái xiềng vắt qua cổ, nhưng đôi mắt vẫn sáng quắc nhìn về phía trước. Chợt gã có ý nghĩ phải chi thư sinh quay nhìn gã. Trong phút giây đó gã chỉ ước mong có vậy. Không biết vô tình hay hữu ý, thư sinh quay nhìn về phía gã mỉm cười. Như một cái máy, gã gật đầu đáp lại. Gã không dám tin thư sinh lại có thể nhìn thấy gã và mỉm cười
với gã trong một tình huống như thế, nhưng dù sao điều đó cũng làm gã thấy an ủi, gã cảm động thật sự. Gã đứng sững nhìn theo cho đến khi đoàn người ngựa mất hút về hướng phủ Chúa. Bất chợt nhớ ra, gã chạy rất nhanh về nhà. Vợ gã đang giặt quần áo bên giếng trước sân với thằng con trai. Gã đến trước mặt nàng, nói từng tiếng như sợ nàng không nghe rõ:
- Nàng hãy chuẩn bị mọi thứ, chúng ta phải rời khỏi đây trước khi tiếng trống trên thành đánh lên.
Vợ gã đã hiểu, nàng hấp tấp ôm con đứng bật dậy bước vào nhà sau. Gã bước thẳng đến bên cái giá trên chiếc bàn nhỏ kê ở góc trái. Gã cầm thanh đao nâng lên, thanh đao đã từng cùng gã rong ruổi đó đây của một thời trai trẻ. Gã ngắm nghía thanh đao trong tay một hồi lâu, lòng dậy lên bao nỗi đau xót, tê dại. Rồi bất ngờ gã bậm môi, dùng hết sức bình sinh đánh bật xuống. Một tiếng choang vang lên, thanh đao gãy làm hai khúc rơi xuống thềm nhà.
10.7.2001
Gửi ý kiến của bạn