Khoảng năm 1964, lần đầu tiên gặp Du Tử Lê là tôi đi cùng với Nguyễn Hữu Nhật (lúc này còn ký là Động Đình Hồ) đến nhà Lê ở Ngã Bảy gần Việt Nam Quốc Tự. Căn nhà nhỏ lụp xụp, hơi tối. Thời gian này anh vừa in tập đầu tay: Thơ Du Tử Lê.
Khi giới thiệu, bắt tay, tôi mới biết Lê có bàn tay phải sáu ngón, một ngón dư nhỏ cạnh ngón cái, anh đã giải phẫu cắt bỏ.
Lúc đó Du Tử Lê không mấy thiện cảm với anh Nhật nên giao tình với cả tôi cũng chỉ bình thường thôi, anh tặng tôi cuốn thơ, viết trên trang đầu:
Bản tặng Phan Diên
Ngã Bảy, chuồng
bò ngày… tháng… năm…
Ký tên: Du Tử Lê
Chuyện vãn một lúc không hiểu nghĩ sao Lê xin lại tôi cuốn Thơ vừa tặng và đã sửa, thêm thắt ngay nơi trang viết tặng:
Tôi, Du Tử Lê
Ký Bản tặng này
cho Phan Diên
Ngã Bảy, chuồng
bò ngày… tháng… năm…
Ký tên: Du Tử
Lê
Tôi thích thú với lối chơi chữ “Tôi, Du Tử Lê” của Anh và giữ mãi kỷ niệm lần đầu gặp nhau thật đặc biệt.
Phải nói thơ lục bát của Du Tử Lê lúc đó thật tuyệt vời và có chất cao sang. Thời gian này tuổi của chúng tôi vừa học xong, chuẩn bị vào đời với những xáo trộn của thời cuộc: Thời Chiến tranh và Thời Động viên nên tôi nhớ mãi câu lục bát của anh:
“ Đấy em ngựa
đã tan đàn
Chúng ta càng lớn
khôn càng xa nhau”
Tôi cũng thích thú với lối chơi chữ tài tình của anh thời xa, xưa đó:
“Người về
đâu không người không về đâu
Trời chưa mưa
nên trời chưa thay màu
Tôi cây me đứng
run từng lá
Lá đã vàng
rồi tôi đã vàng theo…”
Mấy chữ “đã” này của Lê làm tôi vẫn còn “đã” cho đến bây giờ.
Ngay từ lúc thiếu thời tôi đã nhận biết Du Tử Lê là người lăn lộn và trăn trở với Thi ca khi anh viết cuốn “Năm sắc diện, năm định mệnh” và đầu thập niên 1960, anh đã có bài thơ nằm mộng và trò chuyện với Cao Chu Thần, cái đặc sắc lạ lùng này kích động tôi vô cùng và tôi đã ngạc nhiên là không thấy người nào đề cập hoặc nói tới sự kiện lạ lùng này.
Thời đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau tại quán cafe La Pagode trên đường Tự Do, lúc đó các cửa sổ còn mở toang hết hai phía đường Tự Do và Lê Thánh Tôn chứ không đóng kín mít vì mở máy lạnh sau này. Nhìn Du Tử Lê với đôi vai so, thêm cái lưng gù gù ngồi nói chuyện với anh em rất lôi cuốn và tôi đã hiểu vì sao lại có nhiều em nữ sinh mê anh đến như vậy.
Khi ra đến tập thơ “Tay gõ cửa đời” anh viết tặng tôi: Tay gõ cửa đời Phan Diên. Cũng thời gian này, tôi cộng tác với NXB Đại Ngã của Nguyên Vũ, phụ trách trình bày bìa, Du Tử Lê thành lập NXB Khai Phóng và in truyện đầu tay của anh “Qua hình bóng khác”. Tôi cũng chỉ một vài mánh lới cho anh về in ấn để nhà in không thể in thêm được khi sách bán chạy. Khi tặng sách cho tôi anh viết: Của mày đó PD.
Sau này nữa, bao giờ anh cũng trang trọng viết: của bạn tôi PD.
Sau tháng 4-1975, tôi bị kẹt lại 3 năm ở Saigon, giữa cái hỗn loạn của Miền Nam lúc đó, nghe tin Du Tử Lê đã chết. Tôi tiếc cho một tài hoa của Thi Ca Việt Nam cũng như đã tiếc Chu Tử đã chết là một mất mát lớn cho làng báo chí Miền Nam.
Qua đến Mỹ cuối năm 1978 tôi mới biết tin Du Tử Lê còn sống chứ không phải như tin đồn trong nước. Bước chân tới Mỹ là tôi vừa đi làm vừa đi học toàn thời gian, vật lộn với cơm áo nên mãi đến năm 1995 chúng tôi mới gặp lại nhau.
Tiếng tăm của Du Tử Lê đã lên cao lắm vì thơ anh làm còn hay hơn thời trước năm 1975 như bài “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển” được phổ thành nhạc được nhiều người ưa thích.
Tôi đã nhận xét đúng Du Tử Lê là người một đời trăn trở, sống chết với Thi ca. Bây giờ anh đã cố công tìm tòi, cách tân thơ của anh với cách hoán chuyển, với những dấu slash và dấu phết đánh xuống giữa hai từ kép cho từ kép này thêm rõ nghĩa… mà anh đã nói rất nhiều trong dịp ra mắt sách hoặc nói chuyện tại các đại học hay những nơi có nhiều người mến mộ thơ anh.
Nhớ lại năm 1968 khi tôi triển lãm tranh tại Trung Tâm Văn Hoá Pháp với chủ đề “Tinh thần Đông Phương”, Du Tử Lê đã kéo tôi vào một chỗ khuất hỏi:
-Cái này mày có bịp không?
Sau hơn 30 năm, với lối cách tân thi ca của Lê, tôi cũng lôi anh vào chỗ khuất hỏi:
-Cái này mày có bịp không?
Du Tử Lê cười ha hả.
Chúng tôi vẫn giữ tình thân với nhau như “Đôi bạn chân tình”.
Los, ngày 24/10/2002