Con đường xanh ngát bóng núi về Mai Châu tỉnh Hòa Bình bây giờ, khi dừng chân bên tấm bia ghi tạc chiến tích của đoàn quân Tây Tiến năm xưa, bất cứ ai cũng đều có thể cảm khái ngâm nga vọng vang cùng gió núi bài thơ của thi sĩ Quang Dũng: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời/ Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi/ Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi/… Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc đồng hành"! Đấy là những câu thơ được trích từ bài thơ “Tây Tiến” của Thi sĩ Quang Dũng đã được khắc vào mặt sau tấm bia chiến tích.
Lịch sử thơ ca qua các cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc, xưa nay chưa từng có bài thơ nào được vinh danh như thế bao giờ. Độc đáo hơn nữa, có thể nói đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử văn học Việt Nam, ấy là bài thơ “Tây Tiến” còn tỏa sáng trong ngày sinh nhật của mình. Kỷ niệm 60 năm ngày bài thơ Tây Tiến được sinh khai ra đời, những cựu binh Trung đoàn 52 Tây Tiến - đồng đội của thi sĩ Quang Dũng năm xưa, bây giờ ai cũng đã bạc phơ mái tóc, ngồi quây quần lại với nhau bổi hổi bồi hồi ngâm nga vang vọng một thời đẹp như huyền thoại: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ/ Khèn lên man điệu nàng e ấp/ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Thông thường chỉ thấy con người ta làm sinh nhật cho mình, hoặc là kỷ niệm sinh nhật một đơn vị, một cơ quan, một tổ chức cho đến cả một đất nước, nhưng sinh nhật một bài thơ thì đúng là chỉ thấy xuất hiện ở những cựu binh Tây Tiến. Cũng chẳng phải là cuộc vui bất ngờ tụ năm, tụ ba trong đêm nào đó bên ánh lửa bập bùng, để rồi theo cái kiểu ngẫu hứng sáo đàn văn nghệ mà nhảy múa ca hát, ngâm nga cho thỏa nỗi niềm thương nhớ dâng trào, mà đúng là có một cuộc hội tưng bừng kỷ niệm ngày bài thơ “Tây Tiến” tròn sáu mươi tuổi được tổ chức trong một hội trường lớn tại một trường đại học ở Hà Nội đường bệ hẳn hoi.
Sức sống một bài thơ mãnh liệt và lộng lẫy đến nhường ấy, có thể nói, đấy không chỉ là một biểu tượng đẹp hào hùng của đoàn quân Tây Tiến, mà còn là di sản văn hóa, di sản văn học trong mảng đề tài viết về các cuộc trường chinh hùng vĩ của dân tộc.
Những câu chuyện đẹp một cách huyền thoại như vậy tôi đã được nghe chị Bùi Phương Thảo - con gái út của nhà thơ Quang Dũng, trong những lần gặp nhau, Bùi Phương Thảo đã kể lại. Cho đến một ngày tôi nhận được tập sách “Tây Tiến một thời và mãi mãi”, cũng do chính chị Bùi Phương Thảo mang từ Hà Nội vào tặng. Sách dày ngót gần năm trăm trang in, gồm những ghi chép, hồi ức và hình ảnh của các cựu binh Tây Tiến. Gần như một nửa dung lượng của sách là những bài viết về nhà thơ Quang Dũng và bình giá bài thơ “Tây Tiến”.
Có một chuyện văn chương thú vị như thế này được đặt ra trong nội dung của sách. Vâng, câu chuyện mang chủ đề: “Hỏi chuyện thơ trước giao thừa thế kỷ” do nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình thực hiện. Chủ đề cũng do chính nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình đưa ra, nguyên văn như sau: “Nếu chỉ được chọn 5 bài thơ hay nhất về các cuộc chiến tranh đã qua để mang theo bước vào thế kỷ mới ( tức là từ thế kỷ 20 sang thế kỷ 21), thì anh sẽ chọn những bài thơ nào? Của ai?”. Và nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình đã mang câu hỏi đó đi gõ cửa các nhà thơ, nhà phê bình văn học tầm cỡ đầy đủ uy tín theo cách chọn lựa của ông. Trong 8 cái địa chỉ Ngô Vĩnh Bình tin cậy chọn lựa ra, thì kết quả có đến 6 người cùng chọn bài thơ “Tây Tiến". Còn lại hai người, một người nêu vì lý do thời gian chưa đủ để chọn ra bài nào, có nghĩa là bỏ phiểu trắng, một người còn lại thì chọn ra những bài thơ khác (Tây Tiến một thời và mãi mãi. Tr362). Sở dĩ tôi trích hơi dông dài bài viết trên là vì cũng muốn chứng minh sức sống một bài thơ, mà nói như người ta thường nói là “đãi cát tìm vàng”. Và thực sự giá trị bài thơ Tây Tiến đã vượt lên tất cả, lấp lánh bao huyền thoại. Thẩm giá thơ ấy khẳng định vị thế của nó có đầy đủ sức vóc vượt qua mọi ghềnh thác dâu bể thời gian.
Cũng như nhiều đơn vị đoàn quân xung trận khác được thành lập vào những tháng năm kháng chiến chống Pháp năm xưa (kể từ sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946), Trung đoàn Tây Tiến được khai sinh ra đời tại Mai Châu tỉnh Hòa Bình. Đa số cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị là những thanh niên, công chức, học sinh người Hà Nội. Nhà thơ Quang Dũng có mặt trong đoàn quân ấy, và bài thơ “Tây Tiến” được ông viết tại làng Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948.
Một mặt nó vừa làm nên tên tuổi nhà thơ Quang Dũng đẹp rực rỡ trên văn đàn, mặt khác là bao tai vạ cũng chừng như muốn đốn ngã nhà thơ từ những thứ lý do ám muội, kiểu như mặc chiếc áo nàng “Kiều thơm” vừa lung linh đẹp vừa ẩn chứa những thứ bất trắc khôn lường. Nói như Giáo sư Phong Lê: “…hình như (bài thơ) làm hại ông suốt một thời gian dài, cho đến năm ông nằm liệt trên giường bệnh, trước lúc ông qua đời…nó mới được đưa vào tập Mây đầu ô, có nghĩa là phải đến lúc này, Tây Tiến mới được nguyên vẹn trở về với người đã sinh ra nó để nhận lại vị trí của đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện, không chỉ của ông mà còn là của cả nền thơ kháng chiến, ở vị trí mở đầu, ít có bài thơ nào thay thế được” (Sđd. Tr312). Vâng, đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện đó không chỉ trở về với người đã sinh thành ra nó, mà còn trở về lung linh tỏa sáng trong những trang sách văn học cho các em ngày ngày đến trường lớp, trở về trong những đêm thơ gặp mặt nhau của những chiến binh Tây Tiến kiêu bạc một thời: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi/ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi…!
Tôi lại chợt liên tưởng đến bao nhiêu tuổi tên phiên hiệu đơn vị cùng thời với Tây Tiến, suốt một thời lên ghềnh xuống thác xông pha trận mạc gian nan chiến đấu trên khắp các chiến trường. Những năm tháng dằng dặc gian lao bệnh tật đói no và vào sinh ra tử từng ngày ấy, bất cứ nơi đâu trái tim thanh xuân cũng cháy lên “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Từ Tây Bắc núi cao vực thẳm đến xuyên suốt Trường Sơn, từ đồng chua nước mặn đất cày lên sỏi đá đến bưng biền sình lầy Nam bộ, nơi nào chẳng gian khổ hi sinh, chẳng” một tấc giang sơn một dòng máu đỏ”. Chỉ riêng vùng núi non Tây Bắc thời đó, cùng hành quân ra trận với Tây Tiến “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” còn biết bao phiên hiệu đơn vị, những sông Đà, sông Lô, Sơn La, Bình Ca…
Thế nhưng đất nước, hay là vuông vắn lại chỉ một quê hương xứ Đoài mây trắng chập chùng phiêu bồng lãng mạn kia, đất đai kết tụ tinh anh thế nào lại chỉ sinh ra mỗi ngọn thi sơn Quang Dũng. Và rồi cũng chỉ mỗi anh vệ quốc – thi sĩ Quang Dũng hào hoa ấy góp mặt vào đoàn quân Tây Tiến. Có lẽ vì vậy bài thơ “Tây Tiến” không chỉ khuôn lại là một biểu tượng đẹp huyền thoại của đoàn quân Tây Tiến, mà còn là sông suối sử thi chất ngất âm hưởng hào hùng và bi tráng chảy vang dội và trường cửu giữa tâm hồn dân tộc. Và, những bi kịch từ bóng tối rập rình đâu đó luôn là thứ bất trắc trên đường trường, mà dường như các thi sĩ tài hoa xưa nay thường phải nếm trải như một rủi may của số phận. Không biết đó có phải là trò chơi khăm, trò trêu ngươi của con tạo “Chữ tài liền với chữ tai một vần” hay không, chỉ có điều sau bao sóng gió vùi dập nhận chìm, vậy rồi“Tây Tiến” cùng với người sáng tác ra nó, lại lấp lánh hào sảng hơn, kiêu bạc hơn trên cái vị thế mà như giáo sư Phong Lê đã nói “Đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện…của cả nền thơ kháng chiến”.
Hơn hai mươi năm rồi thi sĩ Quang Dũng đã về với cái thế giới “người muôn năm cũ”, những đồng đội cựu binh Tây Tiến của thi sĩ, cứ đến ngày kỷ niệm hằng năm lại gặp nhau, và mỗi lần lại càng thêm thưa thớt. Thời gian vẫn cũ mòn cùng với cái việc trôi chảy lở bồi của nó. Nhưng dẫu cho những mái tóc bạc ấy có thêm phần vắng vẻ đi, thì những mái tóc xanh mỗi ngày lại lớn lên cùng với sự nuôi nấng màu mỡ của bao lớp tầng vỉa phù sa văn hóa của người xưa gởi lại đắp bồi.
“Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?/ Sông xa từng lớp lớp mưa dài”! Ai đó - những người bạn của tôi, thường mỗi khi có dịp lang thang giữa quê hương Quang Dũng, chừng như niềm cảm xúc lên tiếng đã vượt ra ngoài một “Tây tiến”, mà mênh mang hơn,thăm thẳm vời vợi xao xuyến hơn.Tôi cũng đã nhiều lần ngâm tràn nỗi nhớ se sắt như thế mỗi khi có dịp hành hương giữa xứ Đoài mây trắng.
Mây trắng thì ở đâu mà không mây trắng, nhưng ở xứ Đoài dường như là thứ mây trắng có linh hồn. Bởi thường mỗi khi đi dưới bầu trời thênh thênh xanh um bóng núi Ba Vì ấy, là từ mây trắng dặt dìu gọi tên, hay từ đâu huyền nhiệm vô thức, trí nhớ tôi lại cứ vỡ tràn ra: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”!
NNT