Đối với nghiệp cầm bút của nhà thơ Yến lan - ba tôi, chỉ là vô tình, sao đời thơ ông lại tựa như ý tình trong “Bến My Lăng”. Ông cặm cụi chèo trên bến sông thơ, thuyền ông đã chở nặng những dòng thơ cuộc đời, nhưng khách thơ tìm đến chỉ ngắm nghía qua loa rồi bỏ đi, bởi đó chỉ là những bài nghiên cứu nhỏ mang tính chất cảm xúc là chính.
Nhà thơ Yến Lan
Nhà thơ Thanh Hải: “Những vần “thơ lưu” của Yến Lan là cuộc sống được chắt lọc qua tim, qua tâm hồn thi sĩ, là nghệ thuật điêu luyện về ngôn từ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu…là thế giới tình cảm bao la, là tiếng thơ của những cảm xúc chân thành”
Nhà thơ Chế Lan Viên: “Lan đâu có gặp nhiều ngẫu nhiên may mắn như tôi, Lan đã phải đương đầu với nhiều khó khăn ở trong cuộc sống. Năm 1937 tôi mới có Điêu tàn. Nhưng năm 1935, khi nền thơ mới còn chập chững Lan đã có nhiều tìm tòi táo bạo. Tả một cánh buồm cô đơn, tìm về nghĩ ngơi trên sóng đảo dịu dàng, Lan viết:
Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ/ Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi.
Tả nắng chiều trải ra như cánh chim trên các trang viên ở Sầm sơn có hòn trống mái Lan viết:
Trống xa mái ngẩn ngơ thơ đá chạm/ Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang
Cánh ủ viên trang, chiều bồ câu, thơ đá chạm biết bao nhóm chữ phối hợp cấu trúc trong cái tương quan kỳ lạ, ngỡ như mới được viết hôm qua, giữa năm 86 này…Hiện đại mà Việt Nam, mà dân tộc. Một nhà thơ có tài là có thể sử dụng thập bát ban võ nghệ, là như cây xương rồng có hai cực đối lập, gai rất gai mà hoa rất dịu dàng. Lan không phải chỉ có loại thơ điêu khắc kỵ khu vào đá ấy, mà lại có nước chảy đưa ru như nhạc. Gần nửa thế kỷ rồi, tôi vẫn thuộc các câu này mà có lúc Lan quên:
Năm nay cũng có tiếng xe đi Đường cũ cong cong ngõ ý gì Chỉ thấy bàn tay người khớp ngựa Ngừng roi chậm séo cánh hoa si Và liễu bên đường sống phút mơ Xếp hàng nhau như vạn trang thơ Chờ bàn tay lạ, bàn tay gió Lật rải tung ra tờ lại tờ
****
Hôm ấy, đang đọc cuốn “Hội Chợ Phù Hoa” thì nghe ba gọi; tôi quay lại, thấy ông quắc quắc mấy ngón tay ra hiệu tôi đến bên: “Thủy, lại đây ba bảo cái này”. Vẻ bí mật đó khiến tôi hơi lo; bởi, chưa bao giờ ông tỏ ra như vậy. Rồi, tâm tình: “Việc này ba chỉ nói mình con biết. Đây là toàn bộ sáng tác của ba, chưa đăng ở đâu, ba để ở góc này, con nhớ nhé.” Ông chỉ phía góc trái tủ gỗ, giả cổ (má mua lại của gia đình đã di cư vào Nam; hiện Tú Thủy chưng ly tách) và nói tiếp: “Nếu nhỡ lúc nào đó ba đi xa, con mang tập bản thảo này đưa cho các chú ở Nhà Xuất bản Văn Học”. Nói đến đây gương mặt ba chùn xuống, đầy tâm sự: “Con có bao giờ để ý thấy quả đu đủ ứa nhựa tự hàn vết thương khi bị trầy, xước… Đời ba cũng như thế!”.
Câu nói của ba khiến tôi mủi lòng. Sau đó.., chưa có gì xảy ra, tôi tạm gác lời tâm sự ấy vào tâm khảm; thầm hẹn sẽ tìm hiểu sau. Rồi, Hội Nhà văn xuất bản cho ba vài tập thơ. Tập nào tôi cũng lật từ trang đầu đến trang cuối, tìm chữ “đu đủ” Rất nhiều bài lướt qua mới thấy trong Tuyển tập Tứ tuyệt Yến Lan hai chữ “đu đủ”, ở bài:
Quả đu đủ góc ao Ứa nhựa hàn vết đau Tĩnh yên cành gió quật Quả đu đủ góc ao Lặng dâng đời quả ngọt.
Tôi muốn hiểu điều ba nói “Đời ba giống như quả đu đủ, tự ứa nhựa hàn vết đau” một cách trọn vẹn từ trong suy luận của người thi sĩ. Trước hết; tôi liên tưởng đến mấy cây đu đủ từng nhìn thấy. Tôi nhớ lại, hồi chưa đi tập kết, trước sân có cây đu đủ, tự mọc. Nó nằm sát mép rào nhà cô Ba Đen; quanh nó chỉ gạch đá lởm chởm không thấy đất, đã vậy, cành trứng cá choáng hết ánh nắng; thân đu đủ khẳng khiu, oằn ra hứng chút ánh sáng để tồn tại; thế mà nó cho quả từ gốc đến ngọn, thịt nó thật thơm, ngọt lịm đến tận chân răng. Cả nhà tôi, ai cũng được ăn. Có lẽ ba liên hệ đời mình từ cây đu đủ này:
Mới năm sáu tuổi mồ côi mẹ, ba phải tự lập, vừa lớn thì cách mạng xảy ra; ông không chút so đo tính toán như người “Ta nằm chính giữa cân trời đất” mà bằng sự nhiệt tình của mình, tự nguyện dâng tuổi xanh cho cách mạng: - Một là trực tiếp kêu gọi bà con thị trấn đứng lên giành chính quyền từ tay bọn phản động, quan lại, - Ý thức được việc sáng tác của mình để động viên, cổ vũ nhân dân hăng hái làm cách mạng. Mà theo nhà thơ Anh Chi:
“Yến Lan là nhà thơ tả thực rất tinh, sâu và có hiệu quả thơ, khiến độc giả rung động bởi được hiểu đời thật và thắm thía thương đời. Có thể nói viết câu thơ tả thực mà làm cho người đọc rung động như Yến Lan là rất khó và rất hiếm: Nghe trên đàng quạnh hiu/ Cổ xe bò nặng nhọc/Người trên xe trằn trọc/ Giữa những tiếng rơm kêu Trong thơ ông nặng tâm hồn yêu quê hương, giàu lý tưởng và ý chí cách mạng, khát vọng sống tự do hòa bình. Điển hình là bài Bình Định 1947.
…Ôi Bình Định từ những ngày tháng Tám Bao đứa con xiêu lạc trở về làng. Cuộc gian khổ đã bắt đầu nặng gánh Sông lại mong thuyền, tàu lại nhớ ga…. Và Bình Định nằm thương em nhớ chị Ôm phố phường quấn quýt sắc trời xanh. Một viên sỏi cũng cộm thành ý nghĩ, Sáng trên đường chờ chận bước hôi tanh. Tin hỏa tốc bạc thếp đèn cửa quán Lửa mài gươm sáng rực xóm Lò-rèn Mẹ binh sĩ lòng khâu theo túi đạn Phòng tuyến binh người áo vải chân chen. Mõ lốc cốc, chó không còn tiếng sủa Quân lên đường chân đất bước như ru Quạnh hơi thở trong những nhà đóng cửa Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy, Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn. Gái quạt trấu cũng hóa thành Dũng sĩ, Cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng…. Lòng Bình Định như go chèn chỉ rối, Dệt lòng tin qua từng gút âu lo…..
Nhà thơ Chế Lan Viên, người bạn văn, rằng: ”Có những câu thơ như nói chuyện bình thường, lại nổi tiếng: Đau đớn thay phận đàn bà/ Anh đi đường anh, tôi đường tôi. Nhưng có những câu nhỏ máu ra mà ít người hay. Có nhiều lý do… Nguyễn Nhược Pháp chỉ với chùa Hương và Sơn Tinh Thủy tinh đã không uổng công đi vào bể ấy.
Nhà thơ Yến Lan, vợ và con gái
Lan à mình bảo Lan rủi! Không, Lan thế mà lại may lắm. Mình thèm viết được một bài “Lại Về Tỉnh Nhỏ”, một bài Mùa xuân lên cao, một bài “Uống rượu với bạn đồng hương như Lan. Rất đỗi thèm. Những nhà thơ khác như Trần Ninh Hồ, Nguyễn Bao, Thúy Toàn đều có chung ý nghĩ: “Thơ Yến Lan về hình ảnh hết sức gợi cảm, gây liên tưởng sâu xa, nội dung thơ tuy mới, vẫn giữ được phong cách xưa, tứ thơ không phá vỡ đơn vị dòng; nên thơ ông vừa mang tính truyền thống mà lại rất hiện đại.” Lâu nay, tôi viết về chân dung cha mình. Nay, xin giới thiệu tới bạn đọc một số bài thơ của ông, để bạn chiêm nghiệm những điều đồng nghiệp đã ghi nhận về ông:
Hai cung cùng một nhịp cầu
Thân mến tặng La Nhiên “ Tel pere tel fils” kính trao hương hồn
cụ Paul Hổ (Việt Kiều Pháp) tác giả bộ phim. Chuyện tình nàng Nha, mang bối cảnh 9 năm VN kháng Pháp ở Phú Đa-An Nhơn-Bình Định.
Cung La buồn - nỗi nhớ Văng vẳng vọng bên mồ Mi ướt – dễ nao khô Người xưa đâu trở dậy Trăm cánh thư ngày ấy Sao chẳng đến người thương Chừ-lệ vẫn vấn vương Tìm quên…Hoa về Đất Cung Mi trầm – nỗi nhớ “Sen”rũ giữa mùa hương Biển xanh dội sóng dồn “Giọt Măng cầm” nhịp lỡ Hai cung đàn nỗi nhớ * Sương rơi… rồi sương rơi Lệ chát mặn vị đời Kiếp sau - chờ - xa xôi Hai cung đàn nỗi nhớ
Sen = Liên (La Nhiên), tên của một nhân vật chính của bộ phim “Chuyện Tình Nàng Nha” nổi tiếng tại Alge’rie những năm 1960-70 Hai cung đàn nỗi nhớ = Tựa đề bài thơ tặng La Nhiên của Yến Lan sau khi nghe tin “Nàng Nha-Lệ Nha”đột ngột qua đời 1952.
Độc ẩm
Người ta trối già, tớ chối già Vẫn nguyên hồn bướm chực mơ hoa Mơ hoa nên mãi chờ xuân đến Xuân đến mừng xuân một ấm trà Không ướp ngâu, nhài –chẳng mạn sen Thiên thanh mầu nước bốc hương riêng Cúc, mai kề gối vờn tay rót Đỡ trống đêm nay bóng bạn hiền Nhấp ngụm đầu tiên bỗng dạt dào Thấy mình trở lại núi Tô Châu (*) Hồ Đông tưởng cạn từ đêm ấy Theo cuộc trà chuyên lượn sóng chao Uống hớp tiếp nhớ về Sa Vĩ Một mái nhà tranh bờ Mẫu lệ Ấm sành Mống Cái ẩn giao lân Ngan ngát hương quê tình khách địa Lung linh đất nước hiện hai đầu Ký ức đưa mình tới những đâu Lòng bỗng chập chờn theo tuổi trẻ Hơi trà bốc dậy cả chiêm bao Uống nhớ sông dài với núi cao Mưa dầm eo gió, lũ ngầm sâu Bến phà bom nổ, rừng lim cháy Cốc nước nâu hoen đất chiến hào _______
Tô Châu: tên một cụm núi ở Hà Tiên. Sa Vĩ: bãi bể nơi tận cùng thuộc huyện Móng Cái. Bờ Mẫu lệ: bờ đê nhớ xây bằng san hô vớt ở bể.
Sống bù Tám chục năm qua nhiễm thói đời Buông tuồng ngày tháng cuộc dong chơi Duyên tình gán ghép, vinh hoa mượn Cánh cửa chiêm bao hé mở hoài Sách vùi cổ viên, tiếng trùng ngâm Rượu nhạt, trăng hiu, lạnh phiếm cầm Người đẹp khuất dần không kịp ngắm Lửng lơ hoài niệm, khát tri âm Còn được bao năm nửa sống thừa Lấy gì ấp lạnh với che mưa Nợ đời còn phải lo trang trải Đến lúc xuôi tay hết lọc lừa Ước có nơi nào hiểu nghĩa “già” Tình làng nghĩa xóm khéo lân la Đượm, nồng chén chuốt cơn thù tạc Êm ả hồn quê giác sớm trưa Trăng khuya huyền hoặc chái hương đình Gió lộng, tùng ngâm, trúc lã mình Ngắm lại sông Ngân cầu dứt nhịp Thương đời còn đọng bước chông chênh Cổng bụt song thưa lọt nắng đào Lắng chừng tin bạn cánh thư trao Cuốc kêu vườn thị gây mùi Đạo Đèn nhớ nhung chong đến cạn dầu Chiêu hồn Lý, Đỗ hận ly hương Nhẫm chuyện thiên luân khóc Sở cuồng Mắt mỏi, chữ mờ thèm nhớ sách Thềm hoa gọi cháu giảng đôi chương Kể chuyện xưa sau luận thánh hiền Vô chùa đàm đạo thuyết nhân duyên Nón nan, túi vải băng đồi thuốc Nghiền ngẫm đơn thang, thuật cổ truyền Lễ hội xuân thu nổi trống tuồng Vịnh đào lát liễu tối liên hoan Trái hườm trí tuệ theo mùa chín Vẫy tới mùa sau gié mộng vàng Tạ từ ẩn tích chốn đơn cô Tám chục năm, thôi sống vật vờ Lái trở nồm lên, buồm chuyển bến Góc mai già đợi báo tin thơ 20.12.1994
Nghe sao
Có lẽ sao trời ta nhìn thấy đêm đêm Là tiếng nói hào hùng nhịp đập con tim Của nhân loại qua nghìn đời để lại. Ta sẽ nghe từ chùm sao bánh lái Tiếng người hô vượt biển thắng phong ba Nghe sao Hôm, sao Mai nói đợi, nói chờ Vằng vặc hai đầu không gian chung thủy. Nghe Tua-rua gọi gieo trồng, gặt hái Xong mùa màng lại bàn dệt chiếu chăn Nghe Thần-nông dạy con cháu kiệm cần Hạt vãi hạt vương lấy phần nuôi vịt Nghe Bắc Đẩu, Nam-Tào lục tìm sổ sách Xe chặt nhân duyên bằng sợi nghĩa, sợi tình… Cả một Ngân Hà tỏ rạng lung linh. Sao đang nói bao điều cho cuộc sống… Biết đâu nữa ngày mai trên trời rộng Sẽ mọc thêm biêng biếc một chòm xanh Từ những lời em nói với anh.
Khi hoa đào nở
Sáng nay trời khép chân mây trắng Thuyền bến sông ba đậu khít bờ Chim về xóm lạ mong sương mới Tháng chạp hoa đào nở lẳng lơ Gió đẩy bờ lau chạy với lau Núi chàm thu hẹp núp trong sâu Bên cầu trúc đỏ, phơi đầu bạc Ông lão quên về, đứng thả câu Và có hơi may thấm lạnh lùng Có từng loạt lá trút trên sông Có người thiếu phụ gầy như trúc Đi khắp vườn cau tước gió đông Nàng mơ sống lại thu hôm trước Đã rung bao nhiêu ánh mặt trời Mùa đông buồn quá, chim lâu quá Chim cả trong lòng nét thắm tươi
Tiểu thuyết thứ năm, 10/10/1937
Trăng chín
Đò trôi lấy bẩy nước xuôi dòng Trăng bỏ đầu cành rụng xuống sông Đôi tiếng ếch kêu từ gốc bẹ Đáp vào rung lạnh mái chèo cong
Chơi xuân
Gửi bạn vào xuân, hương cúc thoảng Thung sâu bặt tiếng búa sơn tràng Quyên đôi rỉa cánh chòm mai nhún Câu đối trưng lên ánh nhũ vàng. Ông lục thơ xưa trong sách cũ Cháu tìm khoe áo với đàn anh Ngoài sân lơ lửng nêu xe tóc Lạc ngựa luồn trong ngõ trúc quành Chùa bên vẳng lại tiếng chuông ngân Ẩn hiện bờ lau cát trắng ngần Đò chở sang sông hai quả bánh Của người thôn nữ viếng tình nhân Giải khăn cô gái bay trong gió Khúc khích cười sau vạt áo bà Lúc nãy lên chùa dâng lễ phật Vô tình để ố vết chu sa. Người cũ năm nay đâu hút bóng Ngõ thôn vòm trúc vẫn che ngang Ta đi nhặt cánh tầm xuân rớt Của khách chơi hoa rải dọc đàng. 1938
Khô
Giếng làng hôm ấy không còn mạch Chàng kéo gầu lên thấy nhẹ không Từng đoạn đường xa bàng rụng lá Một bờ sông nhớ một bờ sông Đường chảy, người đi, mỗi sớm mai Lá bàng lấp lại, dấu chân ai Kéo dài trong cát khô như cát Thuyền đậu bên bờ nối một hai Thu khóc tình thu, ta khóc ta Mà chàng mơ ước giếng làng xa … Qua sông còn một con thuyền nát Mà kẻ chèo kia đã ở nhà Nhưng bỗng ta nghe lời trúc đổ Tự rừng muôn cánh, gió bao phương: Bỏ ta, chàng bước sang phường khác, Gánh nước làng trên giếng dọc đường. Hầu ta thôi khát, giếng càng khô, Mắt đã ngừng trông nẻo hẹn hò. Tim đã thôi reo lời tuyệt vọng, Mực còn lưu đọng chảy ra thơ.
Tiểu thuyết thứ năm, số 30, 01/5/1939
Ý kiến bạn đọc
23 Tháng Năm 20137:00 SA
LBT
Khách
Vô tình vào mạng thấy bài viết. Cảm ơn anh Du Tử Lê đã post bài này. Chứng tỏ anh hiểu nổi lòng cụ nhà.
Câu hỏi, “Độc giả của Xuân Diệu là ai?” hóa ra lại không dừng lại ở câu chuyện văn chương hay thương mại, mà đó là một chất vấn về hệ giá trị của một cộng đồng, một thời đoạn lịch sử.
Cõi nhạc của Cung Tiến đã là một cõi riêng. Kiếp sau của Cung Tiến vẫn còn là một bí ẩn. Nhưng chắc chắn, ông đã có một nơi chốn vĩnh cữu trong trái tim của những người yêu nhạc Cung Tiến
Tuy làm thơ từ năm 1947, nhưng phải đến thập niên 50, khi sống và học tập ở Paris thi ca Cung Trầm Tưởng mới hình thành đường nét với cá tính riêng biệt.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Trong lịch sử tân nhạc Việt, dường như không có một nhạc sĩ nào nổi tiếng ngay với sáng tác đầu tay, ở tuổi niên thiếu, khi chỉ mới 14, 15 tuổi, như trường hợp Cung Tiến
Bài thơ đầu tiên (?) của Tô Thùy Yên được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết tháng 4 năm 1956.
Có phải chính vì lòng nhân ái, tính nhân văn của một nhà thơ lớn mà cả trong tác phẩm và nhân cách ngoài đời của họ càng làm cho chúng ta kính yêu và ngưỡng mộ.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.