Mục "Phê bình, biên khảo, phỏng vấn" do Lê Hoàng Tuấn Kiệt phụ trách.
1.
Sự thật không bao giờ là sự thật khách quan. Nhớ lấy những kinh nghiệm thường ngày: Cùng một điều việc kẻ này nói, làm được, kẻ khác là thấy chói tai chướng mắt. Chỉ có sự giả trá hư ngụy mới đội lốt khách quan, sự thật xuất hiện từ con người và xác minh làm kẻ khác chấp nhận là của người đã dám phát hiện ra nó. Và trong sự mong manh yếu hèn của kiếp người, nhiều kẻ đã phải mang tự do tối hậu duy nhất của một đời là cái chết để bảo đảm cho sự thật của đời mình được thành sự thật với những người khác.
Thơ là tiếng thổn thức của con tim, đó là một sự thật tôi tìm thấy lại qua Trần Lê Nguyễn. Suốt tập thơ, Nguyễn chỉ nói về mình, nói rất nhiều về mình, nói quá nhiều về mình bằng thứ ngôn ngữ xô bồ, đôi lúc rối loạn, lảm nhảm, buồn cười. Và con tim Nguyễn phơi bày nguyên hình dáng, một khối thịt bầy nhầy bóp vào nở ra bất tận. Đó là hình ảnh của đời sống.
Tiếng nói một người hay tiếng nói một đời, một kiếp?
2.
Trước hết thơ là một nỗ lực tinh khiết hóa thực tại. Các nhà thơ cổ điển đã làm công việc này. Bọn lãng mạn lầm tinh khiết hoá thực tại với ruồng bỏ thực tại, dùng nước mắt, tiếng rên la, sự xúc cảm nhầy nhụa làm vẩn đục thực tại, rồi trốn chạy vào ảo tưởng. Thơ ngày nay cũng là một nỗ lực tinh khiết hoá thực tại từ khởi điểm làm hiện hình nó, cái hình dáng thô sơ đã bị bọn lãng mạn mài nhẵn bằng nước mắt nước mũi.
Thơ Nguyễn là cái ánh sáng lộ liễu khô khan chiếu vào thực tại, sự vật nổi lên còn đủ những góc cạnh sần sùi.
Mỗi lần tôi mượn tiền bạn bè là mấy thằng chó chết chưa hề có con cười hô hố bảo là tôi lại sắp phịa chuyện đến nhà thương thăm con mới đẻ.
Nếu anh hiểu được rằng người ta vẫn có thể mộng tỉnh thức chẳng cần phải tìm tới giấc ngủ hôn mê, anh sẽ nhận ra Nguyễn đang làm thơ.
Đêm cưới em, anh sẽ không ghé câu lạc bộ mà vào Snack Bar uống rượu thật say (dĩ nhiên bằng tiền đánh bạc chứ không phải tiền viết văn) rồi không ghé đăng-xinh (dù biết rằng sắp bị đóng cửa) mà đi ngược về đường Duy Tân (một nhà vua cách mạng) hay dọc theo đại lộ Hai Bà Trưng (hai nữ anh hùng dân tộc) tìm gặp một “me” lính Pháp ra đi còn để lại.
Để suy ngẫm về cõi đời
và mừng em lấy chồng Mỹ
Cái thế giới của Nguyễn là thực tế hằng ngày chúng ta đang sống, quay cuồng, hỗn độn, đầy khát vọng. Tại sao cứ đòi hư vô để mơ mộng? Hãy thử mơ mộng như Nguyễn xem sẽ thấy sự kỳ lạ của thế giới ấy.
Và thơ là gì? Nếu không phải là sự khám phá mầu nhiệm bằng ngôn ngữ một thế giới vẫn trốn mặt ở quanh. Sự phơi mở ở thơ cho anh cảm giác tràn đầy hạnh phúc, tâm hồn đã nhập được một phần của sự sống bí ẩn còn thiếu sót. Những phút xâu dài như một đời.
3.
Tiếng nói một người là tiếng nói của tình yêu, tình bằng hữu. Trong cô đơn và đêm tối.
4.
Người sắp nói là một người bốn mươi tuổi. Người ta thường làm thơ vào những năm hai mươi. Vào tuổi ấy Nguyễn chỉ còn muốn viết tiểu thuyết, viết kịch. Hắn chỉ thấy cần làm thơ trong vài năm gần đây.
Việc làm thơ của Nguyễn chứng nhận lời tiên tri của Lautréamont: Thơ không phải để một người làm mà để mọi người làm. Thơ là sự giải phóng, sự tự do, là quyền của mọi người, không bao giờ là đặc quyền của một bọn thi sĩ đầu bù tóc rối trí tưởng tượng như con gián bay quanh đèn, sự cảm xúc như tiếng động của thùng thiếc.
5.
Thơ Nguyễn kể lể ồn ào nhưng vẫn nghe đâu sự nín lặng trong cùng.
Hạt nhân nín lặng, khép kín làm mỗi bài thơ tự đầy đủ, phân biệt thơ Nguyễn với thơ Prévert. Hai bên chỉ giống nhau ở điểm tưởng tượng, mơ mộng cùng thực tại. Còn Prévert đòi hỏi những đối tượng ở ngoài để phóng tới.
6.
Một người sống đến bốn mươi tuổi không làm thơ để mong thành thi sĩ. Thi sĩ! Thi sĩ! Thằng người đó đã tự sát. Tên của chàng bị cướp bị bôi nhọ. Ngày nay còn toàn một bọn nhái giọng người chết. Mấy tên thư lại luồn cúi nịnh hót cũng là thi sĩ. Mấy tên cán bộ làm thơ như những bản thỉnh nguyện xin tha mạng sống, xin thêm quyền lợi. Mấy tên thanh niên hiến thân làm tấm gối ôm trong khuê phòng.
Nếu anh đọc thơ Nguyễn, anh nghĩ Nguyễn không phải là thi sĩ, anh nghĩ đúng. Nhưng coi chừng, anh đã bị đầu độc bởi bọn giả danh. Tôi nhắc lại: Thi sĩ đã tự sát. Và anh cũng như Nguyễn cũng như tôi được thừa hưởng cái gia sản của chàng cùng với mọi người, trừ bọn tự nhận là con cháu chàng. Chúng ta phải cướp lại tiếng nói sắp muốn tắt; mỗi người đều được quyền làm thơ như Nguyễn, như làm một hành động giải phóng. Đừng để bọn người nào độc chiếm thơ làm phương tiện áp bức.
Một ngày thi sĩ sẽ hồi sinh. Chưa phải bây giờ. Nhưng hãy thổi những hơi thở mới vào mũi chàng, đuổi bớt những uế khí, ám khí, tử khí, đang ướp quanh chàng.
7.
Tiếng nói của Nguyễn chỉ là tiếng nói một người. Một người hèn mọn như loài run dế.
Nhưng Nguyễn, như anh, biết rằng một người không có nghĩa là một. Nói một người là nói tới số đông. Mai kia hắn chết đi, cái chết bất cứ trường hợp nào cũng chỉ là sự lịm tắt của một khát vọng, là chết theo người yêu một đời của hắn, những bạn bè gần gũi, những mộng ước đau đớn, tuyệt vọng, nghĩa là một phần thế giới.
Đọc mà xem, anh sẽ thấy hắn phải nói trong cô đơn để được gần anh.
8.
Mỗi bài thơ của Nguyễn là một nỗi đầy cô đơn. Nếu tôi nói hắn sống rất vui trong cô đơn, anh sẽ cười tôi. Bởi anh đã khổ vì cô đơn.
Thực ra tôi phải nói là hắn bằng lòng trong cô đơn, vì nơi đó hắn được sống với anh, trong cái thế giới lạnh lẽo đáng sợ, hắn được chia sẻ với nhiều người, những người không được gặp nhau. Như hắn và người yêu của hắn:
Anh đã yêu cùng cực
đến không còn em
............................................
Anh ôm thật chặt khoảng trống căn nhà hoang
như thấy em cả đời trọn vẹn
nửa đêm nào thức giấc
Như hắn và một người bạn nào:
Và những đêm nhìn trăng sao
dưới mái hiên nhà dây thép tôi nói với anh
về trời đất về ước vọng hai đứa mình ở đời.
9.
Đây là tiếng nói của một người nối kết những cô đơn.
10.
Nửa đêm những người yêu nhau nhảy slow
Kẻ hút “píp” đi một mình bờ đại lộ
vì không ai yêu mình
hay mình không yêu ai
ngậm tẩu như hôn người đàn bà một đời
Không phải, Nguyễn yêu nhiều người quá và nghĩ nhiều người đang yêu hắn.
11.
… hắn thầm thì, hổn hển, khó nhọc soi sáng những sự thật thầm kín ấy, những sự thật người ta chỉ có thể diễn tả nổi với cố gắng vô biên – những sự thật hết sức tối tăm, hết sức gian nan – nhưng chính với những sự thật ấy, thế giới phải thay đổi toàn diện, một lần cho xong. (Virginia Woolf)
12.
Một sự thật nữa, hắn đã sống.
Rất có thể ở ngoài đời hắn đã sống giả như chúng ta vậy. Lý do giản dị: cái giả hiện ra trong sự vận động mải miết của sự vật vượt qua mình, hôm nay từ chối hôm qua, và mình vẫn thích ứng tồn tại như không hề có gì xảy ra, tấn thảm kịch biến thành hài kịch. Chúng ta nhìn nhận mọi cảnh ngộ bằng cặp mắt chấp nhận tự nhiên, nỗi bất bình chìm sâu ở đáy thân bị nghiến nát không còn. Khi Nguyễn làm thơ (và nếu anh cũng làm thơ) Nguyễn phát hiện sự sống thực.
Và khi đã sống thực người ta sẽ không hài lòng một chút nào trước cảnh ngộ.
13.
Phương,
Tập thơ này Nguyễn viết cho em. Em là người yêu của hắn.
Bài mở này anh viết hộ em. Anh viết những điều em biết về hắn nhưng không thể diễn được thành lời. Và em sợ nên em xa hắn.
Thôi cũng xong. Để cho hắn làm thơ.
13 và 14 tháng 8 năm 1962
Thanh Tâm Tuyền
________
* Phụ lục (thơ Trần Lê Nguyễn)
Ám ảnh
Tôi làm bài thơ giản dị
đến không còn thơ
để gửi anh nhớ ngày gặp gỡ
Trận đói bốn mươi lăm
đồng quê hết gạo chạy về thành phố
Từng đoàn rũ trên đường
chết không kịp chôn
đổ chung một hố
Đàn quạ đen tím cả hoàng hôn
Chị cướp cơm em
Mẹ bịt mũi con cho hết bú
Những chiếc xe bò người kéo đầy thây
bao chiều cửa ô lớp lớp đợi đây
Tôi làm bài thơ bầm vết máu
những người Nhật trói đầy nắng tháng năm
Tôi đi cùng anh
buổi chiều vĩ đại
Hà Nội băm sáu phố phường
tung năm cửa ô
Cách mạng mùa thu Tháng Tám
Đêm kịch nhà hát lớn
tôi đọc thơ cho anh bẻ song tù
sáng mai về quê thấy không còn bố
- Thầy tôi ai bắt.
- Cách mạng cần có trại giam
Giọng anh lạnh
Mặt anh đanh
Tôi lặng người cay đắng
Nước sông Hồng thôi đỏ phù sa
nước sông Hồng màu đỏ chiến khu Phú Thọ
anh không dùng đạn
lưỡi lê
trôi sông
Máu anh Việt Quốc hòa nước sông Hồng
Tôi thôi làm kịch
son hậu trường như máu tanh tanh
tôi đi giết giặc để quên thấy anh
Tôi vào Quảng Ngãi nghe tiếng mõ khuya
thấy rợn hồn trẻ thơ chết chưa kịp đẻ
Diệt mầm phản động mai sau
mã tấu
anh chém cả con lẫn mẹ
Sóng gào bãi biển Tam Quang
dừa xanh hoang tàn thánh thất
một xóm Cao Đài cùng khóc
cha
chồng
anh
con
chết một ngày
một giờ
anh chôn sống chung một hố
Ba lô tháng năm kháng chiến
tôi đi trên những nẻo cùng
lạc loài làm tên phi đảng
mấy lần biên giới qua sông
Tôi vô tới mũi Cà Mau
nghe các anh dân chủ
thời Nguyễn Bình
xác nhận lòng kinh
nghe các anh Đệ tứ
xương bóng rừng cao su mông mênh
Tôi muốn viết cho anh
bài thơ không bằng chữ máu
tôi muốn viết cho anh
bằng những tâm tình
tôi muốn viết cho anh
như thuở ban đầu chiến đấu
Tôi tìm lại về sân khấu
có đêm khi bức màn buông
tiếng gõ ba hồi xuống ván
nghe như vồ đập áo quan.
1957
Khi yêu em
Tôi bán quê hương lúc con một nửa
Người đàn bà Việt Nam đuổi tôi khỏi tròng mắt đen
của đôi mắt bồ câu
đôi mắt dao cau
Đục màu hạt dẻ
hay xanh chân trời xa
là đôi mắt xứ người chân tình nên phản bội
tôi gặp Berlin
Paris ở thủ đô tôi
thủ đô thiếu một hồ gươm lịch sử
một thư viện trên đường Trường Thi
Như em không quê hương
lấy kinh thành người làm kinh thành mình
ra đời ở Trung Âu
cư ngụ bên hồ Leman trời Thụy Sĩ
Tôi đọc người “Nga-La-Tư”
thấy nàng thiếu nữ
khi chết cho chiến thắng
hôn anh chiến hữu gửi lại người yêu
Và người nữ chiến sĩ “Thông Hành Giả”
không nhận thư tình
bàn tay run run mở tung nút áo
Vết sẹo hành hình in ngực
- bàn tay kéo cao cổ áo đi mưa anh đồng chí một đêm sương mù
Thần tượng ấy giết người yêu bé nhỏ
đau bệnh lao quê tôi ở miền Bắc
Lá thư cuối cùng một hồn người
tôi không được đọc chỉ nghe kể lại
ngày cách mạng thành công
Cách mạng đưa con người tới đâu
chỉ biết anh gặp em không hề chờ đợi
Anh nghe nàng tiên hát bài hát tiếng Nga
có tuyết có gác chuông
buồn chia cách khi vừa gặp gỡ
Anh yêu gió tung mái tóc
để tay anh lùa trong tóc em
Anh thù bóng đêm che sâu màu mắt
chỉ thấy hư ảo một màu nhớ nhung
Hư ảo như tay em trong tay anh
như tình chúng ta
của thời đại không còn được yêu được chết
của thời đại chỉ gặp nhau xa nhau
Nên em chỉ cho anh một nửa bàn tay
Nên anh không dám hôn môi em
như sợ truyền nhiễm bệnh lao
dù anh chưa hề hôn một lần
người yêu chờ chết bệnh lao miền Bắc
Anh cảm ơn sự tàn bạo cho chúng ta gặp nhau
Anh cảm ơn em cho anh sống lại tuổi hai mươi
có một lần trong đời
anh quên sống chạy theo cách mạng
đi bắt bóng những dáng hình
bỏ quên người yêu chết mười sáu tuổi
không một cành hoa trắng cắm lên mồ
Những trận mưa bom đồng minh trên quê hương anh
Những tờ truyền đơn rơi trên lòng đồng bào anh câm nín
Em cho anh sống những gì anh chưa sống
không thể thiếu trong một đời người
Anh không muốn nghĩ đấy là lý tưởng em đang đi tìm
dù có một ngày nào nở hoa
Anh sống với hình ảnh em
Nhìn nghiêng lạnh và buồn như tượng
Với giọng em hát nhỏ khi không đành nói lên lời
Với căn phòng lữ quán cô đơn
Với chiếc ban-công từng lầu ba dưới bóng me cổ thụ phố Sài Gòn
giống như dưới bóng cây hạt dẻ thành Prague
chiếc ban-công em gục xuống tay một mặt phút không đành khóc
Và tiếng cửa cầu thang máy đóng lại gần sáng một đêm nào
Em buồn ra riết trước ngày em đi
và bảo anh nói quá một lần sự thật
Em trách anh đến với em quá mau
Anh biết làm sao
khi không thể níu thời gian ngừng lại
Vì anh gặp em như tự bao giờ
qua năm tháng dài đấu tranh
người nữ cán bộ cô đơn cười vui chiến đấu
Vì em đến và em đi
Anh muốn Việt Nam đón em với tất cả ân tình
Người ta không sống cùng tài liệu mà bằng kỷ niệm
Em đi chấm cuối hàng người trên sân bay
Bao-lơn phi cảng một mình anh đứng lặng
Hai đứa cùng giơ tay –
Bàn tay giơ lần thứ nhất – lần đầu tiên – ở cửa lữ quán Sài Gòn
Bàn tay dơ lần thứ hai – lần cuối cùng – ở trường bay Tân Sơn Nhất
Áo em hồng đẹp nhất
Mắt em buồn đẹp nhất những người ra đi
Con chim hiếm bay
Buổi sáng không vui như chiều đã đến
Em hiện ở góc trời nào
không một chữ
không một tấm hình bưu thiếp
Tôi không muốn nghĩ
em đi tìm lãnh tụ đã dẵm lên hoa cỏ bên đường
Tôi muốn nghĩ
em sẽ là người đàn bà hiền hậu
có chồng có con
một đứa con gái hai đứa con trai
như em hằng mơ ước
Tôi đào ngũ khỏi lòng dân tộc một ngày nào đây
Biết rồi sẽ nhớ đôi mắt bồ câu
đôi mắt dao cau
Tôi gói hình ảnh người đàn bà Việt Nam làm hành lý lên đường
Tôi sẽ không bao giờ tìm em
như bây giờ không viết một dòng thư
chỉ làm bài thơ giấy giáp
Hai đứa yêu nhau rất nhiều để không quên nhau
để thôi nhớ làm lịch sử
Có con bướm trắng vừa đậu trên tóc em
Có bông hoa trắng mới nở trem mồ người yêu chết mười sáu tuổi
Có cách mạng nào thành công
Có tình yêu nào tan vỡ
7-1959
Sài Gòn mưa
Đế giày tôi lủng hai bên
Những chiều Sài Gòn mùa mưa như chiều nay
tôi đi bằng gót qua nhiều lề đường đọng nước
Đĩa nhạc quay tròn quay tròn
âm thanh nổi
Tờ báo buổi chiều loan tin chiến sự xứ Lào
Mưa lại rơi
như tháng bảy mưa rơi ngoài Bắc
Hà Nội không còn
Sáng qua tôi gặp cô gái Hàng Ngang
Ngoài kia đâu còn Hà Nội
Có những người chết đi
mất xác bên cầu Kiệu
con đường hành quân thuở trước vắt qua Dốc Mỏ
gặp mộ người nữ cứu thương
“Thái-mortier” Tây bắn ở Tuy Hòa chết không hay đâu còn Hà Nội
Tôi trú mưa đầu phố
Giày tôi vào nước từ lâu
Gió tạt quán rượu góc đường Charner thuở trước
Ly rượu anh thủy thủ trên đất liền
Người đàn bà Pháp chờ Taxi cô độc
Không là đây Paris
Sao tin chiến sự Vientiane làm nhớ thương Hà Nội
Sao Hà Nội nhắc những người chết đi
Tôi đi nhận lá thư không đến chiều nay
sao lại gặp Sài Gòn mưa như tháng bảy trời mưa xứ Bắc