Người viết bài này có lần đọc bất chợt, đọc thoáng qua một vài bài thơ của Trần Yên Hòa và thoáng gặp hình tượng Em được nhân-cách-hóa từ thiên nhiên: em không phải người mà là Mùa Thu, và từ đó vẫn mang ý định sẽ có dịp nói nhiều về thiên nhiên nhân cách hóa trong thơ Trần Yên Hòa.
Ta nghiêng về giải đáp tác giả Trần Yên Hòa muốn vượt qua thơ lãng mạn tình yêu để hướng về thơ diệu vợi, bởi từ ngữ Em không phải chỉ về người mà chỉ về thiên nhiên: mùa thu được nhân cách hóa thành người em hương sắc”
(trích trong bài “Mùa Thu Mênh Mông và Mùa thu Cục Diện Trong Thi Ca Hải Ngoại”, tạp chí Văn Học số 232, ấn hành tại Nam California, tháng 7&8 năm 2006).
Và người viết bài còn có ý định phân biệt dáng vẻ thơ lãng mạn, thơ siêu thực và thơ diệu vợi lưng chừng giữa siêu thoát và đời thường. Nhưng khi đọc hết tập thơ mới ấn hành gần đây của Trần Yên Hòa, thi phẩm “Uyên Ương, Phượng Hề, và Khát Vọng” (do Thế Kỷ xuất bản, Nam California, năm 2009), thì ý nghĩ phân biệt ba dáng vẻ kể trên (qua hình tượng người em gái, người tình) đã trở thành bất khả. Vì vậy vấn đề văn chương “Sự Bất Khả Tiên Kiến Khi Đọc Thơ” xin được nói rõ trong bài này. Nhưng trước tiên, ta cùng nhau đọc các câu thơ rất đạt của Trần Yên Hòa trong thi phẩm.
Thi phẩm này của Trần Yên Hòa đa số là thơ tình, hơn nữa tình rất đam mê. Nếu có nghiêng về thân xác thì ngôn từ được thơ mộng hóa, không dung tục đến mức “quá lắm” thường được coi như tân kỳ trong thi ca mấy lúc gần đây, chỉ đến mức “ta gục vào em”, và sau đó là những từ ngữ nâng lên thật cao một cách trịnh trọng. Đôi khi gục vào em rồi sa đà thêm nữa vào hình ảnh hiện thực của hành vi nam nữ sát kề nhau, nhưng vẫn là những từ ngữ đẹp. Do đó thơ tình Trần Yên Hòa dù có vẻ say đắm tự thấy mình “chẻ thành trăm mảnh”, hoặc “thành tro” trong đam mê tình yêu, vẫn là thi ngữ lãng mạn ca ngợi người tình đã cho mình những giây phút thần tiên; vẫn là thi ngữ buồn nhẹ nhàng dù cay đắng dành cho tình phù du của sóng vỗ chân cầu. Nhưng như đã trình bày ở trên, thơ Trần Yên Hòa pha trộn đủ dáng vẻ: đời thường lãng mạn hay hiện thực tình dục thể xác; hoặc siêu thực và diệu vợi. Ở đây, làphần giới thiệu những câu thơ đạt, đạt ở từ ngữ thi ca, chưa bàn về khuynh hướng trộn lẫn:
...
Ta
gục vào em chẻ thành trăm mảnh
Ta
phân thân hồn phách sắp thành tro
(Trích trong bài: Uyên Ương)
...
Khi tỉnh lại nhìn em
như mắc lưới
Đời chia xa như ngọn
sóng chân cầu
(Trích trong bài: Nằm Mơ Hoa Cúc)
Sau đây cũng là những câu thơ đạt về từ ngữ thi ca dành cho tu-từ-pháp nhân cách hóa. Xin nhắc lại: Trần Yên Hòa đã từng nhân cách hóa mùa thu thành người em hương sắc, từ đó ta nói thơ anh hướng về diệu vợi hơn là người em đời thường. Nếu cứ tiên kiến thơ Trần Yên Hòa nhắm tới khuynh hướng muốn vượt lãng mạn để đi vào diệu vợi, thì nhân cách hóa dưới đây đưa ta quay về hành vi thân gần đời thường giữa nam nữ. Chưa bàn tới khuynh hướng trộn lẫn, ở đây ta nhấn mạnh các từ ngữ thi ca độc sáng của nhân cách hóa: bóng núi là thân xác người nữ “tràn qua anh”, ngọn sóng là “chân dài” của em “trườn qua anh”. Đọc đoạn thơ này, ta chưa vướng vào bình phẩm khuynh hướng tình dục hay khuynh hướng siêu thực, mà chỉ vướng vào bình phẩm cái hay của phép tu từ nhân cách hóa, tức là ta đang bàn từ ngữ đạt của thi ca. Mỹ từ pháp là phép tu từ làm cho đẹp câu văn chương, cho nên mỹ cảm làm cho ta vượt qua ám ảnh hình tượng tình dục, có khác nào trước bức tranh loã thể nhưng vô cùng đẹp, đẹp ngọc ngà của thân thể trời cho người nữ, đẹp săn chắc của thân thể trời cho người nam. Người thưởng thức như đứng trước tác phẩm nghệ thuật chứ không phải đang đứng trước hình hài. Tương tự như lúc này đây, ta đang bàn về từ ngữ thi ca nhân cách hóa (em là núi, anh là biển mặn), chứ chưa bàn về lòng đam mê sắc tướng:
...
Nằm
trước biển, anh mơ em là núi
Phủ
tràn anh sừng sững một hình hài
Trước
núi thẳm, em dịu dàng biển mặn
Trườn
qua anh ngọn sóng tấp chân dài
(Trích trong bài: Em, Bài Thơ Anh)
...
Cũng
có thể biển làm em ngây ngất
Biển
vờn quanh phủ dụ tình em
Em
sẽ thấm những mệt nhoài cát
lấp
phù
sinh là một cõi mê man
(Trích trong bài: Đứng Bên Đời Đợi Gió)
Cũng đang bàn về từ ngữ thi ca, vậy bây giờ ta thử rẽ vào cảnh quang thân mật trong thi phẩm nói về đời sống gần gũi của mái nhà thân thương nơi đồng quê, hoặc chuyện đời ngang trái. Những điều này có rất nhiều trong thi ca người khác, nhưng sao đọc thơ Trần Yên Hòa ta cảm thấy nó vừa quen vừa lạ. Truy ra, ta nhận ra cái lạ ở chỗ trái khuấy thường lệ: đáng lẽ anh thì chính em về trễ giữa đêm khuya; và khói đốt đồng trong trưa nắng thì lại hiện ra vào lúc hoàng hôn trên tỉnh lộ; và đáng lẽ em bước ra làm anh cay đắng thì chỉ làm anh dửng dưng như đã không hề quen em. Toàn những điều trái khuấy thường lệ thường tình.
Phải chăng do đó thơ Trần Yên Hòa làm ta bắt gặp giây phút là lạ; không phải bàng hoàng như một điều thật lạ; cũng không phải dửng dưng vô tình
của vạn sự lướt qua không trì kéo lưu tâm nào. Vừa quen vừa lạ, cũng như mây vẫn trôi trên bầu trời bỗng như khác lạ ngày khai trường đối với em bé lần đầu đi học (ta đang nhắc tới một đoạn văn của Thanh Tịnh); hoặc như còn một chút gì để nhớ khi mà có em trên phố núi đìu hiu (ta đang nhắc tới thơ Vũ hữu Định); hoặc như em đã ra đi thì mùa thu đẹp trong vườn Luxembourg không còn nữa (ta đang nhắc tới một bản nhạc của Phạm Trọng Cầu).
Cùng
một cảm thức điều lạ trong cái quen khi ta đọc các câu thơ dưới đây của Trần
Yên Hòa; có một liên tưởng đến khói đốt đồng trong văn VõPhiến; có một chút
liên tưởng đến bài thơ “Không Tiếng” của Mai Thảo nói về một bóng người đơn độc
sáng đi tối về không ai hay; có một chút liên tưởng đến thơ Thái Can bật lên
thành tiếng khóc vì biết em đi chẳng bao giờ còn trở lại:
...
Kêu hoài hủy tên em, anh thức đợi trở thành thánh thiện. Từ da thịt đam mê, da thịt mướt,da thịt ngời ngời, rồi một đời chờ đợi như đã hóa đá vì người chồng đi tù tội lâu năm mỏi mòn, và cuối cùng thì nàng đã chết: lòng chịu đựng hy sinh đã biến da thịt thành thánh nữ. Một biện chứng từ thấp lên cao có vẻ như thí nghiệm trộn lẫn trần tục da thịt và siêu thoát. Có điều làm ta thắc mắc tại sao tác giả không dùng từ ngữ “nàng” hay “người em gái”, mà lại dùng từ ngữ “da thịt”, phải chăng tác giả muốn cho ta biết thiếu phụ có lòng hy sinh cao đẹp ấy vốn là gái giang hồ. Cũng chưa hết, da thịt sau khi thăng hoa thành thánh nữ, tác giả còn nói rõ da thịt ấy bây giờ mở phơi thành rong rêu dưới lòng đất, không còn riêng cho ai nữa. Ta chợt liên tưởng đến bài hát “Em Đã Cho Tôi Bầu Trời” của Trịnh Công Sơn, đại ý: em chết đi, “từ đây tôi có em đời đời, từ đây không có ai phụ người.”
Lời hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phát xuất từ “biến thái của lòng ghen tuông”, còn thơ Trần Yên Hòa phát xuất từ “biến thái của lòng hối tiếc đã trót coi nàng chỉ là da thịt”:
...
Em
nguyên vẹn bài thơ da thịt ấy
Rải
xuống đời hy vọng cháy đam mê
...
Da thịt mướt như suối nguồn ẩn hiện
Một
mùa xuân trổ nụ dáng thiên thần
...
Có một thuở anh qua Trương Minh Giảng
Thấy
nhấp nhô da thịt hiện ngời ngời
...
Đến một lúc em bắt đầu hóa đá
Anh
tàn xương trong trại cải tạo buồn
Ôi
da thịt đã oằn mình thánh nữ
Khi
trở về đành nắm lấy tay không...
(Trích trong bài: Thịt Da Ấy)
Trở lại với ý nghĩ “thiên nhiên được nhân cách hóa thành người em hương sắc” trong thơ Trần Yên Hòa, một lần nữa ta bắt gặp ở thi phẩm này. Tác giả trình bày rõ điều này ngay trong bài thơ đầu tiên trong tập thơ, nhưng đâu có thiên nhiên nào thể hiện “vành môi thơm”. Cũng đâu có biển nào dù được gọi là em mà biểu hiện được hành vi “mắt liếc” và “đếm gió” thổi qua. Cho nên nhân cách hóa thiên nhiên đó đẩm chất hiện thực củacon người bằng xương bằng thịt. Và phượng đỏ mùa hạ ẩn tàng bóng dáng một người thật mang tên Phượng mà ngay ở nhan đề tập thơ tác giả đã nêu ra.
Cho nên nhân-cách-hóa trong thơ Trần Yên Hòa trộn lẫn tình yêu đời thường, con người đời thường, không phải hoàn toàn là những mùa màng đẹp đẽ của thiên nhiên:
...
Em đến bên ta áo tà lụa bạch
Vành
môi thơm hương đọng sơ nguyên
...
Em bóng sắc trở về ta ánh sáng
Mùa
xuân qua, mùa hạ đỏ, theo về
...
Ta hát khúc uyên ương trên đồi cọ
Giữa
mùa thu trùng điệp ánh sao rừng
...
Em muôn trùng ta vẫy gọi trăm năm
Em
phượng đỏ ngát màu mùa hạ ấy...
(Trích trong bài: Uyên Ương)
...
Gió
sẽ về bên em, biển lộng
như
giấc mơ ngoan tha thiết gọi mời
em
sẽ đếm trăm ngàn lời gió thổi
bay
qua tình anh mắt liếc, môi cười
(Trích trong bài: Đứng Bên Đời Gọi Gió)
Càng rõ ràng là người em lãng mạn đời thường, không phải siêu thực, hoặc chỉ là thiên nhiên nhân cách hóa, khi tác giả nói rõ người em có xuất xứ Mộ Đức Quảng Ngãi hay Mỹ Tho Tiền Giang. Càng phàm trần hơn nữa khi tác giả dùng những từ ngữ thật gợi hình về thân xác như “tơ nỏn long măng”, như “ngực trần săn cứng” hay “bộ ngực vun cao, hằng hằng”. Từ ngữ hằng hằng ở đây khá tân kỳ; vì hằng hằng thường dành cho cát bãi, dành cho sa mạc; vậy mà tác giả mượn nó để diễn tả cảm giác ngây ngất choáng ngợp. Phải chăng tân kỳ là do sự hoán đổi vị trí cách dùng thường lệ? Tác giả đôi khi muốn thơ mình bình dị trong những hình ảnh thân thương làng xóm Miền Nam với “trái mù u rơi rụng giữa hồn qưê”,hoặc Miền Trung với “người con gái của cội nguồn xa xưa”, nhưng thơ anh lai vãng những thi ảnh thân xác vượt tính bình dị; do đó càng củng cố cho lập luận không thể sắp đặt một phạm trù tiên kiến khi bàn thơ Trần Yên Hòa như nhân cách hóa diệu vợi -lãng mạn đời thường-siêu thoát-bình dị. Thơ Trần Yên Hòa trộn lẫn nhiều dáng vẻ:
...
Theo
quân đổ xuống Đức Quang
Gặp
em ánh mắt chảy tràn tim anh
(Trích trong: Bài Cho Cô Gái Mộ Đức)
...
Anh
làm người tình xa lơ xa lắc
Biết
Mỹ Tho tự thuở yêu người
(Trích trong bài: Gởi Mỹ Tho)
...
Ta
gục vào em ngực trần săn cứng
Để
trăm năm giờ, phút, đợi, trông, chờ
(Trích trong bài: Uyên Uơng)
...
Gió
sẽ tung áo em bay ngược
Cho
anh được nhìn tơ nỏn lông măng
thân
thể em hiện nguyên hình, áo mỏng
Bờ
ngực vun cao như cát, hằng hằng
(Trích trong bài: Đứng Bên Đời Gọi Gió)
Liên hệ đến thơ Đinh Hùng với tính chất khác nhau qua hai thi phẩm. Tập “Mê Hồn Ca” thể hiện sự đồng điệu ở thi ngữ siêu thực thuộc cõi thần bí; còn tập “Đường Vào Tình Sử” thể hiện sự đồng điệu ở thi ngữ bình dị đời thường. Nhà phê bình Đặng Tiến thì thấy sự thống nhất của hình ảnh người em có “vóc dáng vô thể” trong toàn bộ thơ Đinh Hùng. Vô thể, vì người em trong thơ của ông không cụ thể là nhân vật có thực, chỉ là bóng ảo, bằng chứng là ta có thể lấy bất cứ đoạn thơ nào nói tới người em từ bài này hoán đổi qua người em trong bài thơ khác, thì người em của Đinh Hùng cứ vẫn là người tình huyễn mộng tồn tại trong một thế giới
nào khác, quả là một “Nhan Sắc không có Chân Dung; những tên mơ hồ như Huyền Diệu, Nữ Chúa Sầu”
(Đặng Tiến, trong bài” Vũ Trụ Đinh Hùng”, tạp chí Văn số 91, Sài Gòn, số ra ngày 1 tháng 10 năm 1967). Trở về người em diệu vợi nhân cách hoá trong thơ Trần Yên Hòa, người em hoàn toàn xa phàm tục ấy không đứng riêng, mà pha trộn với người em lãng mạn và người em hiện thực.
Vì
vậy, sau khi đọc toàn tập thơ Trần Yên Hòa, ta như được nhắc nhở một vấn đề văn
chương: Sự bất khả tiên kiến về khuynh hướng một tác giả nào nếu ta chỉ biết
thoáng qua vài bài thơ của họ.
Trần Văn Nam