Du Tử Lê,
(Tiếp theo kỳ trước).
Tôi vẫn quan niệm, nơi chốn, tự thân vốn không mang một ý nghĩa cụ thể nào, nếu không có phần thịt, da, hồn tính do con người đáp đỗi cho nó. Phần thịt, da, hồn tính của một nơi chốn càng mang tính đặc thù, khi chúng hiện diện trong văn chương, nhất là qua thi ca.
Tôi tin, nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848):
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà…” (4)
Cách đây nhiều thập niên, thi ca của chúng ta còn dành cho nơi chốn nhiều kỷ niệm hơn nữa. Điển hình như “Chùa Hương” trong thơ Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938):
“Hôm nay đi chùa Hương.
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy.
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao;
Lưng đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới;
Tay cầm nón quai thao.
Mẹ cười: "Thầy nó trông! (Nđd)
Hay “Đèo Cả” trong thơ Hữu Loan (1916-2010):
“Đèo cả!
Đèo cả!
núi cao ngất
mây trời Ai Lao
sầu đại dương
dặm về heo hút
Đá bia mù sương…” (Nđd)
Hoặc những địa danh trong thơ Quang Dũng (1921-1988):
“Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
(…)
“Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng”
(Trích “Đôi mắt người Sơn Tây”. Nđd)
Gần hơn, trước 1975, người đọc cũng bắt gặp Pleiku trong thơ Kim Tuấn (1938-2003):
“Buổi chiều ở Pleiku những cây thông già
đứng lên cùng bụi mù
tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng
“anh còn phút nào để nói yêu em
(...)
“Buổi chiều ở Pleiku có anh và nỗi buồn
có đêm, có ngày, có quan, có lính
có jeep chở vợ đi chơi, có kẻ chờ xe đi làm
có vui, có buồn, có mây, có núi
có anh đứng nhìn ngày tháng đi qua
buổi chiều ở Pleiku có cà phê và bạn hiền
có biển hồ nước trong có lúc buồn soi mặt
ôi mặt mình sao bỗng gớm ghê
ôi đời mình sao nhìn muốn khóc
ta với ta xa lạ vô cùng”.
(Trích “Buổi chiều ở Pleiku”. Nđd)
Hoặc Vũ Hữu Định (1942-1981):
“… Em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
nên em hiền như mây chiều trong…”
(Trích “Còn chút gì để nhớ”. Nđd)
Sau biến cố tháng 1975, ở hải ngoại cũng có rất nhiều nhà thơ nhắc tới Saigon, trong thơ của họ…
Nhưng, Nguyễn Đạt, hơn bất cứ một thi sĩ nào khác, có dễ là người gắn bó thiết thân nhất, với những nơi chốn ông đi qua, ở lại, rồi đem chúng vào thơ. Với họ Nguyễn, nơi chốn không chỉ như kỷ niệm hoặc, làm phông nền cho một tình yêu mà, chúng chính là Tình Yêu. Thứ tình-yêu-song-sinh: Giữa nơi chốn và, kỷ niệm.
Trong số rất nhiều nơi chốn họ Nguyễn đã sống, đã thao thiết thì, Đơn Dương, B’Lao, Di Linh, Đa Thọ, Dran… là những địa danh hiển lộ nhiều lần trong thơ của Nguyễn.
Trong thi phẩm “Dran” ấn hành năm 2015, tôi đếm được 9 bài thơ mà địa danh “B’Lao” có ngay trong tựa bài. Và địa danh “Dran” cũng được ông mang vào tựa đề với 6 bài khác nhau. (Nđd)
Trước đó, ở thi phẩm “Nơi băng giá” ấn hành năm 1991, địa danh “Đơn Dương” cũng được ông đề cập ngay trong tựa của 3 bài thơ (cộng 2 phụ bản họa)…
Tôi rất thích một số câu trong những bài thơ của Nguyễn mà, nơi chốn không chỉ minh thị ngay nơi tựa bài. Thí dụ:
“Em nghe thấy chăng
Những đêm hoang vu gió lóc thịt xương
Dưới một cành thông buốt nhọn ở Đơn Dương
Anh đứng ngây mình trong nỗi tự sát và yêu em
Những đêm khuya như phím đàn giá lạnh”
(trích “Đêm Dơn Dương”. Nđd)
Hoặc:
“Giữa chơi vơi mây rã tro bụi
Rớt xuống hoàng hôn bải hoải
Thanh ơi loài chuột núi vẫn rục rịch
Ánh mắt chúng đẹp mắt Thanh lấp lánh cùng đêm sao”
(Trích “Chuột núi ở B’Lao”. Nđd)
Hoặc nữa:
“Đêm trở mình vô cùng rã mệt
Từng vì sao rụng dưới chân soi
Đêm dấu mặt trong cây thiếp ngủ
Nàng loãng tan trong ánh sáng trời”
(Trích “Đêm Đà lạt có thể”. Nđd)
V.V…
.
Với tôi, dường như mỗi nhà thơ thường bị một số từ đặc biệt ám ảnh, mai phục trong vô thức… Nên chúng dễ tái hiện một cách tự nhiên trong thơ của họ. Nguyễn Đạt không ngoại lệ.
Tôi gặp được rất nhiều tính tự “rã” trong thơ ông - - Không chỉ là từ-đơn mà, còn cả những từ- kép nữa. (Thí dụ “chờ rục rã”) (Nđd).
Tính từ “rã” tôi gặp lần đầu tiên nơi câu “Mặt trời chiều rã rưng rưng biển” trong bài “Trường Sa hành” của Tô Thùy Yên, viết năm 1974.
Tôi không biết ai là người đầu tiên xử dụng tính từ này. Nhưng việc xử dụng nhiều lần tính từ ấy, trong thơ của Nguyễn Đạt thì, bên cạnh nơi chốn, người đọc lại có thêm một “điềm chỉ” hay, “từ khóa” để nhận diện dòng chảy thi ca của họ Nguyễn.
Cũng nằm trong những “điềm chỉ”, để dễ nhận ra thơ Nguyễn Đạt, theo tôi, là sự cố tình lập lại một nhóm chữ, như một điệp khúc (nhấn mạnh) hoặc, “dấu nhấn” cho một đoạn thơ như:
“Uống ly này ly này nữa”; “Thông rừng Dran ôi thông rừng Dran”; “Sóng sánh sóng sánh sóng sánh nước”; hay “Quả thông khô quả thông khô”… (5) Khiến nhiều người liên tưởng tới phong cách thơ Thanh Tâm Tuyền. (TTT cũng thường lập lại một số cụm từ trong thơ, như thế).
Tuy nhiên, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền không phải là người đầu tiên lập lại một nhóm chữ như điệp khúc, mang tính dấu nhấn. Hình thái này cũng thấy rất nhiều trong thơ Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Tô Thùy Yên... Xa hơn nữa, sự lập lại ấy, đã hình thành rất lâu, trong lịch sử thi ca tây phương.
Cụ thể, những ai từng đọc thơ Boris Pasternak, hẳn chưa quên bài thơ “Đêm mùa đông” của Pasternak. Bài thơ có 8 phân khúc thì, hết 4 phân khúc lập lại điệp khúc: “Ngọn nến cháy trên bàn, ngọn nến cháy” (6)
Nếu cần tìm thêm một “điềm chỉ” hay đặc tính thi ca khác nữa, của Nguyễn Đạt, tôi thiết nghĩ, có dễ đó là những… kết luận bất ngờ. Ông thường ra khỏi một bài thơ bằng những hình ảnh hay, ý tưởng gần như không tương quan nhiều lắm, với toàn thể bài thơ. Nó như sự “chệch đường” với tuyến tính hay, một đoạn chỉ khác mầu, với sợi chỉ xanh xuyên suốt thi bản. Khiến người đọc thấy có nhu cầu đọc lại từ đầu, bài thơ.
Với tôi, đó cũng là đặc tính truyện Nguyễn Đạt mà, kỳ tới, chúng tôi sẽ gửi tới quý bạn đọc vài cảm nhận về lộ trình văn chương thứ hai, của họ Nguyễn.
(Còn tiếp một kỳ)
_________
Chú thích:
(4) Nguồn Wikipedia - Mở. Câu chót, trong khổ thơ này, có bản chép “lác đác bên sông RỢ mấy nhà”.
(5) Câu thơ này, được tác giả lập lại 3 lần trong bài “Tặng Vật” có 4 phân khúc (Nđd)
(6) Đọc thêm “Boris Pasternak, con người và tác phẩm”. Nhiều dịch giả. XB tại Saigon, 1988. (Phần thơ do hai dịch giả Nguyễn Đức Dương và Hoàng Hưng đảm trách).