Kể chuyện Thế Lữ dẹp loạn thơ

20 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 6618)
Kể chuyện Thế Lữ dẹp loạn thơ

 

Trong Thi nhân Việt Nam (1942), Hoài Thanh – Hoài Chân nhận xét về Thế Lữ: “Tác giả Mấy vần thơ liền được tôn làm đương thời đệ nhất thi sĩ và nhờ thế đã lập được công lớn, đã mở đường cho các nhà Thơ mới sau này. Chung quanh ngôi sao Thế Lữ châu tuần bao nhiêu hành tinh có tên và không tên, hầu hết các thi sĩ lớn nhỏ hồi bấy giờ”; “Thế Lữ, khôn hơn, chỉ lẳng lặng nói chuyện với người đồng hương - những người trong làng Thơ mới. Từ mục “Lá thắm” của Tinh hoa đến mục “Tin thơ” của Ngày nay…, Thế Lữ chăm chú dạy nghề thơ cho những ai nuôi giấc mộng một ngày kia trở nên thi sĩ”; thêm nữa: “Thế Lữ không bàn về Thơ mới, không bênh vực Thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”… Trên thực tế, không hẳn Thế Lữ “chỉ lẳng lặng”, “chỉ điềm nhiên” và “không bàn về Thơ mới, không bênh vực Thơ mới, không bút chiến”. Nói cho đúng, với bút danh Lê Ta, ông đã tham gia nhập cuộc luận chiến thơ ca ngay từ buổi đầu hình thành Thơ mới.

thelu-contentThế Lữ

Chính Thế Lữ đã trở thành đối tượng đồng thời là người “trong cuộc” qua nhiều kỳ bút chiến – trong đó có cả những nhà Thơ mới – với Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Vỹ, Bích Ngọc, Nguyễn Triệu Luật; và lôi cuốn thêm cả các nhà văn Nhất Linh, Thạch Lam vào cuộc. Điều quan trọng hơn, ngay thời kỳ Thơ mới vừa nảy mầm, Lê Ta đã đăng trên báo Phong hóa một loạt bài đọc điểm một số tập nằm trong dòng chảy Thơ mới (trong đó có người sau được Hoài Thanh – Hoài Chân khắc tên vào Thi nhân Việt Nam như Nguyễn Lan Sơn, Nguyễn Vỹ, Huy Thông)…

Mở đầu cho dòng văn phê bình này là bài điểm sách tập thơ Anh với em (1934) của Nguyễn Lan Sơn. Nhà phê bình Lê Ta ghi nhận: “Thi sĩ là người đa tình, làm thơ cũng toàn về tình, cái tình Anh với Em, nghĩa là trai với gái. Có vậy thôi… Tuy vậy thứ thơ này lại là thứ thơ được lòng nhiều người nhất”; đồng thời ông ngỏ lời chê pha chút bỡn cợt những câu thơ dễ dãi, đơn điệu, tầm thường:

“Bởi vì đoạn thứ ba có hai bài thơ dài nhất mà vẩn vơ nhất. Toàn là những câu dễ làm, phần lớn là những chữ sẵn, ý cũ, tả những tính tình không có. Giọng văn sướt mướt mà tầm thường:

 … Tuy chăn gối phải đâu là bạn,
 Dẫu Bắc - Nam cũng vẫn là tình.
 Ngán cho duyên nợ ba sinh…

Cứ giọng như thế mà kéo, tôi cũng thử nối vần:

 Ngàn mây bến nước thấu tình nhau chăng?
 Tựa hiên vắng trông vừng giăng lạnh,
 Nỗi xa xôi hiu quạnh tấc lòng.
 Muốn đem mượn cánh chim hồng,
 Gửi ai muôn tiếng tơ đồng thiết tha.
 Yêu nhau thế chả thà ghen ghét,
 Thương nhau chi? Thêm chết cõi lòng,
 Than ôi! Non nước muôn trùng…”. 

 (Phong hóa, số 119, tháng 10-1934)

 

Trong phần viết về Lan Sơn trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài chân mở đầu: “Một buổi sáng kia, tình yêu đã đến với Lan Sơn và người học trò ấy bỗng thành thi sĩ”…

Đến Tập thơ đầu (1934) của Nguyễn Vỹ, Lê Ta phê phán mạnh mẽ lối thơ mà ông cho là ngớ ngẩn mà lải nhải: “Nhà thi sĩ Nguyễn Vỹ, tác giả Tập thơ đầu là một nhà có nhiều tài, tình cảm nhiều, mà lòng tự ái lại nhiều hơn. Cho nên khi ông ra mắt quốc dân, mắt đầy lệ, cây bút cầm tay, ông không muốn cho ai khinh ông cả. Ấy thế mà Nhất Linh lại bảo tập thơ đầu của người tên là đuôi kia không có ruột! Muốn khỏi mất lòng “thi sĩ”, tôi phải nói chữa hộ Nhất Linh: thơ ông Vỹ có ruột đó chứ, chả tin cứ giở cuốn sách của ông ra mà coi: chỉ tiếc cái ruột ấy đặc quá, mà khốn một nỗi là người ta lại không biết nó đựng những cái gì!... Về phần thơ chữ Pháp thì tôi thấy Nàng Thơ của ông là một chị chàng sướt mướt, ẻo lả, khóc khóc, mếu mếu, như con mẹ điên, mà lại nói ngọng nữa… Đến phần thơ ta, nàng Thơ ông Vỹ khi nói tiếng ta thì ngô nghê, ngớ ngẩn mà lải nhải nhiều lời (…). Cả một phần thơ Việt Nam của ông Vỹ đều một giọng như thế hết” (số 127, tháng 12-1934). Ba kỳ báo sau, Lê Ta lại tiếp tục công kích Nguyễn Vỹ: “Ông lại khéo nói nữa. Khéo nói lắm, khéo nói quá! Ông bênh vực ông một cách rất có duyên, mà ông phản đối ông lại chu đáo gấp đôi. Tập thơ đầu của ông là một tập thơ có khuynh hướng về cải cách, nhưng người làm Tập thơ đầu lại sợ cải cách, hay cải cách bằng lối riêng của ông. Ông bỏ cái gông cùm biền ngẫu với phép hạn chế phá, thừa, luận, kết của luật thơ Tàu, để mang cái gông cùm mới của luật thơ Tây… Thơ của ông Vỹ thiếu cái chi chi kia chứ “chân” thơ (pieds) thì đủ lắm (…). Soi đến kính hiển vi cũng không thấy thiếu một chân nào qua. Thơ ông quả thực không phải thơ què. Nhưng quả thực là ngô nghê” (số 130, tháng 12-1934)…

Bảy năm sau, Hoài Thanh - Hoài Chân mở đầu phần viết về Nguyễn Vỹ trong Thi nhân Việt Nam với những ý tưởng khá đồng điệu: “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì”… Xin lưu ý thêm: Cả hai bài thơ được trích tuyển vào Thi nhân Việt Nam sau đó là Sương rơi (Văn học tạp chí, 1935) và kiệt tác Gửi Trương Tửu (Phụ nữ?) đều không ở trong tập Anh và em.

Về tập Mơ màng của Đức Văn, Lê Ta tỏ rõ ý khinh miệt, coi thường: “Tác giả lại không quên chen vào đây thứ văn kêu mà rỗng là món sở thích của những nhà văn nói mà chẳng biết mình nói gì (…). Đó là thứ thơ không vần mà không cả ý tưởng. Mà thơ có vần cũng vậy. Không thể tìm đâu ra được thứ văn tầm thường và rỗng hơn (…). Bất kỳ chị vú nào cũng có thể ứng khẩu hát được những câu ru em như thế, hay hơn thế. Nhưng tác giả, ông Đức Văn tôi, làm được thế đã tốn công lắm rồi!... Ôi! Thơ với thẩn!” (số 128, tháng 12-1934)…

Về tập Tình em của Nhuệ Thủy, Lê Ta châm biếm và hài hước: “Không cần phải nhiều tuổi mới là người có tài, cho nên ông Nhuệ Thủy cũng có tài. Có cái thứ biệt tài là thơ ông viết bằng những câu văn và ý tưởng người khác (…). Kỳ quặc và ngây ngô, tác giả lấy thứ giọng rất thiết tha, rất não nùng mà gọi tình là chúa:

  Chúa tình em hỡi! Chúa tình ơi!
 Em hãy cho ta một nụ cười…

 Chẳng biết chúa tình nghe ông Nhuệ Thủy gọi có trả lời không nhưng tôi chắc là chúa tình phải ngẩn mặt ra không hiểu gì cả. Vậy giá đổi hai câu ấy ra thế này, có lẽ thú vị hơn:

 Chúa tầu ơi hỡi! Chúa tầu ơi!
 Ông hãy cho ta mấy tiếng còi.

Chúa tầu nghe còi hay nghe kèn thì cũng thế!” (số 128, tháng 12-1934)…

Với tập Yêu đương (1933) của Huy Thông, Lê Ta đi đến lời kết khá đúng mức: “Tôi đọc Yêu đương trong một nơi tĩnh mịch, bên những người bạn làm việc ở gần mình… Họ thấy tôi là một người kỳ dị nhất trên đời, đang thích chí vui cười bỗng sinh ra bực tức, rồi một lúc thấy vui cười, nhưng rồi lại thấy bực tức nữa. Đó là lỗi của ông Huy Thông. Sao ông chẳng làm thơ dở từ đầu đến cuối để tôi vứt ngay sách ông đi có được không. Ông lại lỡm tôi, len vào đó những cái hay làm tôi không nỡ bỏ” (số 132, tháng 1-1935)…

Khi điểm tập thơ Dưới trăng của tác giả Thao Thao, Lê Ta mát mẻ châm biếm, giễu nhại và đưa ra bằng chứng cụ thể:

 Dưới trăng là một cuốn thơ của Thao Thao.
 Thao Thao thì phải bất tuyệt chứ.

Nhưng không. Đây chỉ thao thao được có mười sáu trang giấy nhỏ thôi. Thực đáng phàn nàn, vì đó không phải là một cuốn thơ dở (…).

 … Nhớ lại hồi đứng trên bờ biển ở Sầm Sơn, thấy người yêu buồn mà ví công vô ích của dã tràng xe cát với cuộc xây đắp đài ái tình, ông khuyên rằng:

 Thôi! Em nói làm chi cho thêm khổ
 Lòng anh đang muốn say đắm, yêu đương
 Em xe chi với duyên kiếp dã tràng.

Cả đến những lời yên ủi cũng thấy chan chứa nỗi âu sầu. Chẳng biết người yêu nghe ông dỗ có nín đi không? Tôi, tôi thì tôi chắc cô ta khóc lại to hơn trước.

Cái buồn đắm đuối, đó là đặc tính của thơ ông Thao Thao, nên câu thơ nào cũng lả lướt, cũng mơ màng, cũng âm u như bóng mây, cũng đằm thắm như ánh sương mờ dưới ánh trăng. Nàng thơ của ông quả là hay sụt sùi đáng thương, nhưng giá khóc in ít thôi, thì ta còn thấy cái thú nâng khăn hồng lau nước mắt cho ai, chứ lúc nào cũng mê, cũng sụt sịt thì có lẽ đến ông Thao Thao rồi cũng phải phát cáu.

Khi Thao Thao muốn tả những tính tình cao siêu, ta cũng thấy ông cũng có nhiều ý tưởng hay, như trong bài ví người thi sĩ như thân cò bay trên không; hoặc trong bài Em là, tả cái tâm hồn nước mây rộng rãi:

 Em là người say sưa tình lãng mạn,/
Bờ biển khuya em gọi bóng trăng trong.
 Gió lả lơi như thức giấc mơ mòng,
 Em đứng lặng nhìn lênh đênh mặt sóng…
 Em bâng khuâng những lời ca tụng
 Tài sắc em, và mong mỏi em yêu.

Song những ý hay đó thường ẩn khuất trong làn khói mù của những câu quá mơ hồ, tối tăm và hơi ngẩn nhơ một chút:

 … Mà giếc, rô lươn lờ ở chen chúc
 Mà thời gian hầu đã “xóa nhòa đi” (?)…
 … Nuốt tanh hôi số phận, ôi! Lâm li (?)
 Chủ nhà xưa, tôi buồn nghĩ lâm li (?)

Đọc những câu ấy, người ta ngờ rằng thi sĩ tuy viết nó ra, mà trong lòng không có một chút tình cảm “lâm li” nào hết.

Sau những bài thơ bằng văn vần, là những bài văn xuôi mà tác giả muốn gọi là “thơ tản văn” cho sang trọng. Thực ra, trừ bài Hận bên giếng, tả nỗi tình thương yêu vơ vẩn và vô hy vọng của tác giả với người thiếu nữ kéo nước dưới trăng, tôi không thể ưa được những bài khác. Vì đó chỉ là những cảm giác, những tình cảnh ghi chép vội vàng, văn rời rạc, ý rời rạc, không để cho người đọc thấy qua một hứng vị nào.

Tác giả muốn mở đường cho một thể tản văn mới lạ, có điệu như thơ và có lời gọn gàng kín đáo, hoa mỹ như thơ. Ý kiến hay, nhưng chưa đạt được” (Phong hóa, số 136, ra ngày 15-2-1935).

Với tập Tiếng thông reo của B. Blan (Bàng Bá Lân) - mới hay cái lối nghịch thơ, “thả lá thơ chơi”, ghép vần, vờn âm điệu, vặt râu dấu chữ quả đã xưa xửa xừa xưa, - Lê Ta bỡn:

 “B. Blan? Tên chi lạ dữ vậy?

 B. Blan là tên một người làm thơ Việt Nam bằng giọng Tây. Cho nên Tây ở cái tên và Tây ở cả những chữ đề đầu các bài thơ quốc ngữ.

Trên đường rấn bước, ông đề là: Tren duong ran buoc (…). Nhưng khó đoán nhất là hai câu đề: vuon cu nao dau, co hai dauRau mat. Vuon cu nao dau, co hai dau có lẽ là Vươn củ nào đâu, cô hai đầu, không thì ít ra cũng là Vườn củ nào đâu, cô hai đâu? Còn Rua mat thì đích thị là Rủa mát.

Nói vậy mà chơi đó thôi! Tôi muốn tìm một cớ để bỡn cợt riêng ông Bê Bờ - Lăng chút ít, chứ lối đầu đề khôi hài trên này đáng trách thì tôi đã trách cả những chữ Bo Biên, Em la, Tho o, Gio giang vui, Tinh chan that, Noi dau long… của những cuốn Tình emDưới trăng kia rồi. “Bo Biên” tôi sẽ chế là Bò Biển, “Tho o” là Thò o, “Gio giang vui” là Giở giang vui, mà “Noi dau long” thì tôi gọi là Nồi đậu lỏng…

Nhưng nếu lại không nói lôi thôi thế, thì tôi còn biết nói chi về cuốn Tiếng thông reo được nữa. Chả nhẽ chỉ phê có độc một chữ “soàng”? Mà cái soàng, thì không phải là cái hay để mà ca tụng, cũng không phải là cái dở để mà bực mình” (số 137, tháng 2-1935)…

Cho đến tập Thú văn thơ của Xuân Thiện, Lê Ta bình phẩm: “Mà quả thế. Càng ngâm càng thấy quặn đau thực. Ông quặn đau vì thất tình, mà chúng tôi quặn đau vì buồn cười quá! Ông thực có cái thiên tài làm thơ ngớ ngẩn, có dư sức để địch được với tác giả cuốn Mơ màng mà tôi đã nói đến hôm xưa (…). Những thứ “văn thơ” như ở trong sách của ông, ai ai kia thì mắt trước mắt sau giấu diếm nó vào một nơi, nhưng ông thì lại đem in cho đời xem, cho đời biết đến tên ông và biết rằng cái dở mà ai ai cũng chê cũng khinh, thì ông lại yêu lại quý” (số 139, tháng 3-1935)…

Những dẫn chứng trên cho thấy ngay buổi thịnh thời Thơ mới cũng mọc xen vào biết bao những thứ cây hoang cỏ lạ, hoa ké găng gai. Trong sự “loạn thơ” ấy, Lê Ta - Thế Lữ trên vị thế một chủ tướng phong trào Thơ mới đã trung thực, thẳng thắn lên tiếng trước những lối thơ a dua, theo đuôi, nông cạn, dễ dãi, sáo ngôn, sính chữ và thử nghiệm tầm phào. Trải qua sự sàng lọc của dư luận và thời gian, biết bao những trang thơ giữa thời Thơ mới đã khuất chìm vào dĩ vãng, chỉ còn lại những gì thơ thật là thơ…

Nguồn: Tạp chí Thế giới mới, số 419, ra ngày 01- 01-2001.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Mười 20231:55 CH(Xem: 1026)
Tất cả kéo tôi trở lại là mình với những cảm xúc dịu dàng. Ở đó tôi gặp Nhà Thơ Trịnh Y Thư.
19 Tháng Mười 20231:35 CH(Xem: 1419)
Nhiều ngôi chùa trong thành phố gióng chuông tiễn biệt vị phật tử khác thường.
19 Tháng Mười 20236:20 SA(Xem: 1013)
Đọc thơ Tuệ Sỹ, tôi thường ngẫm ngợi tại sao thơ ông thường nhắc đến ngày hội lớn, cung trời hội cũ?
16 Tháng Mười 202310:53 SA(Xem: 903)
Dường như càng khổ đau, ưu phiền, Cung Trầm Tưởng càng đến gần hơn với tư tưởng, triết lý Phật giáo.
08 Tháng Mười 20235:13 CH(Xem: 1272)
Một bài thơ hay là một đoá hoa ngào ngạt hương. Hương rộng hơn hoa. Và hương bay thì hoa tưởng hoa bay (Xuân Diệu)
18 Tháng Chín 202310:03 SA(Xem: 1361)
“Đời tôi có một nguyên tắc: không bao giờ dùng văn chương để làm bất cứ điều gì xấu xa..."
08 Tháng Chín 20236:10 CH(Xem: 1513)
Khi bị đuổi ra khỏi ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, trụ sở của tạp chí “Văn nghệ quân đội” bây giờ, Phùng Quán đến ngồi bên một gốc cây ở đường Phùng Hưng hai tiếng đồng hồ.
04 Tháng Chín 20239:35 SA(Xem: 2031)
Và tôi tin rằng, khi Thiền sư Thi sĩ Phạm Công Thiện từ trần, chắc chắn sẽ có rất nhiều người gọi anh là Bồ tát, một danh hiệu rất mực tôn kính trong nhà Phật, chỉ đứng sau danh hiệu Đức Phật.
29 Tháng Tám 20238:06 SA(Xem: 1357)
Xin phép, tôi được gọi đây là một “Vụ án”, và mong được đồng ý rằng, “Đúng là vụ án văn chương”.
22 Tháng Tám 20236:25 CH(Xem: 1100)
Cái phép tìm về lịch sử dân tộc bằng đầu lưỡi, ai bảo nó không thấm thía bằng những phép khác?
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17070)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12277)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19001)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9184)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8361)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 623)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 995)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1186)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22481)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14021)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19190)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7905)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8823)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8504)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11073)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30724)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20821)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25519)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22916)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21740)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19799)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18061)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19261)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16927)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16119)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24515)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31963)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34938)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,