TRẦN YÊN HÒA - NET em

25 Tháng Bảy 20189:02 SA(Xem: 5341)
TRẦN YÊN HÒA - NET em

Tôi có những mối cảm hoài với Net, một chút buồn thương, một chút ân nghĩa, một chút giận hờn. Nếu không có Net, tôi đâu dược quen em, tôi đâu được gặp em và như duyên tiền định, đã buộc chặt đời tôi vào cuộn chỉ hồng duyên kiếp đó.

Nhiều người nói về Net với những tình cảm sổ sàng, dung dị, coi như em là một bà mối gây nhiều tác hại đến một dòng sinh mệnh của những nam thanh nữ tú thời hiện đại. Nhưng đó chỉ là lời kết tội oan, Net phải làm cái trách nhiệm của mình, trách nhiệm của con chim bồ câu thời cổ, hay nhiệm vụ của một nhân viên bưu điện thời trước đây mấy chục năm. Bây giờ có Net, người ta như sống trong một thế giới thu nhỏ, gần gụi hơn, thân tình hơn, nhưng chắc cũng chứa đựng nhiều cảnh giác hơn, cảnh giác đối với con người lừa lọc, ngạ quỹ, chỉ muốn tìm tòi nhưng sơ hở để rồi chụp bắt, dành lấy, phanh thây xé thịt bên những cám dỗ thân xác.

Không có Net, tôi không được gặp em, gặp em thời hậu hiện đại.

Dù ai nói gì đi nữa. Em vẫn là Net yêu của tôi.

*

Tôi là Tuệ. Sĩ quan biệt động. Năm bảy lăm, đơn vị tôi tan hàng ở tây nguyên, tôi một mình cắt đường cùng với dân theo hướng đông mà chạy. Lầm lủi trong rừng gần mười ngày, tôi chỉ còn cặp đồ lính rằn ri, vằn vện. Quân phục, quân trang không, tôi chỉ còn bộ đồ này che thân. Tôi bỏ cả đôi giày bốt ở lại với rừng, tôi chạy chân không tìm đường thoát thân, vì tôi nghĩ rằng, với danh hiệu sĩ quan biệt động, giặc mà bắt được thì chắc nó sẽ phanh thây tôi làm nhiều mảnh. Có lúc tưởng sẽ bị giặc bắt trong cuộc truy đuổi. Có lúc tôi tưởng sẽ chết vì đói, vì rét, vì khát, nhưng như nhờ có thần linh phù trợ, tôi chạy thoát. Khi thoát ra khỏi núi rừng đen tối mịt mùng đó, đôi chân tôi te tua, hai bàn chân tươm máu. Tôi chỉ còn trên người cặp quần áo vằn vện cũng te tua như đôi chân rướm máu đang đau rát thấu tận tim gan.

Tôi chạy trong vật vã, mệt nhọc, lê từng cây số đường rừng. Tôi ngã qụy, mắt tôi nổ đom đóm. Chung quanh tôi là một màu xám xịt, rồi chuyển qua màu đen, màu đen đuổi tôi vào cơn mê thiếp.

Bỗng nhiên tôi thấy tôi được vực dậy, một người con gái ngồi bên cạnh, thấy tôi mở mắt ra. Cô gái nói:

“- Anh đã tỉnh rồi hả?”

Tôi thấy tôi ngồi bên mép nước, gần một con suối nhỏ, chung quanh lau lách mọc đầy.

Tôi buộc miệng hỏi:

“- Tôi đang ở đâu đây?”

Người con gái có đôi mắt sáng, lông mày rậm, nhìn tôi cười:

“- Anh và em đang ở trong rừng, em cũng di tản từ Pleiku xuống đây, thấy anh gục bên đồi kia, em tưởng anh chết, đến gần sờ ngực thấy tim anh còn đập, nên lôi anh xuống suối lấy nước đắp lên mặt anh, may mà anh mở mắt ra.”

Tôi mở mắt, nhưng cũng kiệt sức lắm rồi. Tôi thấy khát nước khô cổ, tôi nói qua hơi thở:

“- Cho tôi miếng nước”

Người con gái tới mép bờ suối, lấy một chiếc lá rừng lớn và dày, khoanh tròn lại rồi múc nước suối, đem lại đổ vào miệng tôi. Tôi uống hết ngụm nước và từ từ tỉnh lại.

Cho tôi uống nước xong, Cô gái vẫn ngồi bên tôi kể lễ:

“- Em chạy với gia đình, vào rừng địch pháo kích, nên ai cũng chạy tứ tung, ba, mẹ, anh em em thất lạc hết. Em chạy một mình đến đây mới gặp anh, em mừng quá, may mà anh đã tĩnh. Anh em mình cố gắng đi trong đêm nay mới mong ra đến quốc lộ. Em còn miếng bánh mì để trong túi xách, em đem cho anh ăn cho lại sức.

Nhờ có miếng bánh mì và nước suối, tôi mới đứng dậy nỗi để sát cánh cùng cô gái đi xuyên rừng suốt một đêm. Có lúc tôi như ngất đi, có lúc cô gái mềm oặt trên tay tôi, hai người đi như là bèo giạt, mây trôi, không biết nhờ phép màu nào mà buổi sáng hôm sau, khi mặt trời vừa hửng ở phía đông thì tai tôi nghe tiếng động cơ xe gắn máy chạy ngoài lộ chính.

Tôi nghe tim mình đập lên rộn rã, tôi níu em mà la:

“- Em ơi, mình đến lộ chính rồi em?

Cô gái sung sướng ôm choàng lấy tôi, hôn lên hai má tôi nghe chùn chụt.

“- Mình thoát được rồi anh ơi, em sẽ gặp lại ba má em, anh em em chứ không chết giữa khu rừng này.”

Tiếng đạn gào réo phía sau. Tụi tôi quên hết, quên hết trong đêm tối vừa qua, chúng tôi chỉ biết chạy trối chết, qua lũng qua đèo, chạy, kiếm trái cây, trái, lá rừng để ăn rồi xuống khe uống nước.

Chúng tôi đi như là trôi xuống quốc lộ.

Tôi và cô gái đón một chiếc xe đò chở nghẹt người, leo lên. Khộng biết người lơ xe thấy tôi bận áo quần vằn vện, sợ tôi làm bậy hay sao mà ngừng xe lại, chứ tôi nghĩ lúc này không phải là tình thương, là cám cảnh, cứu vớt người vừa thoát ra khỏi cái chết. Tôi leo lên trần xe, kéo theo cô gái.

Cô gái nằm sấp lên tôi, mắt nhắm lại. Tôi nghĩ đây là phút khoái lạc nhất của tôi. Tứ chi tôi rũ liệt, nhưng sức mạnh của dục tình vẫn chảy. Tôi nhắm mắt nhận sự cọ xác rần rần ở phía dưới, nghe sướng không thể tả. Nghĩa là chỉ trong khoảng 2 tiếng đồng hồ, nằm trên trần xe gập ghềnh. Người con gái áo quần rách bươm, thịt da toang hoát vết thương, chiếc quần đen bằng vải lảnh mỏng, qua một ngày một đêm lặn lội, nàng chỉ còn chiếc quần duy nhất rách te tua này.

Nằm trên trần xe, người con gái phơi đôi chân trần trắng xanh, nàng như người chết rồi. Nằm sấp lên người tôi theo đà tay kéo, chúng quanh là những thanh sắt lởm chởm, nên nàng không lách ra khỏi được. Xe chồm lên chồm xuống, rập rình. Hai thân thể chúng tôi cạ sát vào nhau, dập dình, dập dình. Và xe từ từ chạy về Nha Trang.

Có thể từ cái sướng đó, của tôi và em, đã gắn chặt chúng tôi lại những ngày sau đó. Tôi trở về Sài Gòn, thất thơ thất thểu trong tâm trạng của người thua cuộc. Tôi cùng em tạt vào trong khu cư xá Thanh Đa, mò tuốt lên tầng thứ ba của khu mới xây, tìm một phòng trống, tìm cách tá túc. Đó là những ngày vô vọng nhất, đau thương nhất của một thằng lính bại trận. Tôi nhốn nháo theo sự nhốn nháo của thời cuộc. Buổi sáng tôi bước ra từ tầng cao của khu cư xá, xuống đường, đi rạc rài tìm kiếm bạn đồng đội và em thì tìm kiếm gia đình. Hai đứa tôi như hai hình nhân thô, nhám, sù sì, liên kết lại với nhau. Em không tìm ra cha mẹ, anh chị em từ tây nguyên di tản cùng em lạc nhau trong rừng. Em không còn con người bình thường, em dại đi sau những ngày tìm kiếm mệt mỏi vô vọng.

Buổi sáng tụi tôi đi ra, buổi chiều trở về trong nhếch nát, mô hôi mồ kê nhễ nhại. Đi ra gặp mấy thằng lính cũ, nó hỏi, ông thầy có over sea không. Tôi nói, tao chẳng đi đâu hết, đất nước tao tao ở, tụi lính thấy vậy lẵng lặng bỏ đi.

*

Tôi nghe tin mất Long Khánh, rồi giặc đã đến Dầu Giây, giặc đã đến Hốc Môn, giặc đã đến Phú Lâm, giặc đã vào ngã tư bảy Hiền, giặc đã vào đến cây Quéo. Thôi thì thôi. Tôi thật sự tuyệt vọng và bất lực. Buổi tối trở về khu Thanh Đa, tôi rúc vào phòng tắm công cộng xối nước chùa, rồi hai đưa ôm nhau ngủ, như hai con vật, như hai con đười ươi, ôm nhau làm tình trong tiếng nấc sung sướng khoái lạc hay thương đau của người bại trận.

Em nói, anh bỏ em mà đi sao? Ở đây bây giờ em là kẻ tứ cố vô thân. Tôi nói, anh không bỏ em, anh cũng tứ cố vô thân như em. Mình dựa vào nhau mà sống, anh sẽ đi bán chợ trời, em sẽ đi bán thuốc lá lẻ, mình sẽ sống được mà em.

Tôi vứt bỏ đằng sau những hào quang của tay sĩ quan biệt động, có trong tay hàng mấy chục người lính bặm trợn. Tôi là người thua cuộc, tôi không màng tới những tên chạy cờ 30-4, những tên thay đổi phản bội mới hôm qua là bạn bây giờ đã là quan cách mạng. Tôi vứt hết ngoài tai, để sống với em như hai con thú bị vết thương quá nặng, lê lết từ chỗ bại trận trở về căn nhà không cửa ngõ ở một tầng cao khu Thanh Đa.

Nếu bình yên như vậy thì tôi đã bình yên sống, đã bám chặt lấy nhau để liếm những vết thương của hai con thú bị thương tật nguyền. Bỗng dưng thế mà chúng tôi yêu nhau, tưởng gắn chặt đời nhau vào căn nhà nơi đỉnh cao cư xá Thanh Đa, nhưng tháng sau đó, tôi phải bỏ nơi đó mà đi, trong lúc em đang bán thuốc lá lẻ lề đường, tôi tự động ghi danh theo thông cáo của ban quân quản. Sĩ quan ngụy cấp trung úy đi học mười ngày.

Tôi đi biền biệt suốt sáu năm lăn lóc hết trại này qua trại khác vì cái tội sĩ quan cọp ba đầu rằn. Thật tình chưa bao giờ tôi uống máu người, cắt lỗ tai hay moi tim moi gan một thằng du kích, cán binh hay bộ đội nào, để ăn tươi nuốt sống các thứ đó cả. Nhưng trong trại tôi đã nghe đầy tai những danh từ đó, tôi tự nhiên trở thành con quỷ đội lót người sống trong thời đại nhiễu nhương. Tôi lầm lì sống, thất vọng sống, quay quắt sống, trong nỗi tuyệt vọng không cùng là tôi đã mất em, hai người quấn quít vợ chồng chỉ được chưa đầy ba tháng, tôi không biết lý lịch rõ ràng thân sơ, quê hương xứ sở của em.

Một lý lịch ngắn ngủi, rất ngắn, em là con người trung đội trưởng nghĩa quân nên giặc tới phải bỏ núi rừng mà chạy.

Thế là tôi mất em, tôi mất em từ ngày xách cái giỏ lác vào trại tập trung, tôi gọi em bằng gì đây, là người vợ, người yêu, hay chỉ là cuộc tình qua đường lúc hai đứa như hai con người của thuở hồng hoang. Nhưng tôi đã có những lúc hạnh phúc sung sướng bên em, những lúc tưởng như thời gian trở thành bất tận, tưởng như thành sương khói, tưởng như thành hạt bụi thần tiên nhất trên cõi đời này.

Tôi mất em từ độ đó, mất em trong lao lung mịt mù, mất em trong nỗi cô đơn tột cùng. Tôi ăn rắn, chuột, ếch, nhái, cào cào, châu chấu, tôi gặm nhấm nỗi buồn đau suốt sáu năm. Em vẫn bặt vô âm tín trong tôi. Một cuộc tình lớn phải không em, tôi nhớ ngày nhảy lên xe đò thoát nạn, nằm trên mui xe và em nằm ép trên người tôi, tôi đã cùng kiệt sức lực mà ngọn lửa tình vẫn còn làm tôi sướng thoả, làm vực dậy những tế bào...

*

Tôi ra tù với thân xác ôm o gầy mòn, sống trong nỗi cùng cực, đêm về ngủ trên lều chợ, ngày đạp xích lô. Tôi người tứ cố vô thân giữa đất trời bao la Sài thành hoa lệ. Tôi gặp đủ hạng người, tôi qua bao nhiêu thiếu nữ, thiếu phụ, điếm đứng đường rạc rày, đàn bà bán trái cây, bán trà đá, quét chợ, nhưng tôi không gặp em, vì em không tăm tích, dù tôi đã lên cao nguyên, nơi em đã kể nơi em sống, dọ hỏi mấy lần.

Tôi bất lực giữa cuộc đời.

Sài Gòn ngày tôi về đã trộn lẫn nhiều thứ hỗn tạp từ ngoài bắc mang vào.

Bộ đội, công an, cán bộ mang dép râu, đội nón cối chạy xe cùng đường, tôi trốn chui nhũi, làm ăn chui nhũi, cho đến ngày tôi làm giấy ra đi.

Tôi qua Mỹ sống ở miền trung tiểu bang Cali và lấy Hướng Dương làm vợ. Hướng Dương là cô gái làm chung hãng với tôi. Cai nghề assembly trong một dây chuyền sản xuất của một hãng điện tử, làm chúng tôi gần gủi nhau hơn trong nhưng giây phút nghỉ giải lao hay những buổi ăn trưa. Hướng Dương không đẹp nhưng hiền lành. Chuyện một anh chàng HO hơn bốn mươi tuổi lấy một cô assembly trên tuổi ba mươi cũng là chuyện bình thường thôi, chẳng có gì đáng nói.

Từ ngày tôi xa em, mất em thuở đó, tôi đã sống dật dờ qua ngày đoạn tháng trên chính đất nước mình hay đất nước mình “tạm dung”. Sao tôi yêu cái chữ tạm dung này quá thể. Đất nước này đâu phải của tôi. Ngày xưa đi lính, tôi đã chiến đấu cho đất nước tôi. Bây giờ đất nước đó không còn là nơi chốn cho tôi dung thân nữa, thì tôi tạm qua đây dung thân một thời gian thôi mà. Rồi tôi sẽ trở về bên đó chứ, về để “tìm em dù em ở nơi đâu?”

*

Thời gian cũng qua đi, hai chục năm rồi ba chục năm sau chiến tranh. Những nổi đau thương và bất hạnh như một vòng xoay đến đi, đi đến, lẩn quẩn bên tôi hoài hủy.

Một bữa tôi ở nhà vì công chuyện, Hướng Dương đi làm một mình. Hai giờ sau thì từ hãng điện tử gọi điện thoại báo tin cho tôi biết là Hướng Dương bị đột quỵ. Tôi tất tả bỏ công việc nhà vào cùng vợ, nhưng khi tôi đến thì xe cứu cấp đã mang vợ tôi vào bịnh viện. Khoảng một giờ sau tin buồn lại đến.

Hướng Dương đã tắt thở. Thì ra Hướng Dương bị cao huyết áp từ lâu, vì cao máu nên trong lúc làm việc quá căng thẳng, vợ tôi đã bị đứt mạch máu mà chết.

Cái chết của Hướng Dương đã làm cho ba cha con tôi như mất đi một phần cuộc sống. Hướng Dương đã vì cuộc sống, vì chồng vì con mà chết đi trong tức tưởi. Tôi nghe như ai xẻo đi một phần than thể mình.

Tôi trở về với nổi cô đơn hun hút. Buổi sáng, buổi chiều, buổi tối đều dài như nhau. Trong những đêm gió lạnh của mùa đông của miền trung Cali, tôi nghe từng sợi da thịt mình rệu rã. Các con tôi bắt đầu thành niên, đã vào đại học, mỗi đứa đi học một nơi. Tôi một mình ôm lấy ngôi nhà rộng thênh thang. Tôi sợ sự hoang vắng, sự im lặng, sự cô đơn này quá đổi.

Và tôi đã gặp em trên Net.

Em đã đưa tôi ra khỏi nổi khắc khoải khôn cô đơn lường đó.


*

Một người bạn từ VN gọi qua hỏi:

- Nghe nói vợ mày mới chết hơn năm mà mày đã lấy vợ khác rồi hả?

Tôi trả lời:

- Có gì lạ, đó là định mệnh, định mệnh có lúc trớ trêu, có lúc dễ thương không tưởng.

Tôi chỉ nói một điều, nhờ Net, sợi dây thần tiên mà tôi đã gặp em trên lời rao của một tờ báo điện tử.

Tôi lướt nhanh qua những mẫu tìm bạn, cô nào cũng khoe mình, bẹo hình, bẹo dạng.

Tôi thử làm quen với vài ba em. Em nào ăn nói cũng giọng ngọt như mía lùi, dĩ nhiên bằng chữ trên computer, em nào cũng cô đơn muốn làm quen với đàn ông con trai ở nước ngoài, tốt nhất là ở Mỹ.

Quen với mấy em này, tôi trở lại một thời tuổi trẻ hừng hực nóng, hừng hực đam mê, hừng hực thèm khát bừng bốc. Tôi trở nên quỷ quái và đốn mạt. Tôi mua một cái Web cam để được nhìn các em và các em được nhìn tôi.

Em nào cũng mồi chài dữ dội, bày ra những đường nét khêu gợi hết mình. Cái háo hức ban đầu tắt ngúm.

Cho đến khi tôi tìm được một lời rao:

Một người con gái miền trung, không đẹp lắm, chỉ dễ thương, nhưng hiền lành. Muốn làm quen…Em quê Đại Lộc…

Sao có những tình cờ giống nhau, tôi nhớ trong trí óc mụn mằn, một lần nào đó thoáng qua, người xưa của tôi em cũng nói quê em Đại Lộc, cha em lên lập nghiệp ở Pleiku rồi đi lính ở đó, sinh em ở đó, chứ thực quê em Đại Lộc.

Tôi nói chắc các bạn không tin, vợ tôi bây giờ là Ngọc, con gái của Ngành ngày xưa. Ngày tháng em trôi dạt, em đợi chờ tôi vô vọng ở trong tù, Ngành trở về quê xưa. Rồi Ngành lấy chồng, có con và Ngọc chính là con của Ngành với người chồng bây giờ.

Nay tôi gọi vợ chồng Ngành là má, là ba. Có sao đâu, chuyện cũ đã trên ba mươi năm.

Đúng là chuyện cổ tích.

Vì vậy nên tôi mới cảm ơn Net và đặt câu chuyện này là Net em.


Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
09 Tháng Ba 20244:34 CH(Xem: 232)
Người lính, ba lô trĩu vai, cắm cúi đi trong đêm.
04 Tháng Ba 202410:08 SA(Xem: 183)
Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết.
28 Tháng Hai 20249:43 SA(Xem: 128)
Ở nơi đâu mà núi chẳng cựa mình…
10 Tháng Hai 20248:41 SA(Xem: 498)
Vậy mà mùa xuân đã về rồi. Mùa xuân của những ngả đường cỏ non, của những ngày khởi đầu nhung lụa, của những đợt khói hương thơm ngát trong đêm Giao thừa,
27 Tháng Giêng 202410:13 SA(Xem: 388)
Dưới ánh trăng rực rỡ và đỏ như màu của máu ai, tôi thoáng thấy gương mặt em thảng thốt, vói theo cùng tiếng nhạc như một lời oán trách trăm năm.
15 Tháng Giêng 20248:59 SA(Xem: 539)
Sau mùa đông năm đó, nàng đã không quay lại KAUST.
09 Tháng Giêng 202410:11 SA(Xem: 455)
Khi anh ngẩng mặt lên thì trời đã sáng rõ. Cả bầu trời như đang cất mình lên cao cao mãi và những tia nắng đầu tiên của một mặt trời da cam rực cháy chiếu thẳng vào mắt anh.
31 Tháng Mười Hai 20235:08 CH(Xem: 330)
Tôi đi đâu xa, mỗi lần trở về Hưng Mỹ không theo đường đò dọc, mà theo đường bộ,
25 Tháng Mười Hai 20232:21 CH(Xem: 463)
Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về nơi dòng sông miên man chảy.
20 Tháng Mười Hai 20239:28 SA(Xem: 365)
Ở nhà quê không thứ gì có thể so sánh được với chữ. Tiền bạc, của cải, ruộng cả ao liền...
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 16699)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 11968)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 18743)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 8938)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8006)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 416)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 754)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 981)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22281)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 13821)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19047)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7735)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8633)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8340)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 10884)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30527)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20705)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25299)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22777)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21555)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19609)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 17919)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19108)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16787)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 15985)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24312)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31731)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34784)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,