NGUYÊN HƯNG - Tiếp cận hội họa — từ góc nhìn đương đại

04 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 12110)
NGUYÊN HƯNG - Tiếp cận hội họa — từ góc nhìn đương đại

 

Bài 1: Ghi chú về người xem tranh  

Trước tranh, công chúng có nhiều phản ứng khác nhau, nhưng đa số thường thể hiện ở hai chiều trái ngược: hoặc “kính nhi viễn chi” — né tránh không ý kiến, hoặc bình thản bình phẩm — khen cái này “đẹp”, chê cái kia “xấu”, công nhận hoạ sĩ này “tài năng”, gạt phắc hoạ sĩ kia như một thứ “điên rồ” v.v... Và, trước người xem tranh, không ít hoạ sĩ, cũng vẫn thường nhắc nhở: “cần phải chuẩn bị một tâm hồn”, “cần phải học hỏi về nghệ thuật” v.v...
 
Trong bài viết này, tôi không muốn bình phẩm các phản ứng của công chúng hay hay dở, các ý kiến của các hoạ sĩ đúng hay sai như thế nào, mà chỉ đưa ra một ít ghi chú sơ sài để mọi người nghĩ lại... :

1.
Thưởng thức hội hoạ là thưởng thức cái được thể hiện trên mặt tranh. Tuy nhiên sự thưởng thức hội hoạ, theo các nhà tâm lý học nghệ thuật hiện đại, không bao giờ thuần túy có nghĩa là thưởng thức cái được NHÌN THẤY (tranh). Có rất nhiều thứ mai phục bên trong, ẩn kín nơi tâm hồn mỗi người, chi phối cái sự NHÌN VÀ THẤY đó. Đó chính là những hành trang văn hoá, là vốn sống, vốn kiến thức mà mỗi người mang theo khi tiếp cận tác phẩm hội hoạ. Với vốn sống và vốn văn hoá khác nhau, người ta sẽ thấy ở tác phẩm hội hoạ được nhìn những sắc thái và ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Cũng là “Phố” Hà Nội của một Bùi Xuân Phái, nhưng trong mắt nhìn của một người đã từng gắn bó với Hà Nội, đã từng yêu Hà Nội, và trong mắt nhìn của một người chưa từng một lần đến Hà Nội, sẽ hoàn toàn khác nhau. Với những người đã từng gắn bó, từng yêu Hà nội, “Phố Phái”, không chừng, chỉ là những cái cớ dẫn họ vào một không gian nào đó trong ký ức của mình. Với họ, “Phố” của Bùi Xuân Phái, không hẳn đã là đối tượng của sự thưởng lãm nghệ thuật, mà nhiều khi chỉ là đối tượng của kỷ niệm. Cách tiếp cận này, có thể trở thành một trở ngại cho sự cảm thụ nghệ thuật. Bởi, khi là đối tượng của kỷ niệm, người ta thường chỉ nhận thấy khía cạnh Ý NGHĨA, mà ở đó, hình vẽ thuần túy chỉ như một khái niệm, thậm chí, chỉ là cái cớ. Còn với người xa lạ, Bùi Xuân Phái, nhiều khi được nhìn nhận như một hoạ sĩ nhiều hơn. Không biết về Hà Nội, không biết nhiều về tác giả của “Phố Phái”, người ta phải chăm chú vào bề mặt tranh. Phải cảm Hà Nội, phải cảm Bùi Xuân Phái từ những gì hiện diện trên mặt tranh, không bị chi phối bởi những câu chuyện, những huyền thoại, người ta có cơ may trở nên khách quan hơn khi đánh giá tài năng của nhà hoạ sĩ nổi tiếng...

2. Kiến thức về hội hoạ, về nghệ thuật nói chung, và sự tiếp xúc thường xuyên, chính là các yếu tố quyết định cho sự thích ứng — hiểu theo nghĩa quan tâm hay yêu thích —với KÊNH, DÒNG hội hoạ nào đó. Và quyết định cho sự hoà nhập, thụ cảm với một NGƯỠNG, ĐỘ giá trị (nghệ thuật) nào đó. Không tiếp xúc nhiều với thế giới hội hoạ, không thấy sự đa dạng của các hình thức nghệ thuật, và gắn liền với nó là sự đa dạng vô cùng tận của các quan điểm và phương pháp sáng tác v.v... người ta, hoặc rất dễ sa đà trong các ngộ nhận cho rằng, nghệ thuật là cái gì sẵn có, có bản chất bất biến và có những qui phạm có giá trị vĩnh cửu..., hoặc cứ quẩn quanh trong sự đối chiếu nghệ thuật với thế giới hiện thực trong “đôi mắt vật lý” nhìn ra. Trong cách thứ nhất, người ta rất dễ cố thủ trong những giá trị của quá khứ, lấy đó làm chuẩn mực cho sự đánh giá, nhìn nhận. Và, rất dễ có thái độ dị ứng, loại trừ những gì quá mới lạ... Trong cách thứ hai, người ta rất dễ tự nhốt mình trong sự ngưng trệ của tiêu chuẩn hội hoạ “truyền thần”, xem vẽ chỉ là mô phỏng, là tái tạo “hiện thực”, đồng hoá cái đẹp trong nghệ thuật với cái “đèm đẹp”, cái “xinh”, cái “nhã”, cái “cao thượng” trong cuộc sống; đồng hoá công việc sáng tác của người nghệ sĩ như một nghề thủ công, và, xem tài năng hoạ sĩ, chỉ là ở “hoa tay” v.v...

Nói chung, trong mắt người xem, như đã “ghi chú” ở trên, tác phẩm hội hoạ, thực chất, không còn giá trị ĐỘC BẢN nữa. Có bao nhiêu người xem, là có bấy nhiêu DỊ BẢN, và thường, chẳng có cái nào giống cái nào... 


Bài 2: Ghi chú về người vẽ tranh 

Hoạ sĩ, không ít người luôn “kêu gào tự do”, nhưng chính họ, nhiều khi lại rất “độc đoán” khi bình phẩm về đồng nghiệp — làm như chỉ có họ mới là kẻ cầm nắm “chân lý”...
 
Thực ra, người hoạ sĩ, khi sáng tác, cũng chịu sự chi phối của các yếu tố mai phục, ẩn kín như ở người xem tranh. Trước khi là con người-sáng tạo, hoạ sĩ là con người-văn hoá. Và, chính cái tính cách và tầm vóc con người-văn hoá này sẽ là những tác nhân thúc đẩy hay kiềm chế con người-sáng tạo nơi mỗi hoạ sĩ. Nó qui định hay quyết định cách nhìn, cách nghĩ của hoạ sĩ về nghệ thuật. Kéo theo là qui định hay quyết định phương pháp sáng tác của hoạ sĩ. Và đương nhiên, cuối cùng, là quan niệm, là tiêu chuẩn về hiệu quả trên mặt tranh.

— Những hoạ sĩ tin rằng hội hoạ là để tôn vinh vẻ đẹp của tự nhiên, là để thanh lọc tâm hồn hay làm thăng hoa các cảm xúc con người... dễ có khuynh hướng đi vào quĩ đạo của các chuẩn mực nghệ thuật đã trở thành Cổ điển. Các chuẩn mực đề cao sự hài hoà (hiểu theo nghĩa cân bằng thị giác...), đề cao sự cao cả, sự trong sáng của hình tượng, của tư tưởng và tình cảm v.v...

— Những hoạ sĩ tin rằng hội hoạ là để phản ánh hiện thực, hay để biểu lộ tâm tư, phơi bày bản ngã... dễ có khuynh hướng bấu víu vào các nội dung chỉ định của hình, vào tầm quan trọng của đề tài, và tính tư tưởng của chủ đề... Hiệu quả trên mặt tranh, được khoanh lại trong các tiêu chuẩn về tính điển hình của hình tượng, về tính chắt lọc và khái quát của ngôn ngữ thể hiện... — tất cả, là nhằm tạo nghĩa, nhằm làm “vang nghĩa” cho tranh. Ở đây, cái biểu đạt (hình thức nghệ thuật) gắn liền với cái được biểu đạt (hiện thực). Và, mức độ bộc lộ sáng tỏ ý nghĩa cái được biểu đạt trở thành tiêu chuẩn xác định giá trị cái biểu đạt (hiệu quả trên mặt tranh). Và dĩ nhiên, cũng là tiêu chuẩn xác định tài năng của hoạ sĩ...

— Những hoạ sĩ tin theo các quan điểm nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa, cho rằng các tiêu chuẩn mỹ học cổ điển chỉ là giả tạo (đối tượng của nghệ thuật không chỉ là những vẻ đẹp lý tưởng); cho rằng phương pháp sáng tác Hiện thực hay Lãng mạn chủ nghĩa lấy việc phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống, hay lấy việc biểu lộ chân thành cá tính hay tâm tư nghệ sĩ làm mục đích tối thượng chỉ là ảo tưởng hay ngộ nhận do sự trì trệ của tư duy trong tâm thế lạc hậu (Nếu lấy phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống làm mục đích tối thượng, hội hoạ không thể nhanh nhạy và hiệu quả như nhiếp ảnh, điện ảnh hay truyền hình; nếu lấy biểu lộ chân thành cá tính hay tâm tư nghệ sĩ làm mục đích tối thượng, thì trước tính chất DỊ BẢN trong cách nhìn và thấy nơi mỗi người xem, cũng trở thành vô nghĩa...) thì, như một lẽ đương nhiên, những hoạ sĩ đó dễ có khuynh hướng tự đưa mình vào cuộc phiêu lưu bất tận của những tìm tòi sáng tạo CÁI MỚI.

Xin lưu ý các chữ “dễ có khuynh hướng” trong các nhận định trên. Không ai có thể loại trừ trường hợp có những nghệ sĩ nghĩ và tin như thế này nhưng lại sáng tác theo một cách khác. Công việc sáng tạo vốn vô cùng phức tạp, bị/được thúc đẩy bởi nhiều động lực khác nhau, trong bản thân người nghệ sĩ cũng như bên ngoài xã hội, từ ý thức cũng như từ tiềm thức, từ những tài sản văn hoá tích luỹ lâu dài cũng như từ những ngẫu hứng bộc phát tình cờ, vượt ra ngoài mọi sự chờ đợi hay tiên đoán. Tuy nhiên, nhìn chung, các nhà lý thuyết nghệ thuật cũng như văn hoá đều tin tưởng vào mối quan hệ gần gũi giữa quan điểm thẩm mỹ và phong cách sáng tác.

Nếu lịch sử nghệ thuật cho thấy có nhiều quan điểm thẩm mỹ và nhiều phong cách khác nhau thì một kết luận không thể tránh được là: không có một tiêu chuẩn chung cho cái gọi là hiệu quả trên mặt tranh nói chung. Cũng như, không có tiêu chuẩn chung cho “cái đẹp”, không có qui phạm chung cho cái gọi là nghệ thuật. Thử xem, nếu xem những thiếu nữ no tròn mũm mĩm trong ánh nắng với bảng màu lung linh của Renoir là “đẹp”, thì những bà già tóp teo, dúm dó trong xó nhà âm u của Van Gogh là gì? Nếu xem những vệ nữ duyên dáng, thanh tao của Botticelli là “đẹp”, thì những hình mẫu đàn bà “cao su hoá” nhễu nhão của Dali, hay những mẫu “nude” như bê tông, như gạch vụn của Picasso là gì?... Nếu xem những bức tranh phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống như của Coubert, những bức tranh phơi bày mãnh liệt các xung động nội tâm như của Van Gogh là nghệ thuật..., thì những bức tranh không rõ hình thù, không rõ tâm tình như của Mondrian, của Kandinsky v.v..., thì gọi là gì? v.v... và v.v...

Tính chất đa dạng của những cái gọi là “đẹp” ấy cho thấy lịch sử nghệ thuật là một sự vận động liên tục. Niềm tin vào tính chất phổ quát và vĩnh cửu của môt phong cách hay một kỹ thuật sáng tác nào đó chỉ là một ảo tưởng. Một nghệ sĩ lớn chỉ lớn khi góp phần thúc đẩy quá trình vận động của các quan niệm về nghệ thuật cũng như về cái đẹp. Nói cách khác, chính bản thân họ phải thay đổi cách nhìn cùng lúc với việc thay đổi cách vẽ. (Nguồn: Tiền Vệ)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Sáu 20253:40 CH(Xem: 388)
Thơ của Du Tử Lê thì rất nhiều vần trắc, khó viết nhạc.
25 Tháng Sáu 202510:48 SA(Xem: 375)
Ông sống với anh em bằng cả tấm lòng, không hề phân biệt lớn nhỏ, đã thành danh hay chưa.
15 Tháng Năm 20258:46 SA(Xem: 711)
Chúng tôi mà ở trong ấy, thì cũng thành các anh. Mà các anh ở đây cũng thành chúng tôi. Hoàn cảnh quyết định hết!
05 Tháng Năm 202511:23 SA(Xem: 761)
Thơ giúp tôi giãi bày tâm tư, gửi gắm ước mơ, phản ảnh góc nhìn đa chiều với cuộc sống muôn màu.
25 Tháng Tư 20253:54 CH(Xem: 725)
tác giả của “Cánh đồng bất tận” – tiếc khi nhiều người không thích chị đổi mới lối viết,
05 Tháng Tư 20256:12 CH(Xem: 1229)
Là một nhà thơ đa tài, mạnh mẽ, can đảm đi đến tận cùng con chữ, bởi vậy ngòi bút Minh Đức Hoài Trinh đem đến nhiều cảm xúc cho người đọc, người nghe.
25 Tháng Ba 202511:40 SA(Xem: 1443)
Xem hình bưu thiếp xưa, thấy có những kiểu bán hàng rong nhiều thập kỷ trước ở Sài Gòn nay đã vắng bóng.
05 Tháng Ba 202511:23 SA(Xem: 1302)
Có thể nói, chiến tranh tuy tàn khốc, nhưng đã sản sinh ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng xuất thân từ những người lính:
15 Tháng Hai 20252:42 CH(Xem: 1577)
Mỗi nhà văn có một lối viết riêng, mỗi nhà văn chọn một góc nhìn nên tác phẩm về chiến tranh sau chiến tranh thật đa dạng, làm nên một mảng lớn trên diện mạo văn học đương đại.
05 Tháng Hai 20254:13 CH(Xem: 1819)
Lê Công Thành đã trò chuyện với tôi bằng giọng nói của một con người tự do.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 23000)
Tôi, nhiều lần được thấy chị bước ra sân khấu, dịu dàng với nụ cười trẻ thơ, đứng giữa một Mai Hương, đằm thắm, một Kim Tước trầm, tịnh - - hợp ca, những ca khúc được coi là bất tử của nền tân nhạc Việt Nam, trên, dưới năm mươi năm
(Xem: 19951)
Tôi cho, định mệnh có thể vùi dập, xé nát một cá nhân, trong đời thường, nhưng nó vẫn bất lực trước những đóng góp trí tuệ, nếu có, của một người nào đó.
(Xem: 35657)
Tên thật Nguyễn Thị Ngọc Trâm, nữ ca sĩ Minh Trang là cháu ngoại của Công Chúa Mỹ Lương (tục gọi Bà Chúa Nhất,) em ruột với Vua Thành Thái. Ngày 18 Tháng Tám tới đây, bà bước vào tuổi 90 (mà,
(Xem: 32334)
Ở thế hệ thứ hai của sinh hoạt 20 năm âm nhạc miền Nam, tính từ 1954 tới 1975, nếu có một người lặng lẽ nhất trong mọi sinh hoạt,
(Xem: 14179)
Chính Mai Thảo là người đầu tiên, vào từ miền Bắc, mở được cánh cửa tương thông, thân ái giữa những người làm nghệ thuật ở hai đầu “thế giới” lạ lẫm.
(Xem: 9727)
Hôm nay, một sáng nắng ấm, trời thu, Nam California, chúng tôi ngậm ngùi đưa tiễn một Nhà thơ.
(Xem: 892)
Trên vòm trời thi ca Việt Nam bao la, hiếm, có một thi sĩ mang trong mình sự giao hòa mượt mà giữa tình yêu, đời sống và triết tính Phật giáo như Du Tử Lê.
(Xem: 16693)
Du Tử Lê, ông ấy là ai? Sao định mệnh tôi cứ mãi gắn liền với những dòng thơ của ông ta? Nghe nói bây giờ đang ở tại Mỹ
(Xem: 6797)
Tôi mượn câu thơ kết trong bài 'Đêm, nhớ trăng Sài Gòn' của Du Tử Lê để làm tựa cho bài viết này, bài viết về ông: Du Tử Lê - một nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn đối với văn chương Việt Nam.
(Xem: 3802)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 21054)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 9991)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 11445)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 9988)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 13831)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 33266)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 22382)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 27965)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 25322)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 24288)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 22370)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 19829)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 21158)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 18541)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 17404)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 27564)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 34667)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 36372)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,