LTS: Vào hai ngày, 6
và 7 Tháng Mười Hai, sắp tới, hội thảo Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam
(1954-1975) sẽ được tổ chức tại nhật báo Người Việt và nhật báo Việt Báo ở
Westminster. Gần 20 nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và nghiên cứu văn học tại
Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc sẽ trình bày và phân tích những đặc điểm, thành tựu
và ảnh hưởng của văn học miền Nam Việt Nam thời kỳ 1954-1975. Ban tổ chức gồm
nhật báo Người Việt, nhật báo Việt Báo, báo mạng Tiền Vệ và báo mạng Da Mầu.
Nhân dịp này, nhà thơ Du Tử Lê dành cho nhật báo Người Việt cuộc phỏng vấn sau
đây, do nhà báo Đinh Quang Anh Thái thực hiện.
Nhà thơ Du Tử Lê. (Hình: Trần Triết)
Đinh Quang Anh Thái (NV): Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam rất đa dạng gồm nhiều lãnh vực văn, thơ, họa, kịch, điện ảnh... nên khó có thể nêu câu hỏi bao quát, vậy xin hỏi anh về thơ, thưa nhà thơ Du Tử Lê?
Nhà thơ Du Tử Lê: Tuy anh giới hạn câu hỏi trong lãnh
vực thi ca, nhưng ngay lãnh vực này cũng bao la lắm, anh Thái à. Tuy nhiên, tôi
sẽ cố gắng nêu lên một vài điểm chính của dòng thơ miền Nam, 20 năm.
Trước nhất là phong trào thơ tự do ở miền Nam, mà người cầm cờ đầu là nhà thơ
Thanh Tâm Tuyền, trên tạp chí Sáng Tạo. Tưởng cũng nên nhấn mạnh nhà thơ Thanh
Tâm Tuyền không phải là người đầu tiên du nhập thể thơ tự do vào sinh hoạt thi
ca Việt Nam. Mà thơ tự do đã hiện diện trong sinh hoạt văn chương Việt Nam từ
thời tiền chiến với ông Nguyễn Xuân Sanh và nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Kế tiếp,
thời kháng chiến, bắt đầu từ năm 1945, thơ Tự do cũng đã được một số nhà thơ
thuở đó, khai thác, như các ông Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt, Hoàng Cầm… Tuy
nhiên, những người này vì tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, đòi tự do tư
tưởng cho những người cầm bút, nên họ bị nhà cầm quyền Hà Nội thuở đó đàn áp,
trù dập thẳng tay, nhiều chục năm liên tiếp, nên khuynh hướng thơ tự do của họ,
cũng sớm bị kết thúc.
Tưởng cũng nên nhấn mạnh, người cầm cờ đầu phong trào thơ tự do ở miền Nam là
nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhưng người khiến cho độc giả, các nhà thơ trẻ lao vào
thơ tự do lại là nhà thơ Nguyên Sa. Điển hình như bài “Nga,” “Tiễn biệt” hoặc
“Paris có gì lạ không em” của ông. Hai người tôi vừa đề cập, xuất hiện cùng một
lúc, ngay từ những số đầu tiên của tạp chí Sáng Tạo.
NV: Như vậy, Thanh Tâm Tuyền là
người “cầm ngọn cờ đầu” trong lãnh vực Thơ Mới, và Nguyên Sa là người đẩy thơ
mới đi xa; thế còn Cung Trầm Tưởng và Tô Thùy Yên thì sao ạ?
Nhà thơ Du Tử Lê: Hai nhà thơ Nguyên Sa và Thanh Tâm
Tuyền xuất hiện cùng một thời điểm ở ngay bậc thềm thứ nhất của phong trào thơ
tự do miền Nam. Nhưng nhà thơ Cung Trầm tưởng, thời đó, không làm thơ tự do.
Ông chuyên về thơ Lục Bát và nổi tiếng với thể thơ này.
Còn nhà thơ Tô Thùy Yên, mặc dù dư luận thường gắn liền Thanh Tâm Tuyền với Tô
Thùy Yên, giống như một “cập bài trùng” của thơ tự do. Sự thật, Tô Thùy Yên
không chuyên về thơ tự do. Hầu hết những bài thơ của Tô Thùy Yên thời đó cũng
như sau này là thơ bảy chữ và tám chữ.
Ngay bài thơ nổi tiếng nhất của Tô Thùy Yên, thời mới cộng tác với tạp chí Sáng
Tạo là bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” cũng là một bài thơ bảy chữ. Ông giữ
vần chặt chẽ như các nhà thơ thời tiền chiến vậy. Tôi thí dụ: ơiđi với nơi, với chơi,
với rơi.v.v… Chỉ có một chút
khác là, giống như một số nhà thơ cùng thời thuở đó, ông dùng nhiều âm trắc cho
câu thứ hai và thứ tư cho mỗi khổ 7 chữ 4 câu. Cụ thể nơi bài tôi mới nhắc, 4
câu đầu là:
“Trên cánh đồng hoang thuần một mầu
Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi
Tầu chạy mau mà qua rất lâu…”
NV: Nguyễn Đức Sơn làm nhiều thơ,
một số bài dùng nhiều chữ dung tục, thậm chí có bài mô tả cảnh người phụ nữ
“đái;” phải chăng đây là một cách tạo dáng riêng cho mình hoặc là một thái độ
nổi loạn nhằm thoát khỏi những đè nén tình dục vốn không thấy nơi những nhà thơ
thời tiền chiến?
Nhà thơ Du Tử Lê: Cám ơn câu hỏi sâu sắc, bất ngờ của
anh Thái. Tôi nghĩ nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (tên thật), từng được biết dưới bút
hiệu Sao Trên Rừng, cố tình đưa vào trong thơ của ông, những hình ảnh dung tục,
rất đời thường, như anh nói, là một cách phá vỡ khuôn sáo nệ cổ của dòng thơ
tiền chiến, vốn ảnh hưởng quá nặng bởi nề nếp đạo đức Khổng-Mạnh. Mặt khác, tôi
nghĩ, ông cũng muốn tạo một thế giới
ngôn ngữ riêng cho mình nữa. Như tôi nhớ thì trong một bài thơ dài của Nguyễn
Đức Sơn, ở hai đoạn thơ khác nhau, đã hai lần ông đem hình ảnh người phụ nữ đi
tiểu vào trong thơ, đó là: “Bên nương
vắng em vén quần sắp đái/anh thấy càn khôn rụng xuống tim.” Và “Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người/em chưa đái
mà hồn anh đã ướt.”
NV: Giai đoạn 1954-1975, cuộc chiến
ngày càng khốc liệt, sống và chết trong chiến tranh có phải là nỗi ám ảnh của
những người làm thơ miền Nam không ạ?
Nhà thơ Du Tử Lê: Đúng vậy thưa anh Thái. Ám ảnh
sống/chết không chỉ trong thơ mà còn thấy rất nhiều trong văn xuôi miền Nam.
Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ cũng nên nói thêm rằng, không vì thế mà hận thù, sắt
máu là ngọn đuốc soi đường cho thi ca miền Nam thuở đó.
NV: Các nhà thơ quân đội lúc bấy giờ
có chịu sự chỉ đạo hay nghiêm cấm gì không – về lằn ranh Quốc-Cộng?
Nhà thơ Du Tử Lê: Tôi có thể trả lời ngay rằng:
Không. Ngay tôi, thời đó là quân nhân, bị ràng buộc bởi kỷ luật quân đội mà vẫn
không bị một lệnh lạc chi phối nào từ phía quân đội hoặc chính quyền. Tùy quan
điểm từng cá nhân, ai muốn dùng thơ để chống cộng thì cứ viết. Những người còn
lại, vẫn thoải mái đi theo quan niệm hay đường lối văn chương của mình. Chúng
tôi tôn trọng nhau. Như thể “nước sông không đụng nước giếng” vậy.
NV: So sánh 20 Năm Văn Học 1954-1975
của hai miền Nam-Bắc, anh thấy nét nổi bật nhất là gì?
Nhà thơ Du Tử Lê: Có hai đặc điểm nổi bật và rõ ràng
nhất. Một là, thơ miền Nam, không sắt máu, không hận thù, nghĩa là rất nhân
bản. Hai là các nhà thơ miền Nam không làm thơ theo “chỉ thị.” Hai điều này
hoàn toàn không có với thi ca miền Bắc, trong chiến tranh. Tôi tin, là anh Thái
có nghe hay đọc đâu đó, nhận định của nhà văn Nguyên Ngọc, một cây bút hữu danh
của chế độ Cộng Sản miền Bắc, người từng được tín nhiệm trong chức vụ chủ nhiệm
hay “tổng biên tập” (theo cách gọi của miền Bắc), tạp chí Văn Nghệ Trung Ương,
Hà Nội. Ông có một câu nói, theo tôi phản ảnh khá trung thực nền văn chương
miền Bắc. Đó là câu “miền Bắc thời chiến tranh Nam-Bắc chỉ có một nền văn
chương gọi là nền văn chương minh họa.” Nói cách khác, đó là một nền văn chương
chỉ huy, tất cả phục vụ cho chế độ, cho nhu cầu phục vụ chiến tranh với các
chiến dịch lớn, nhỏ.
NV: Cám ơn nhà thơ Du Tử Lê đã trả lời phỏng vấn của nhật báo Người Việt.