Sau khi trang sử của cuộc chiến tranh Việt Nam khép lại ở ngày 30 tháng 4 năm 1975, những quyển hồi ký của những nhân vật thời cuộc của đất nước Việt Nam bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại sau một thời gian người Việt Nam tị nạn cộng sản có cuộc sống tạm ổn định. Tất cả những quyển sách viết về chiến tranh Việt Nam cho đến mốc ngày lịch sử 30 tháng Tư, 1975, hay viết về tù đày cải tạo… dưới chế độ cộng sản trước và sau 1975, tất cả, đều do những tên tuổi, già dặn, viết ra; Cho mãi đến khi xuất hiện quyển truyện VIỆT NAM YÊU DẤU của tác giả nữ PHẠM THU DUNG.
Thật đặc biệt, quyển truyện này như là hồi ký kể lại cuộc đời của nhân vật chính, từ khi em sinh ra đời trong bom đạn chiến tranh tại miền Bắc Việt Nam nên em bị trúng miểng bom của Mỹ rải xuống; rồi cha mẹ em phải tìm cách dùng thuyền câu để mang con cái vượt qua dòng sông Bến Hải sang bên kia bờ tìm tự do và vì tương lai của các con. Họ đã may mắn thành công sang được bến bờ tự do, nhưng đứa con gái bị trúng miểng bom lại bất hạnh trở thành khuyết tật suốt đời.
Đứa bé ấy là tác giả viết nên truyện VIỆT NAM YÊU DẤU. Bằng lối văn trong sáng và cô đọng, tác giả thản nhiên diễn tả một cách linh động về gia đình cô gồm cha mẹ cùng các anh chị em của mình, cho thấy tuổi thơ luôn hồn nhiên, luôn dâng tràn sức sống mãnh liệt của những bục măng non dưới tàng tre xanh che chở và luôn luôn yêu thương, tận tâm, giáo dục, lo tròn trách nhiệm của đôi vợ chồng có 7 người con.
Có thể tác giả có chủ ý, hoặc sẽ còn viết tiếp sau quyển truyện này, cho thấy tác giả đã tránh đi tối đa những phát biểu của người lớn về chiến tranh, chỉ cụ thể vẽ thoáng cái hoàn cảnh con người đối diện với cuộc sinh tồn trong khi đất nước ngày càng bước đến mức độ chiến tranh toàn diện trên khắp lãnh thổ. Ngoài ra tác giả cũng cho biết đã tự giới hạn mọi câu chuyện buồn đau, ngoại trừ bất đắc dĩ để cho trọn vẹn mảng chuyện kể đến.
Tuổi thơ trong truyện phải chấp nhận mọi thứ, mọi hoàn cảnh, vì chúng còn là trẻ con, trước nhất là LUẬT của người cha trong đường lối giáo dục của một thanh niên có học thức Âu Mỹ, bên cạnh là người mẹ được đi học đến trung học rồi bị nghỉ học vì là nữ nhi. Bảy người con của đôi vợ chồng này thật may mắn và hạnh phúc sống trong vòng tay yêu thương bảo bọc của bố mẹ như thế. Tuổi thơ của chúng được phát triển hồn nhiên, nhưng trong kỷ luật giáo dục nghiêm nhặt của cha mẹ. Sức sống hồn nhiên được tỉ mỉ kể lại, sự phát triển tự nhiên về nhân bản. Tuổi thơ dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt thế nào, tuổi thơ vẫn là tuổi thơ.
Nhưng chính sự hồn nhiên thơ ngây trong trắng của tuổi thơ như là phản diện, một mặt trái, một sự thật, mà nhìn vào làm cho con người sẽ ngậm ngùi những cảnh sống trong hoàn cảnh chiến tranh. Chiến tranh thì đương nhiên khốc liệt, ác độc, tàn nhẫn v.v.. nó không nhân nhượng cho bất cứ mạng sống nào, hoàn cảnh nào, nó cứ thản nhiên xảy ra, bất kể tạo nên chết chóc hay tàn phế hay hủy diệt, những gì nằm trên bước chân nó đi qua đều trở thành bất hạnh, nhận lấy cái hậu quả do nó gây ra.
Tác giả đưa ra sự ngây thơ hồn nhiên của tuổi thơ như muốn đưa ra nỗi bất hạnh của con người trót sinh ra trong bầu trời khói lửa chiến chinh. Tuổi thơ không làm được gì cả ngoài sự chấp nhận. Chấp nhận cha mẹ, chấp nhận côi cút, chấp nhận lên đường, chấp nhận hoàn cảnh sống, chấp nhận ngay cả tật nguyền hay chết chóc trong chiến tranh; như hình ảnh của em Tép, em của Tôm, hai anh em ở giúp việc cho nhà họ Phạm, cố gắng sải tay chèo vượt qua sông Bến Hải, em Tép nhận chịu lằn đạn bắn theo, chỉ thốt lên một câu "em bị trúng đạn rồi anh Tôm ơi" và thân xác em rơi xuống dòng sông.
Tuổi thơ trong chiến tranh làm cho người tri thức, trưởng thành, hay người già nua, cảm thấy bất nhẫn và đau lòng, vì đó là thế hệ nối tiếp ông cha, là rường cột của quốc gia, là tương lai của đất nước. Thế mà tuổi trẻ đó còn phải đương đầu trong một xã hội sau khi chấm dứt chiến tranh. Những thanh niên giã từ vũ khí ngậm ngùi cho thân phận còn sống sót của mình trước tương lai mù mịt. Biết bao tuổi thơ có cha mẹ bị coi là tội đồ của chế độ chịu bao thiệt thòi và nhục nhằn trong cuộc sống đổi mới, một đất nước vừa hòa bình chấm dứt chiến tranh. Chúng ta có lẽ ai cũng biết cái xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đã phải trải qua giai đoạn gọi là "thời kỳ quá độ" một cách khắc nghiệt và tàn nhẫn như thế nào.
Tác giả ngừng lại, đóng lại quyển truyện khi nhân vật chính vừa đến tuổi 13, ở độ tuổi của một cô gái chưa đến giai đoạn biến đổi sinh lý cơ thể, và nếu dù là một cậu trai, cũng chưa có thể có được tư duy nào về chiến tranh để có thể phát biểu ra những ý nghĩ về sự tàn khốc đó. Tuy nhiên, tuổi thơ vẫn có những ấn tượng về chiến tranh qua cuộc sống bằng trí óc non dại của chúng, những ấn tượng không nhiều thì ít, cho chúng mường tượng có nhiều đau khổ, đau buồn đã xảy ra bởi chiến tranh. Một nỗi sợ hãi ám ảnh vô hình mà trẻ con không biết làm sao. Trẻ con tùy thuộc vào cha mẹ, vào định mệnh, vào cộng nghiệp với những con người tạo nên chiến tranh, và, chúng hoàn toàn bất lực trước những thứ khó hiểu như thế.
Sự dừng bút kể truyện của cô bé 13 tuổi giống như một sự bất lực trước định mệnh của mình, của cha mẹ, của đất nước, của những người lớn hay xóm giềng xung quanh mà chúng biết. Không biết rồi cái gọi là định mệnh ấy sẽ đi về đâu? Cuối cùng, cũng tùy thuộc vào người lớn, chúng giống như ngọn sóng nhỏ bị ngọn sóng lớn lùa đi. Phương trời trước mắt thật là vô định với chúng. Tất cả do người lớn, người lớn quyết định, sẽ trách nhiệm những gì họ làm, chúng nào khác cái danh từ gọi là "nạn nhân", hoàn toàn lệ thuộc và tùy thuộc. Cho nên, khi chúng lớn lên, trưởng thành, nếu không may tuổi thơ chúng bị xô đẩy vào một hoàn cảnh kiếp đời khốn khổ, thì lời than oán của chúng không phải là vô nghĩa.
Tuổi thơ không biết oán trách, chỉ biết tuân phục. Sự hồn nhiên tuân phục ấy, đồng thời sự hồn nhiên của sức sống ấy, có bao giờ làm cho những ai từng góp phần trong chiến tranh sẽ bùi ngùi, cảm thấy ray rứt khi quyển truyện VIỆT NAM YÊU DẤU khép lại ở trang cuối cùng? Nếu lương tâm cảm thấy xót xa cho tuổi trẻ thơ, thì con người ít nhất trong cuộc sống hiện tại đừng bao giờ tiếp tục tạo nên đau khổ cho tuổi thơ. Có phải đó là lời nhắn gởi của tác giả Phạm Thu Dung chăng?
lê giang trần
(mùa thu, 30 tháng 10, 2014)