Trần Tuấn Kiệt có bút hiệu Sa Giang. Ông sinh ngày 01 tháng 06 năm 1939 tại Sa Đéc, từng theo học trường Cao đẳng Quốc gia Âm nhạc (Sài Gòn). Trần Tuấn Kiệt xuất hiện trên bầu trời thi ca cùng thời với các nhà thơ: Nguyên Sa, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Hoài Khanh, Thanh Tâm Truyền... từ những năm 50 – 60 trong thế kỷ XX.
Năm 1971, Trần Tuấn Kiệt đoạt giải nhất về thơ, giải văn chương quốc gia (Sài Gòn) với tập thơ "Lời gởi cây bông vải". Chỉ trong vòng 7 năm, từ 1963 – 1970, Trần Tuấn Kiệt đã sáng tác và xuất bản 10 tập thơ, gồm: Thơ Trần Tuấn Kiệt, Nai, Bài ca thế giới, Cổng gió, Triền miên ngâm khúc, Cỏ nội, Mê cung, Màu kỷ niệm, Niềm hoan lạc, Lời cây bông vải. Về truyện có tác phẩm: Sa mạc lan dần, Tiếng đồng nội. Và , tập khảo luận: Thi ca Việt Nam hiện đại.
Trước năm 1975, Trần Tuấn Kiệt tổ chức nhà xuất bản Hồng Lĩnh.Ngoài ra,ông còn cộng tác với báo, tạp chí xuất bản ở miền Nam như : Sinh lực, Văn hóa ngày nay, Vui sống, Phổ thông, Nghệ thuật...
Vì mưu sinh, Trần Tuấn Kiệt còn viết sách võ thuật, truyện thần thoại (với các bút danh: Việt Thần, Việt Long, Duy Thức...).
Những người cùng thời và ngay cả những cây bút chuyên viết lý luận phê bình văn học đều công nhận: Trần Tuấn Kiệt có tài về thơ và làm thơ rất nhanh. Thơ Trần Tuấn Kiệt cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh, giai điệu nhẹ nhàng. Phần nhiều thơ của Trần Tuấn Kiệt đều ngắn, gần như đoản khúc, được viết bởi cảm xúc chân thực nên dễ thấm vào lòng người yêu thơ.
"lòng ta vì quá
đỗi nhớ thương
cành hoa bụp cũ khóc
bên đường
bến khuya Sa-đéc trăng
mười sáu
mấy độ chìm theo
sóng lớp lang
hỡi người con gái
bến Tân Qui
nàng hát ta nghe tiếng
hát gì
tóc xõa bốn trời
trăng gió tụ
mây vờn âm điệu nét
phương phi
hát nữa nàng ôi não
bốn trời
cành hoa bụp cũ bến
kia rơi
quê hương khúc hát
chừng đưa lại
lớp sóng trường
giang lạnh đến trời"
("Ngày về")
Đọc xong bài thơ trên của Trần Tuấn Kiệt, chúng ta bỗng thấy lòng nao nao, bắt gặp hình ảnh những cánh đồng lúa miền Nam bát ngát, những dòng sông mông mênh chảy tận chân trời, ngân vọng tiếng hò trong trăng khuya buốt lạnh.
Phần nhiều thơ Trần Tuấn Kiệt đều buồn. Một nỗi buồn thấm đẫm cô đơn. Trần Tuấn Kiệt viết nhiều bài thơ về nai. Nai trong thơ Trần Tuấn Kiệt là hiện thân của con người. Trong bối cảnh xã hội chiến tranh, đồng quê bị tàn phá, phố thị thì đang trong cơn lốc văn minh máy móc tràn ngập, phải chăng trong chính bối cảnh ấy Trần Tuấn Kiệt cảm thấy chính mình và mọi người đều là những chú nai ngơ ngác trong cuộc đời. Chỉ tính riêng tập thơ "Nai" xuất bản năm 1964, Trần Tuấn Kiệt đã làm đến 15 bài thơ về nai:
"...Nai xưa hiện
bóng sương mù
ỉnh ưu phiền để
gót sầu chon von
Chia xa mấy dặm núi
non
Ngóng tai thương với
bãi còn lá bay..."
(Trích bài: Nai)
Nỗi niềm của nai khi xa rừng:
"...Nai cao cổ vọng
xa ngàn
Gục đầu thét giọng
muôn vàn khổ đau
Con đường lên đỉnh
thiên thâu
Em ôi đi mãi bỏ sầu
dưới khe..."
(Trích bài: Nai xa rừng)
Thật
tội nghiệp chú nai bé nhỏ trong rừng tàn thu mộng ngủ
trong sương đêm:
"...Gót nai đi giữa
thu tàn
Sầu tơi tả rụng
muôn vàn lông non
Đất buồn rỗ mặt
héo hon
Ngàn năm xe cộ bon bon
về đường
Nai còn ngủ mộng
trong sương
Rừng xanh đất đỏ
ngắn hồn mãi sao"
(Trích bài: Nai ngủ)
Chiến
tranh: chết chóc, ly tán, đau thương. Giã từ cuộc sống,
hồn nai rưng rưng khóc rừng thẳm:
"...Vòm thiên thâu
loạn sắc màu
Con nai bỗng để lệ
trào ướt mi
Rừng thâm u dấu vẽ
gì
Hồn đơn chiếc nẻo
biên thùy không trăng"
(Trích bài: Nai khóc)
Đi qua bể dâu cuộc đời, nai mang nỗi niềm viễn vọng phương xa với giấc mơ mùa xuân rợp trời chim én, ngàn hoa. Nhưng, tất cả chỉ còn là tiếng thở dài mang nỗi buồn vạn cổ:
"...Sầu xuân viễn
tượng cây ngàn
Thác triền miên dội
đùa phăng oán cừu
Trơ tay nhánh nhỏ
sương mùN
gàn truông đá lạnh
rướm màu thời gian
Tuyệt mù trên đỉnh
thiên sơn,
Bóng nai vạn cổ đứng
buồn trăng thâu"
(Trích bài: Nai thiên cổ)
Phải chăng hình ảnh nỗi niềm, tâm sự của nai trong thơ Trần Tuấn Kiệt chính là hiện thân nhà thơ tài hoa của chúng ta nhiều khổ lụy trong cuộc đời này.
LÊ NGỌC TRÁC
_____________
Tài liệu
tham khảo và trích dẫn:
- Thơ Trần
Tuấn Kiệt
-
Nai
(Thơ Trần Tuấn Kiệt)
- Những
nhà thơ hôm nay
(Nguyễn Đình Tuyến - 1967)