Mục "Phê bình, biên khảo, phỏng vấn" do Lê Hoàng Tuấn Kiệt phụ trách.
Lẽ ra, các anh Thái Tuấn và Duy Thanh nói những lời này trước linh cửu anh và quí vị để tiễn anh về với cõi vĩnh hằng. Nhưng các anh ở xa, tôi người nhỏ tuổi nhưng cùng vẽ tranh, được gia đình cho lên nói về anh trong cái nghiệp nghệ thuật. Là một xúc động. Nối tiếp những bàng hoàng, xúc động suốt từ tháng qua. Khi được ở bên anh những ngày cuối cùng, cùng với gia đình và những bạn thân thiết nhất của anh.
Tôi đã nắm chặt bàn tay anh từ khi còn hơi ấm, từ khi anh còn viết ra chữ, đến phút cuối cùng bàn tay đã lạnh. Tôi đã im sửng. Để bàn tay lên trán anh. Phút cuối khi chị Lệ bật khóc. Và tôi không cầm được nước mắt.
Cả gia đình tôi đều quí trọng, thương yêu anh chị như những người anh, người chị ruột thịt của mình. Chúng tôi qua lại với nhau không bằng văn chương nghệ thuật, mà qua cái tình gia đình chân chất, bền lâu đó.
Tôi và các bạn vẽ tranh của tôi là lứa sau anh. Đã đến chơi với anh từ những năm 60 ở Saigon. Nhớ là Nguyễn Trung và tôi thường đến thăm anh ở căn nhà có cây bông gòn trước sân, trong con hẻm nhỏ đường Trương Minh Giảng. Lúc anh đang chuẩn bị cho cuộc triển lãm một mình, với 50 bức tranh sơn dầu đầu tiên ở Saigon (khai mạc ngày 1 tháng Năm, 1961 tại phòng Thông Tin Đô Thành 165 đường Tự Do, Saigon) trong 10 ngày. Sau đó, anh ra triển lãm ở Huế, cũng tại phòng Thông Tin và ở nhà Quách Thoại bên bờ sông An Cựu. Thời điểm đó, một phòng tranh vẽ mới mẻ như vậy là một luồn gió lạ cho nghệ thuật của miền Nam. Chúng tôi đang ở những năm cuối của trường cao đẳng Mỹ Thuật, nhưng cũng đã tham dự tranh trong các cuộc triển lãm mùa Xuân với cách tìm tòi mới lạ đó.
Nhắc qua về anh những gì tôi đã biết:
- Năm 1953 anh cùng Duy Thanh và một người bạn triển lãm lần thứ nhất tại Hà Nội.
- Năm 1956 anh cùng với Duy Thanh triển lãm tại Saigon và thỉnh thoảng tham dự những triển lãm khác.
- Năm 1959 triển lãm chung với Thái Tuấn, Duy Thanh, Vị Ý, Lê Thị Quang, Đào Sĩ Chu, Phạm thị Khánh tại phòng Thông Tin Đô Thành.
Anh cùng Duy Thanh học ở lớp dạy vẽ tư trên lầu trường tư thục Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội, gồm các thầy dạy vẽ giỏi và nổi tiếng đã tốt nghiệp từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, như Lương Xuân Nhị (1913 - còn sống ở Hà Nội) và Nguyễn Tiến Chung (1914- 1976). Các anh học nhóm do ông Chung hướng dẫn. Anh kể, anh cũng đi vẽ ngoài trời, vẽ cảnh trong Văn Miếu, chùa Láng, đền Voi Phục, phố Hà Nội, và nhất là ký họa. Đó là phương pháp căn bản nhất. Vẽ xong, cuối tuần, có khi mời những hoạ sĩ giỏi khác đến xem và cho ý kiến, như Bùi Xuân Phái,... nên sau này anh thường thích xem lại tranh của các ông Chung, ông Phái... Anh rất quí những người thầy. Anh thường nói, chữ Lễ là quan trọng. Anh chơi với bạn, dù nhỏ tuổi hơn, vẫn luôn hiền hòa đằm thắm là vậy.
Từ bước căn bản đầu tiên ấy, cộng với cách nhìn trong nghệ thuật. Hội họa là nhìn, và nhìn thấy, chứ không là sao chép như thật. Những ý kiến chính xác của các bậc thầy cọng với cái tài hoa riêng và nhất là tâm hồn đã đưa những dessins, những tác phẩm hội họa của anh có một dấu ấn riêng, không nhầm lẫn được.
"Thái Tuấn, cùng với Duy Thanh và Ngọc Dũng đã tạo nên một dấu mốc quan trọng đối với sinh hoạt hội họa ở miền Nam, là một chuyển tiếp giữa những xung đột, va chạm từ nghệ thuật trước và sau điểm tựa lịch sử 1954 ..."
(Huỳnh Hữu Ủy, một người bạn viết nghiên cứu phê bình hội họa sâu sắc và nghiêm túc đã viết như vậy trong phần hội họa Miền Nam / Bộ Lịch Sử Hội Họa Việt Nam sẽ xuất bản.)
Nói đến điểm tựa, tôi lại nhớ anh. Anh thường trang trí trên các chuồng chim (anh làm thành phố chim quanh vườn, mỗi chuồng chim nhỏ do anh tự đóng lấy, trang trí, và rất nhiều chuồng chim thấy anh ghi 54 - 75 hoặc Phố Hiến - Hưng Yên 20.7.54, Hà Nội - Saigon 30.4.75. Đúng là những dấu mốc đáng ghi nhớ nhất).
Anh thương cây cỏ và chim chóc như vậy, anh nói trồng những khóm bông như vẽ một bức tranh vậy. Và những bầy chim có hay người xây nên thành phố thơ mộng cho chim đã bỏ dở dang một công trình của Hoàng Tử Bé. Anh luôn thơ mộng như tranh anh vậy:
Tiếng Hát Của Mặt Trời
Hãy gỡ đều cho sợi tóc dày
Cùng một lần với tiếng hát nhìn thấp xuống
Với dòng sông nước cuốn chảy mòn
Nước chảy cuốn mòn xô tới chân em
Từng dạ khúc
Và tiếng khóc nhỏ theo từng chút một
Từng chút em từng giọt mưa mau.
Đó là bãi cát trầm mình là tiếng động
Của một loài rêu mun
Từ đỉnh tháp
Bàn tay xòe hết không gian
Rồi úp mặt nhìn cùng suốt thân thể
Đó là sự huỷ diệt của một chiều ánh sáng
Khi mặt trời sắp mọc khi mặt trời lặn xuống
Biển xô nhanh từng lớp cỏ dài
Đó là sườn núi cô đơn và bí mật.
Ngọc Dũng
(Văn Nghệ 30.4.1961)
Anh đã làm nhiều thơ, và tôi đã sưu tập cho anh vài chục bài đăng rải rác ở các báo Văn Nghệ, Thế Kỷ 20 ở Saigon những năm 60. Anh còn được giao toàn quyền chăm sóc tạp chí Thế Kỷ 20 do Trần Hồng Châu chủ biên, là một tạp chí tôi cho là đẹp và sang trọng nhất lúc đó, mà anh cũng nói là rất hài lòng, vì sửa từng lỗi nhỏ một.
Anh còn là một người vẽ biếm họa nổi tiếng với tên Tuýt, cũng là một nét riêng, cũng là một thơ mộng trong biếm họa. Mà chính trị thì khó thơ mộng. Những năm bên này, nhiều người đề nghị, anh không vẽ nữa ... Anh cũng thích tranh cắt giấy dán (collage).
Trở lại hội họa và thơ của Ngọc Dũng. Còn in trong trí tôi là những thiếu nữ mắt tròn to, những tranh phố màu xanh sẩm, những tỉnh vật bình hoa trên chiếc khăn ca-rô. Là thế giới riêng của anh. Không nhầm vào đâu được. Một bức tranh lớn, tôi mê và ám ảnh tôi nhất, là bức "Nu Campuchia" của anh. Bạn anh thường gọi đùa là "Khoả thân Mọi". Anh vẽ thời kỳ qua làm cố vấn Văn Hóa Thông Tin tại Campuchia. Thiếu nữ nằm dài từ hai góc chéo của tấm toile với gam màu nâu sẩm, vàng sậm và đỏ, không gian màu trắng ngà, với chiếc xà rông của cô gái Campuchia lửng lơ. Làm nhớ Gauguin với những thiếu nữ ở đảo Tahiti, nhưng với anh là một rung động gần gũi. Bức tranh này gần đây, nghe nói bán rất đắt giá cho một người sưu tập(thuộc một sưu tập khác ở Sài Gòn bán lại.)
Anh cũng đang nói căng một tấm toile lớn để vẽ, những lần như vậy tôi thường đến phụ anh để căng. Tấm tranh lớn gần đây của anh là bố cục những thiếu nữ. Những thiếu nữ trong tranh anh vẫn thắm tươi một mùa xuân hạnh phúc. Anh thích dùng màu trong. Khi đến tôi, thấy những tranh màu sẫm đen anh thường hỏi: lòng cậu không yên? Đúng là có những lúc buồn bã.
"Nghệ Thuật Là Sự Cô Đơn Cùng Tận" , như Samuel Beckett đã nói. Trong tranh có những lúc tìm không ra những ý tưởng và gam màu đúng với tâm trạng. Anh đã tinh tế thấy như vậy.
Trong hội họa, anh là con người nuôi nguồn sáng tạo mãnh liệt, khó tính. Anh đã từng như Rouault, đốt hết cả chục bức tranh khi một cơn không vừa ý, mà khi nói thì anh cứ cho "vẽ là bôi ấy mà!", một thứ nhị nguyên - dualisme mà không phải ai cũng nhìn ra cái căn nguyên ấy.
Về quan niệm hội họa anh đã từng phát biểu:
"Người làm hội họa như một cốc nước đầy, tự nó tràn ra, muốn thành hình thể gì không biết. Cái quyết đinh cuối cùng của tác giả là xác nhận những hình thể đó. Hội họa có sự tình cờ (sự tình cờ được xác định) và cũng có những cái ngố của đường nét, màu sắc. Nếu ở một bức tranh tất cả màu sắc, đường nét đều vừa vặn, hợp lý, bức tranh sẽ biến thành công trình của một người thợ khéo tay. Tôi thù ghét sự khéo tay. Danh từ này tự nó đã loại bỏ tính chất nghệ thuật."
(Thảo Luận, ngôn ngữ mới trong hội họa, trang 49 Sáng Tạo xuất bản 1965 Saigon)
Và anh ghi trong phần tiểu sử quyển Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại do Nguyễn Văn Phương biên soạn năm 1962, anh thuộc trường phái Dã Thú (Fauvisme) và Biểu Hiện (Expressionisme). Trong hội họa hiện đại, nghệ thuật biểu hiện dễ đạt được nhiều chia sẻ nhất với mọi người, nói như Huỳnh Hữu Ủy, và cũng là thế giới hội họa của anh, đã định hình. Không thay đổi, in đậm chứng tích Ngọc Dũng. Cũng như đâu ai yêu thích nghệ thuật mà không nhìn ra tranh của Picasso, Matisse, Chagall, Van Gogh, Modigliani ... kho tàng nghệ thuật của nhân loại.
Một đoạn ghi của tôi những ngày cuối với anh:
Sau cơn mưa, khói mặt đường bốc lên
Trưa mùa hè buồn bã
Tôi trở về, sau khi đến thăm người họa sĩ nằm bệnh
Anh nói không ra tiếng
Mấy ngón tay tài hoa miết trên mặt bàn
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Bức tranh cuối cùng của anh, "Tuyết - Virginia Và Thi Sĩ" (ghi ngày 1 tháng Mười, 1999), là đôi tình nhân thơ mộng nép vào nhau đi dưới tuyết. Mùa tuyết cuối sau hơn 25 năm anh ở Mỹ.
Anh đã đi làm, đã vừa mới gần 3 năm về hưu. Đang bắt đầu hưng phấn, vẽ nhiều tranh, thì lại buông tay ...
Có phải hai câu thơ của bạn anh, Thanh Tâm Tuyền, mà anh yêu thích, anh đã từng đọc nhỏ, đã từng ghi ra, là một điềm báo, mà vì sao rơi vào bất tận là anh.
"Sẽ chết như sao rơi vào bất tận
Sẽ yêu như giọt nước hân hoan"
(Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy, Sáng Tạo xuất bản 1964, trang 123)
Anh Ngọc Dũng. Thôi. Hết rồi. Anh đã rơi thật rồi. Nhưng "Sống là Gởi, Thác là Về" mà. Anh đã về với cõi vĩnh hằng. Về với Mai Thảo, người bạn mày, tao thiết thân của anh. Về ở mãi trong tình thương yêu của chị, của các cháu và của bạn bè.
Virginia 09 tháng Bảy, 2000
ĐINH CƯỜNG
(*) Tựa một bài thơ của Ngọc Dũng