KHỔNG TRUNG LINH - Đi hay ở

12 Tháng Bảy 201512:00 SA(Xem: 10076)
KHỔNG TRUNG LINH - Đi hay ở

 

Trong một lần trò chuyện, người bạn tôi đề cập đến chữ ‘đi’ trong tiếng Việt. Theo anh, người Việt Nam vốn năng động, nên làm gì cũng đi, ăn cũng đi, học cũng đi, ngủ cũng đi và ngay cả lúc chơi cũng đi. Anh còn đi ngược giòng lịch sử cho rằng tổ tiên người Việt là Việt Thường thị trong liên minh các bộ lạc Văn Lang, một trong 15 bộ cũng có tên là Việt Thường và là bộ quan trọng thứ hai của nước này. Theo anh, Việt đây có nghĩa là ‘vượt’. Từ đó, anh kết luận: nhờ tâm thức linh hoạt đó Nguyễn Huệ đã cho quân binh hai người cáng một, vừa ngủ vừa đi để chuyển quân thần tốc và cuối cùng đại phá quân Thanh.

Tôi nghe anh nói, thấy có gì không ổn. Tuy nhiên không tiện tranh luận vì không ít thì nhiều, tôi có phần cảm phục, vì anh đã có công để ý, tìm tòi và có những khám phá, nhận xét khá sâu sắc về tiếng Việt.

Thật ra theo sử sách, Nguyễn Huệ không những là một thiên tài quân sự, mà còn là một nhà tâm lý xuất chúng. Trước khi đề binh khởi mã chinh phạt quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã lập kế để động viên tinh thần quân sĩ. Sau lúc tế thiên, Quang Trung sai mang đến một mâm đồng, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:

Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở.

Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi bất thình lình hất tung xuống đất. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận bắc tiến sẽ thắng quân Thanh.

Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả 2 mặt đều là mặt sấp.

Điều này làm chúng ta liên tưởng đến Nguyễn Trãi khi ông nghĩ ra một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông cho người dùng nước cơm trộn mật ong (hoặc mỡ) viết vào lá cây tám chữ ‘Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần’ (黎利為君, 阮廌為臣), nghĩa là Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi. Khi kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các nhánh sông như điềm báo từ trời, khẳng định về yếu tố "thiên mệnh" của Lê Lợi, làm lòng người khắp nơi nhanh chóng quây quần, tụ nghĩa. Nguyễn Trãi hay Nguyễn Huệ đều biết rằng: tâm lý chiến, từ xưa đến nay vẫn là một trong các yếu tố quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Có được thiên thời, địa lợi mà thiếu nhân hòa (lòng dân) thì đại cuộc khó thành. 

Một hôm sau khi ở sở về, tôi ghé thăm mẹ tôi vì bà cụ gọi điện thoại bảo bà vừa nấu xong món canh tôi ưa thích: đậu bắp nấu với tôm khô. Bước vào trong nhà, nhìn bà cụ gần 85 tuổi bê tô canh còn nóng hổi từ trong bếp đi ra, tôi không tránh khỏi bùi ngùi. Tôi đứng dậy đỡ tô canh từ tay bà và nói: Mẹ cứ để đó con lấy được rồi. Chờ tí nó nguội rồi con ăn.

Mẹ tôi trả lời: Con ăn đi cho nó nóng, để nguội mất ngon.

Nghe bà nói, bất chợt tôi nhớ đến chữ ‘đi’ trong tiếng Việt theo lập luận của người bạn hôm nào. Câu ‘ăn đi con’ ở đây ân cần, dịu dàng, tha thiết chứ không đơn thuần là một từ biểu thịmệnh lệnhthúc giụckhuyên răn, như anh nghĩ. Nó khiến người nghe dù không muốn cũng không cưỡng lại được. Tựa như lời ca dao:

Ru em em hãy nín đi
Kẻo mà mẹ đánh em thì phải đau
Em đau chị cũng buồn rầu
Bé mồm bé miệng nín mau tức thì

Nín đi, trong bài ca dao trên vừa khẩn khoản, vừa van lơn, vừa như một lời năn nỉ, chan chứa bao nhiêu tình cảm. Bởi vì em không nín đi thì mẹ sẽ đánh đòn, mà em đau một thì chị đau mười. Ý nhị là ở chỗ đó. Triết lý sống nhân bản, bảo bọc, quần tụ với nhau của người Việt Nam là ở chỗ đó.

Các cụ ngày xưa thường nói ‘ăn cơm Tầu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật’, nhưng tôi nghĩ người đàn bà đất Phù Tang không chiều chồng thương con như phụ nữ Việt Nam. Hãy tưởng tượng những ngày nóng bức ở miền Nam Việt Nam. Ngưòi chồng đu xe búyt để về nhà ăn cơm trưa (công chức miền Nam ngày xưa thường về nhà ăn cơm trưa xong đánh một giấc rồi mới trở về sở làm việc cho đến chiều theo lối làm việc của người Pháp), người vợ đón chồng ở cửa với nụ cười đằm thắm, trao cho chồng chiếc khăn mặt mát lạnh nói: “Anh lau mặt đi cho nó khoẻ rồi ăn cơm” nghe câu nói này tôi nghĩ bao nhiêu mệt nhọc của người chồng đều tan biến.

Trong phim ‘Saving Private Ryan’ do Steven Spieldberg đạo diễn có đoạn đám chiến binh Hoa Kỳ phải cố thủ địa thế cuối cùng là một cây cầu trong khi chờ quân tiếp viện. Đoạn phim gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi nhất có lẽ là khúc hai quân nhân Đức Mỹ quần thảo nhau bên lề sinh tử trên một tòa cao ốc. Thử tượng tượng, nếu cả hai đều biết nói và hiểu tiếng Việt . Họ có thể nói với nhau rằng: “Thôi chúng ta hãy ngưng cuộc chiến đẫm máu này ở đây đi” thì lưỡi bayonet của Steamboat Willieđã không từ từ cắm sâu vào lồng ngực Mellish, đưa anh đến một cái chết uất nghẹn và tức tưởi.

Khi cuộc chiến tranh Việt Nam đi đến chỗ khôc liệt nhất vào thập niên 60, nhiều văn nhân nghệ sĩ Việt Nam ngôì yên bình trong những phòng trà, câu lạc bộ, hội quán ở hậu tuyến bắt chước phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ kêu gọi người Việt đôi miền buông vũ khí và thương yêu nhau.

Họ nỉ non:

Hãy yêu nhau đi bên đời nguy khốn
Hãy yêu nhau đi bù đắp cho trăm năm
Hãy yêu nhau đi quên ngày quên tháng
Dù đêm súng đạn dù sáng mưa bom

Theo người viết, đây chỉ là những xảo ngôn để ru ngủ lòng người. Đây không là những lời khẩn khoản, van nài xuất phát từ những trái tim Việt Nam chân chính với mơ ước, khát vọng ngày thanh bình thực sự trên đất nước thân yêu.

Làm sao mà ‘hãy yêu nhau đi’ khi những họng súng AK-47 đầy thù hận đã lên nòng chỉ chực nả đạn vào những tấm thân da vàng? Làm sao mà ‘hãy yêu nhau đi’ khi những bánh xe xích sắt T-54 đang nghiền nát đất đai, ruộng đồng, thôn xóm Việt Nam? Làm sao mà ‘hãy yêu nhau đi’ khi những chiếc cuốc, con dao phay chỉ chờ sơ hở là cắm phập vào lưng, vào đầu những người anh em không cùng chiến tuyến? Làm sao mà ‘hãy yêu nhau đi’ khi trong không khí thiêng liêng của tiết giao mùa, họ đã đào hố chôn sống đồng bào, để từng vùng thịt xương có mẹ, có em?

Phải là người Việt Nam chân chính, thuần phác mới hiểu và xử dụng chữ ‘đi’ đến chỗ vi diệu của nó.

Phải như Lạc trong “Anh Phải Sống’ của Khái Hưng khi nghĩ đến thằng Bò, cái Nhớn, cái Bé, đã trầm mình xuống đáy sông, cho Thức đủ sức bơi vào bờ sau khi có lẽ chị đã thiết tha, khẩn khoản nói với chồng:”Anh buông em ra đi..vì anh phải sống!”

Ước mơ sao, một ngày nào đó, người Việt Nam khắp bốn phương trời sẽ về ngồi lại gần với nhau và tha thiết nói với nhau rằng: 

Người ơi thôi hãy ngồi xuống đây (đi)
Cho tôi hơi ấm của bàn tay
Chuyện xưa gác lại trời phiêu lãng
Bụi đỏ giang hồ hương phấn bay
 

Khổng Trung Linh

 

 

Ý kiến bạn đọc
18 Tháng Bảy 20157:00 SA
Khách
“Phải là người Việt Nam chân chính, thuần phác mới hiểu và xử dụng chữ ‘đi’ đến chỗ vi diệu của nó.”

Đi về đi ở đi đi
Đi là đi biệt từ khi đi về

(Bùi Giáng)

Lời bàn: Có người nói với tôi: Đi về -quá khứ. Đi ở -hiện tại. Đi đi –tương lai. Tôi lại nghĩ khác, giống như lời người mẹ mắng yêu đứa con: Mày có chịu đi về chưa? Hay là mày ở lại. Hay là mày tiếp tục đi nữa! Về có một chút, rồi là đi mất biệt à!

Đọc bài viết trên của tác giả KTL, tình cờ tôi nhớ câu thơ lưu truyền của tiên sinh Bùi Giáng, nên góp ý cho vui thôi!

(Xin bỏ comment trước)
20 Tháng Bảy 20157:00 SA
Khách
Cám ơn tác giả Khổng Trung Linh. Cám ơn internet đã giúp chúng ta hội ngộ với nhau, dù chỉ là trong ít phút. Tôi không dám nhận mình là “nhà thơ”, dù trong lòng cũng thấy… khoái! Tôi cũng chợt nảy ra một ý mới: Đi biệt –tức là cõi chết! Một câu thơ của tiên sinh, nhà thơ Bùi Giáng thật ngắn gọn. Thế mà phải mất một thời gian lâu, ngẫm nghĩ ra tôi mới hiểu “thâm ý” ở đằng sau. Đúng là câu thơ xuất thần!
20 Tháng Bảy 20157:00 SA
Khách
Thành thật cảm ơn nhà thơ Tàn Chiến Cuộc đã góp thêm vài ý mới.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Mười 20241:03 CH(Xem: 52)
Thơ tài tình luôn luôn hiếm hoi và thường đến từ sáng tạo của những nghệ sĩ tài hoa.
26 Tháng Chín 20244:37 CH(Xem: 84)
Màu, khối, nét, bố cục, ánh sáng đã thay ông kể mãi những câu chuyện của con người.
27 Tháng Tám 202410:07 SA(Xem: 204)
Người nhạc sĩ đã gửi vào ánh sáng một tuổi thơ biết đi đứng, chạy nhảy.
21 Tháng Tám 202410:15 SA(Xem: 241)
Bài viết sau cùng của ca sĩ Quỳnh Giao
14 Tháng Tám 20245:17 CH(Xem: 241)
Đã đến lúc phải coi biên giới là một khái niệm mở, văn hóa cũng là biên giới. Mất văn hóa là mất nước.
31 Tháng Bảy 202410:07 SA(Xem: 214)
70 năm đã trôi qua kể từ cuộc thiên di vĩ đại nhất Việt Nam đương đại.
25 Tháng Bảy 20246:38 SA(Xem: 351)
Năm tôi 25 tuổi, lần đầu nhìn thấy cô Lê Thị Ý lúc ấy đã 40 tuổi ở ngôi nhà Nhật Tảo,
14 Tháng Bảy 202412:07 CH(Xem: 649)
Tôi không nghĩ thơ ca sẽ biến mất khỏi mặt địa cầu,
07 Tháng Bảy 20245:26 CH(Xem: 552)
Hiện nay ở tuổi bảy mươi, vốn sống của tôi là nỗi buồn, là sự ám ảnh của tử sinh. Nhờ thế mà rộng lượng hơn, yêu người hơn, yêu các vật nuôi trong nhà, yêu chim chóc.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 20824)
Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, ra sao, thế nào khi đứng trước khu rừng có quá nhiều những gốc lạ, quý? Khu rừng thuộc quyền sở hữu của người dựng thành đêm-từ-biệt…Trần.
(Xem: 15780)
Đề cập tới sự nghiệp âm nhạc giá trị của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nếu chỉ nói tới khía cạnh thơ phổ nhạc (dù cho ông được ghi nhận như một thiên tài) mà không đề cập tới những lãnh vực khác, tôi cho là một thiếu sót không thể tha thứ.
(Xem: 17446)
Tuy nhiên, thế hệ 1940-1950, cũng lại là thế hệ cung cấp cho văn chương miền Nam 20 năm, những bài thơ, những trang
(Xem: 10131)
Loạt bài của Nguyên Vũ / Vũ Ngự Chiêu được độc giả, nhất là giới quân nhân đón nhận nồng nhiệt
(Xem: 18577)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 4988)
Tôi mượn câu thơ kết trong bài 'Đêm, nhớ trăng Sài Gòn' của Du Tử Lê để làm tựa cho bài viết này, bài viết về ông: Du Tử Lê - một nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn đối với văn chương Việt Nam.
(Xem: 1740)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 2224)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 2133)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 23448)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 19960)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 8763)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 9774)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 9203)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 12169)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 31688)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 21481)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 26470)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 23910)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 22703)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 20813)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18905)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 20052)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 17650)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16763)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 25728)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 33055)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 35559)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,