Giỗ đầu ký giả Trọng Kim/ Trương Trọng Trác,

07 Tháng Giêng 201012:00 SA(Xem: 15098)
Giỗ đầu ký giả Trọng Kim/ Trương Trọng Trác,

Thứ Sáu ngày 1 Tháng Một vừa qua, là giỗ đầu ký giả Trọng Kim/ Trương Trọng Trác - - Chủ nhiệm bán nguyệt san Ngày Nay, ở Houston, Texas.

Nhân dịp này, chúng tôi sao lục và đăng tải hầu quý thân hữu, hai bài tùy bút của nhà thơ Du Tử Lê, viết trước và, sau cái chết của ông; như những nén tâm hương, gửi linh hồn ông và, thân quyến.

Trân trọng.
_______

Sáng nay tôi dậy trễ. Đêm trước, những trận ho xé cổ, xốc nách tôi ra khỏi giấc ngủ. Đêm, Nam California, vẫn tiếp tục mức dưới 40 độ F.

Lấy sức chịu lạnh làm thước đo, tôi hiểu, sức khoẻ tôi, ngày một suy, yếu. Tôi tự hỏi, những người bạn tôi, ở các tiểu bang thuộc miền đông, đông bắc, trung tây... có gặp khó khăn, khi năm nay, rất sớm, thời tiết đã “trải thảm” tuyết hơn một nửa nước Mỹ?

Tôi cũng hỏi mình, câu hỏi tương tự; khi bạn tôi, Ngọc Hoài Phương cho biết, vài ngày trước, bất ngờ TN ghé tiệm, thăm Dung.

Tôi nói với Phương, có dễ đã bốn, năm năm, tôi không gặp lại TN. Tôi cũng không có một tin tức rõ ràng nào về đời sống riêng của TN từ ngày chúng tôi chia tay nhau: Houston, 1994. Thời gian đó, Houston đang rúm người, run rẩy trong những trận mưa xập trời, trôi đất. Tôi chỉ mơ hồ, hiểu rằng, dường TN đang (hay đã từng có thời gian) ở Washington State. Thành phố Seattle(?) Tôi nhớ cách đây cũng đã trên, dưới mười năm, bất ngờ, TN gửi tặng các con tôi và, tôi, mỗi người một chiếc bóp da, một đồng hồ đeo tay, một sợi dây lưu chìa khoá... Tôi không thể đoán biết ý nghĩa sâu xa của N., khi gửi chúng tôi, những món quà kia. Tôi cũng không hiểu động cơ nào (Hồi ức? Tiện thể?) đưa N. tới viếng thăm Dung và Phương, vào những giây phút phù du, sót lại của năm 2008 này?

Tôi không biết có phải vì sự trở lại Cali bất ngờ của TN, khiến Ngọc Hoài Phương, sinh mối cảm hoài, vào “tàng kinh các... hình ảnh,” lục tìm những mảnh đời khuất, lấp. Tôi cũng không biết trong “Bảo-tàng-viện-hình-ảnh-bằng-hữu” của anh, Phương lưu giữ được bao nhiêu “miếng đời” bạn bè thời Saigòn, đệ thất Chu Văn An. 1956.

Riêng sáng qua, dưới mái hiên nhà hàng Tài Bửu, Westminster, Phương mang cho tôi, rất nhiều hình ảnh Trương Trọng Trác.

Tôi không nghĩ chọn lựa của Phương, là một ngẫu hứng. Tôi nghĩ bạn tôi đang “rối loạn côn quyền” khi giờ này, giai phẩm Xuân Hồn Việt, vẫn chưa “xuất xưởng.” Tôi cho bạn tôi bị dẫn dắt bởi nhiều sợi dây liên tưởng, chòng tréo. Sự viếng thăm bất ngờ của TN, thắp lên những ngọn nến Houston, dọc, ngang liên hệ? Những ngọn nến Houston chỉ tay về địa chỉ 4500 Melrose Blvd., tòa soạn báo Ngày Nay? Nơi Trương Trọng Trác, bút hiệu Trọng Kim, người bạn thiếu thời của chúng tôi, là chủ nhiệm kiêm chủ bút.

Ngón nến chỉ tay về địa chỉ 4500 Melrose Blvd. Houston. Tầng hai. Nơi Trác ngồi “luyện đan nghiệp báo,” từ mấy chục năm qua. Tầng hai có rất nhiều cửa sổ.

Ẩn, trốn rét mướt quận Cam, những ngày cuối năm 2008, trong nhiều lớp áo dạ, Ngọc Hoài Phương hào hứng kể về cánh cửa túc-cầu-Trương-Trọng-Trác. Cánh cửa mở vào sân vận động trường Pétrus Ký, (thời bọn học sinh Bắc kỳ di cư chúng tôi, “trọ” học dãy nhà kho,) đường Trần Bình Trọng.

Phương hãnh diện nhắc tới những đôi chân... “vàng,” chân... “bạc,” của các bạn tôi, như Nguyễn Thế Toàn (tức Toàn Bò, hiện ở Hoa Thịnh Đốn;) Nguyễn Chí Viễn (tức Viễn cảnh sát trưởng... hồi xưa;) Lê Ái Quốc (tức Quốc bát vạn, cựu trung tá không quân, hiện ở Long Beach;) Bùi Quang Minh (tức Minh... dù, ở Saigòn;) Văn Sơn Trường (tức Trường Đội, hiện ở Virginia;) Nguyễn Quang Minh (tức Minh-Dê,) đang du lịch dài... ngày ở Hà Nội...

Nhưng trên tất cả, vẫn là thủ quân Trương Trọng Trác.

Theo sự hiểu biết lơ mơ của tôi về bộ môn túc cầu, thì “Captain” Trác là người có toàn quyền tuyển người, sắp xếp đội hình trước khi ra sân, “long tranh, hổ đấu.”

Với tôi, thời đó (cũng như bây giờ,) hình ảnh Trác Trương, bạn tôi, hiện ra bao giờ cũng rất “ấn tượng!” Rất “hoành tráng!” Bạn tôi là “thượng đế.” Bạn tôi nắm quyền sinh quyền sát của đội tuyển. Bạn tôi coi giò, xét cẳng từng đứa. Thằng nào, bạn tôi thấy coi bộ “ầu ơ dí dầu,” không khá; bạn tôi “xổ toẹt.” Dù cho người đó, có là “hảo thủ”... triển vọng cỡ như... tôi! Dù cho trước đó, tôi có lỡ “bồi dưỡng” cho Trác dăm ba đĩa đu đủ bò khô gan cháy, thì bạn tôi cũng vẫn nghiêm chỉnh, lắc đầu!

Sau này, nghiệm lại, tôi cho, có lẽ vì Trác sớm thấm nhuần tinh thần hướng đạo sinh: Ngay thẳng. Tôi muốn nói, chưa một ai, “mua” được Trác Trương.

Bao nhiêu năm Chu Văn An, tôi chưa từng được Trác Trương cho vào đội tuyển của anh. (Thậm chí trong danh sách cầu thủ phòng hờ hay, săn sóc viên chính thức, cũng không có tôi.) Tuy nhiên, tôi nhớ, hơn một lần, tôi được Trác “để mắt” tới. Đó là lần Trác chỉ định tôi trong nhiệm vụ ngồi coi... quần áo cho anh em.

Với tôi, ngày ấy, sao mà hạnh phúc!

Với tôi, ngày ấy, các bạn tôi là những “cầu vương!” Thủ môn Minh-dê, bạn tôi, là ‘Lưỡng thủ vạn năng!” Là, đôi tay bắt được của... trời,” nói theo kiểu cố nhà văn Mai Thảo. Còn Trác Trương, bạn tôi, là “Đôi chân nhận được từ... địa ngục... kẻ khác,” theo đúng giọng điệu hiện sinh của triết gia Jean Paul Sartre.

Tới giờ, nhớ lại, tôi vẫn còn cảm thấy hồi hộp, những lần thập thò ngoài đường biên, dõi theo Trác Trương dẫn dắt những đôi chân... vàng, chân... bạc, (luôn cả chân... platinum) của các “cầu vương” bạn tôi, rầm rộ xâm lấn vùng cấm địa đối thủ...

Tới giờ, nhớ lại, tôi vẫn còn thấy như tôi, vâng, chính tôi, đã có cú đánh đầu... toé sao, nẩy lửa (khi một người bạn nào đó, trong đội bóng của Trác, đánh đầu,) đưa banh như... để, vào khung thành đối phương.

Bây giờ, nhớ lại, tôi vẫn thấy các bạn tôi nào có thua gì những Pelé, Maradona, Zidane, Ronaldinho, Beckham... hôm nay(?) Chẳng qua, các bạn tôi “sinh bất phùng thời!” Chẳng qua, thời đó, chưa có hamburger, hot dog, sinh tố, boba, coke, steroid. Chích. Choác... Thuốc bồi bổ của các bạn tôi, thuở ấy, chỉ khoai, sắn hoặc nắm xôi và, nước máy! Lại nữa, thời đó, cũng chưa có cái gọi là Liên đoàn túc cầu thế giới FIFA! Nếu có, từ thời ấy, nhiều phần, tôi đã làm thỉnh nguyện thư, xin chữ ký ủng hộ của tất cả mọi học sinh Bắc kỳ di cư, cũng như Nam kỳ (sau này sẽ)... di cư. Tôi sẽ xin luôn chữ ký của ông bán kẹo kéo, bà bán xôi, chị bán bánh cuốn, chú bán đu đủ bò khô... Tất nhiên, không đời nào tôi quên xin chữ ký bác Ban gác gian, kiêm chủ quán bánh tây (bánh mì) café “bí tất” của trường. Ngay với các thầy giám thị, các giáo sư... “tiên tiến,” tôi cũng sẽ không ngại ngần nhân danh tương lai nền túc cầu thế giới, xin họ ký ủng hộ bạn tôi.

Trong thỉnh nguyện thư, tôi sẽ xin Liên Đoàn FIFA, trao cho các “cầu vương” của tôi, mỗi người... dăm ba quả cầu... vàng. Cầm chơi! Riêng thần tượng Trác Trương của tôi, thì (tôi trộm nghĩ,) anh phải được bê về một rổ... quả cầu vàng, mới xứng. (Hiện nay, cứ như chỗ tôi biết thì, mỗi năm, Liên Đoàn FIFA bầu bán ì xèo, tới lui, cũng chỉ chọn ra trần xì một cầu thủ, với (cũng trần xì,) một quả cầu vàng! Quá hẻo!!!)

Để chứng minh, để “back up” cho thỉnh nguyện thư của mình, tôi biết là tôi sẽ không được phép quên đính kèm bằng chứng. Bằng chứng của tôi, sẽ là những tấm ảnh (đen trắng thôi. Thời đó, chúng tôi không chơi ảnh màu.) Hình ảnh (do nhà thơ Ngọc Hoài Phương cung cấp,) cho thấy các bạn tôi, cỡ Toàn-bò, Minh-đù, Quốc-bát-vạn, Trường- đội, Viễn-cảnh-sát-trưởng... đánh đầu đẹp hơn Zidane, ăn đứt Ronaldingho, bỏ xa Beckham...

Đôi khi bạn tôi, “cầu vương” Toàn Nguyễn còn cao hứng, biểu diễn “võ công tây vực,” (không thấy mấy khi ở trung nguyên,) đó là ngón đánh... lưng (thay vì đánh đầu.) Đó là những trường hợp “cầu vương” Toàn-bò của tôi, thấy đường banh đối phương nhắm vào anh, có phần “khủng bố cao,” bạn tôi bèn... quay lưng: Đón banh. Banh nào mà gặp tấm lưng (cũng ngót nghét nghìn... vàng) của bạn tôi, thì chỉ có nước “bó tay!”

Nhưng điều đáng nói hơn cả, ở chỗ không biết bạn tôi điều khiển tấm lưng nghìn vàng của anh ra sao mà, banh lại “thân ái” chạm... tay “Kép Tần” Trác một cái, trước khi... “hư ảo” rớt xuống!

Tôi không biết trường hợp này, ngôn từ túc cầu gọi là gì? “Liệt vị?” Không chắc! Trọng tài thổi còi? Phát thẻ đỏ lập tức? Tôi không dám võ đoán. Chỉ nhớ, sau đấy, “Kép tần” Trác giải thích sao đó, mà, “cầu vương” Toàn-bò, chẳng những không bị “lay off,” ra khỏi sân chơi - - Mà, bạn tôi, còn trợn mắt, la lối, xông pha dữ dằn hơn trước.

Thế mới... thánh chứ!

Tóm lại, theo tôi, cái ghê, hay cái đáng nể, tới mức độ, cần phải trao quả cầu vàng cho các bạn tôi, còn nằm ở chỗ “đánh lưng” thay đầu đó nữa.

Ngọn nến chỉ tay về tầng hai, 4500 Melrose Blvd., Houston. Tầng hai. Nơi Trác ngồi “luyện đan nghiệp báo” từ mấy chục năm qua. Tầng hai có rất nhiều cửa sổ.

Ẩn, trốn rét mướt quận Cam, những ngày cuối năm 2008, trong nhiều lớp áo dạ, Ngọc Hoài Phương, hào hứng kể về cánh cửa tình-bạn-Trương-Trọng-Trác. Cánh cửa mở vào sân chơi bằng hữu của Trác, được Phương nhấn mạnh, nhiều lần, là cuộc “reunion,” họp mặt bạn cùng lớp, ngày 5 tháng 12 năm 1998, ở San Jose; tập trung gần 100 anh em (gồm luôn cả thê nhi.) Tôi cũng thấy bạn tôi, có phần cường điệu, khi tuyên bố, đó là cuộc họp mặt “mang tính... thế kỷ.”

“Ngay cả Mỹ cũng không thể có được!” Phương nói.

Gẫm kỹ, tôi thấy Phương có lý.

Phương có lý ở chỗ, cho đến ngày hôm nay, dường như chưa có một cuộc “reunion’ bạn học cũ nào mà, cái đinh lại là một chú rể H.O., xấp xỉ 6 bó. Cô dâu là một em gái hậu phương vừa mới bước qua tuổi ba mươi. Dù cho chú rể Nguyễn Quang Minh, tức Minh-dê, cựu thủ môn “lưỡng thủ vạn năng” của chúng tôi, cựu trung tá thiết giáp chăng nữa, nhưng khi so bề tuổi tác, phải nhìn nhận là có phần hơi bị kênh... tuyến. Đã vậy, trước cũng như sau khi lên xe hoa, bạn tôi vẫn nhất định không xác nhận đó là đám cưới cuối cùng, hay... áp chót của anh. Theo Ngọc Hoài Phương, đó là một “kỳ tích” chỉ đám bạn chúng tôi, mới đạt được!

Kỳ tích thứ hai, tức “tính thế kỷ,” vẫn theo bạn tôi, Ngọc Hoài Phương thì, ngày chúng tôi kéo nhau về thung lũng hoa vàng, làm một cuộc “hoa sơn loạn kiếm;” ngoài những người bạn ở xa, như Vũ Thành An, phó tế, về từ Oregon; Nguyễn Hữu Hiệu,dịch giả, Nguyễn Đình Hùng, World Bank, Văn Sơn Trường, Zhivago... về từ Hoa Thịnh Đốn; Phạm Duy Ánh, xa hơn nữa, về từ Úc châu; chúng tôi còn có một “anh thương binh chống nạng cầy bừa” về từ Texas. Đó là “Kép Tần” Trác Trương.

Phương kể, vì tình bạn gần nửa thế kỷ, Trác Trương đã bất chấp khuyến cáo của bác sĩ, bất chấp lo ngại, hồi hộp của vợ con, bạn tôi chống nạng lên máy bay. Bạn tôi chống nạng đến nhà gái... rước dâu. Bạn tôi chống nạng, đến nhà hàng, ăn nhậu tới khuya. Ngọc Hoài Phương lưu ý chúng tôi rằng, mặc dù đặt tính mạng của mình dưới tình bạn, nhưng Trác Trương chớ hề mở miệng, hỏi Minh-dê một lời về vụ... lấy vợ. Trác cũng không đòi hỏi Minh-dê phải cam kết một điều gì. Ngoài vài xác nhận nặng phần cảm tính của Minh. Như mẩu đối thoại sau đây giữa hai người:

Trác hỏi:

“Hép-pi không?”

Minh-dê đáp:

“Hép-pi lắm.”

“Chắc ăn không?”

“Chắc ăn trăm phần trăm.”

“Cần gì không?”

“Không. Chỉ cần bạn!”

Sở dĩ tôi nói, những xác nhận của Minh-dê, bạn tôi, là những xác nhận “nặng phần cảm tính;” bởi vì chỉ ít lâu sau, cuộc hôn nhân của bạn tôi, người được tước phong là “lưỡng thủ vạn năng,” cuối cùng cũng không giữ được. Tôi biết, tương lai, nếu Minh-dê có bị “ép” phải lên xe hoa một lần nữa, bạn tôi, Trác Trương cũng sẽ tham dự.

Tôi nghĩ, có thể Trác cũng cảm thấy, ngày vui của chúng tôi, giống như cây nến đã cạn sáp và bấc. Buồn thay, những ngọn nến kia, mỗi ngày vẫn tự ăn, nuốt chính thịt, xương nó!

Trong sân chơi tình bạn, Trương Trọng Trác là người thận trọng. Từ tốn. Không hối hả. Không ào ào. Nhưng khi Trác đã chọn, thì, tình bạn đó, đồng nghĩa với bất biến. Với mãi mãi.

Tôi biết, Trác có một tình bạn dài lâu với Trịnh Quốc Thông, thời tiểu học, Hà Nội, trước 54. Trịnh Quốc Thông, giáo sư “vật lý chi bảo,” trước và sau 1975 ở Saigòn, tác giả bộ sách ba cuốn, “Luyện thi toán đại học,” xuất bản năm 1993, đã giúp hàng ngàn thí sinh thi đậu các trường đại học lớn, từ Saigòn, đến Hà Nội. Tới hôm nay, Trác vẫn coi bà mẹ của Thông, như mẹ mình.

Tôi biết, Trác có một tình bạn dài lâu với Nguyễn Đức Cung, nhiếp ảnh gia. Tới hôm này, Trác vẫn nhìn anh chị Cảnh, và các cháu của Cung, như anh chị, các cháu của chính mình.

Tôi biết, gần đây, Trác thân, qúy Bùi Vĩnh Hưng, thi sĩ. Những lần đi công tác cho sở, ở quân Cam, với tư cách V.P của một công ty chuyên sản xuất loại sơn đặc biệt dùng cho phi thuyền, (chịu được sức ma sát cực độ khi phi thuyền vượt tầng khí quyển;) với (một hay nhiều thư ký,) Trác thường nhín giờ, dậy sớm, lén ra khu Phước Lộc Thọ, đóng vai “thành viên dự khuyết,” trân trọng lắng nghe những cuộc thảo luận sôi nổi của “Think-tank chính-trị-Bolsa,” mà Hưng giữ vai trò “chủ xị.”

Tôi biết, bên cạnh những bằng hữu thân thiết cũ, như Phạm Tuấn Bách “Bạch diện thư sinh;” Nguyễn Ngọc Chấn, tự “Chân Cậu Trời”... Trác cũng quý bạn học xưa, giờ mới có cơ hội gần gũi, như Nguyễn Minh Triết, “đệ nhất Fung Sui;” Nguyễn Ngọc Thường, “dật sĩ;” Nguyễn Chí Hoà, tự Hoà “chây-hỏi”...

Và, hẳn nhiên, Trác rất biết ơn Ngọc Hoài Phương, người mà tới giờ này, Trác vẫn thích kêu tên thời “học sinh Bắc kỳ di cư,” của Phương, là Nguyễn Ngọc Kiểm.

Theo Trác, nếu không có ông Kiểm... “L.,” chúng tôi (cũng như mai sau, con cháu của tôi,) sẽ không thể có được những tấm hình “before” và “after” như Phương đang cất giữ trong “Tàng kinh các... hình ảnh” của anh.

Ngặt một nỗi, vẫn theo Trác, thì đến trẻ con còn biết rằng “after’ bao giờ cũng đẹp, cũng ngon lành, cũng “ấn tượng” hơn “before.” Trong khi, tác phẩm “after” của Ngọc Hoài Phương, lại chỉ cho thấy hình ảnh mấy anh già chúng tôi, gồm Trác, Cung, Lê... đã cực kỳ “xuống cấp!”

Ngọn nến chỉ tay về địa chỉ 4500 Melrose Blvd., Houston. Tầng hai. Nơi Trác ngồi “luyện đan nghiệp báo,” từ mấy chục năm qua. Tầng hai có rất nhiều cửa sổ.

Ẩn, trốn rét mướt quận Cam, những ngày cuối năm 2008, trong nhiều lớp áo dạ, Ngọc Hoài Phương hào hứng kể về cánh cửa nghiệp-báo-Trương-Trọng-Trác. Cánh cửa mở vào năm, tháng Trác Trương cùng với đàn anh Nguyễn Ngọc Linh gầy dựng tờ Ngày Nay. Bán nguyệt san ra đời rất sớm, vùng Tây Nam Hoa Kỳ - - “Truyền tay” từ nhà báo Thanh Trúc...

Tuy nhiên, Phương đâu biết, Ngày Nay đã trải qua rất nhiều “đoạn trường.” Có lúc, những tưởng con thuyền Ngày Nay ngập nước. Tưởng chìm đáy sông. Đó là những lúc Trác Trương phải ra tay “cứu giá.” Nhưng, bởi bản chất khiêm tốn, kín đáo bạn tôi không bao giờ ra mặt. Lên tiếng. Kể công. Ngay cả khi được chọn vào chức vụ Vice president của một hãng sản xuất sơn quốc tế, từ nhiều năm trước, những bằng hữu của Trác, ở ngay Houston, nhiều người cũng không biết. Trác nói:

“Bem là tốt nhất? Nói ra để làm gì? Chỉ tạo thêm đố kỵ. Ganh ghét...”

Triết lý sống của bạn tôi là, “hãy nhường chỗ đứng dưới ánh đèn sân khấu, cho kẻ khác.” Anh bằng lòng, thích thú với vai trò “behind the scenes” của mình.

(Tôi không biết và, cũng chưa bao giờ hỏi Trác Trương, nguồn gốc chữ bem! Chỉ biết, khi bạn tôi dùng tới chữ ấy, tôi phải tự động hiểu rằng, đó là chuyện không nên kể lại, dù với ai. Cá nhân tôi, đôi lần cũng mượn chữ bem của anh, để mở đầu hay, chấm dứt một câu chuyện gì đó, tôi muốn Trác bem nó.)

Tuy hào hứng, sôi nổi, nhưng Phương đâu biết, thời trước tháng 4-1975, Trác Trương là một phóng viên nhiếp ảnh chiến trường có hạng. Anh từng đưa phóng viên ngoại quốc thuộc các hãng thông tấn, truyền hình lớn, như AP, BBC nhảy xuống những trận địa còn khét, nồng lửa, đạn. Một trong những bức hình hiếm hoi mà Trác hãnh diện chụp được (in lại trong cuốn hồi ký cuộc đời viết văn, làm báo của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh,) là bức hình Trác chụp ký giả Minh Đức Hoài Trinh, (cùng vài nhà báo ngoại quốc,) vào cổ thành Quảng Trị, ngay khi QLVNCH vừa chiếm lại. Lúc chiến địa còn đang bốc cao những đám cháy: Nâng lên, toả xa mùi gây, ói của thịt da người chết...

Phương cũng đâu biết, trung tuần tháng 4 năm 1975, tôi và phóng viên báo chí quân đoàn II, Vĩnh Khuê (nhà thơ Kim Tuấn,) tình cờ gặp Trác cùng mấy ký giả ngoại quốc, đi ăn tối ở bờ biển Nha trang. Đó là lúc bộ Tư lệnh tiền phương Quân Đoàn II, đã di tản chiến thuật từ Pleiku về; dùng mấy biệt thự và, một trường tiểu học trước bãi biển, làm “Tổng hành dinh.” Đó cũng là lúc, những người di tản đầu tiên trên Liên tỉnh lộ 7B về tới Nha Trang, chọn bãi biển làm nơi tạm trú.

Trác sôi nổi cho biết, một lữ đoàn Dù (?) đã được đổ xuống Khánh Dương. Lập tuyến. Làm nút chặn Bắc quân. Trác nói, theo phân tích, dự đoán của bọn “Tây” (ký giả ngoại quốc,) thì đó là chiến trường sinh tử, không riêng miền Trung mà, sẽ ảnh hưởng cả Saigòn. Vì thế, Trác phải đi. Trác rủ:

“Cậu theo tụi tớ cho vui!”

Tôi nói, để coi. Tôi phân vân. Tôi đã nhận lời, ngày mai bay cùng toán rải truyền đơn và, cơm sấy thả cho đoàn ngừơi di tản kẹt ở Sông Ba. Thời gian ấy, tôi là Thư ký toà soạn nguyệt san Tiền Phong của quân đội; không phải đi làm phóng sự chiến trường. Nhưng phòng Báo chí Cục Tâm Lý Chiến, hết phóng viên... Mà, báo chí cũng như đài Truyền hình Quân đội đang cần một phóng sự về đoàn người di tản ở cao nguyên, để trấn an dư luận.

Trác dọa:

“Bỏ qua cơ hội này, cậu sẽ một đời ân hận.”

Trác nói đúng. Nếu tôi yêu nghề và, có tinh thần trách nhiệm cao, như Trác.

Đêm trở về trường tiểu học, nằm trên một chiếc ghế dài của học trò, tôi nghiệm ra, tinh thần “thủ quân” của những ngày trung học, bóng tròn, sân cỏ; tinh thần hướng đạo sinh vượt qua mọi gian khó của Trác, lại thể hiện rất rõ trong lãnh vực báo chí, một lãnh vực mà Trác Trương đam mê, như một phần định mệnh, gập ghềnh, đời anh.

Ngày hôm sau, trước khi trở lại Nha Trang, qua những điện đàm vô tuyến, trên máy bay, tôi được tin khánh Dương, vỡ tuyến! Mũi nhọn chính là lực lượng Dù phải lui về Nha Trang. Còn quá sớm, để biết tổn thất của Dù - - Một trong số những đơn vị chủ lực của Nam quân. Cũng còn quá sớm, để tôi biết tin về Trác - - Vì tin tức vỡ tuyến Khánh Dương trung tuần tháng 4-1975, cũng giống như những tin tức đầu tiên về hậu quả của bão Katrina, cách đây trên dưới hai năm, ở vùng Tây Nam Hoa Kỳ. Chưa kể, ngay buổi chiều đó, Thiếu tá Phạm Huấn, Tuỳ viên báo chí của Tướng Phú yêu cầu tôi rời Nha Trang. Lập tức. Ông nói, ông đã liên lạc với phòng 4, dành cho tôi một chỗ trong chuyến bay đầu tiên, về lại Saigòn. Ông nói, tình hình biến chuyển nhanh với một tốc độ không ai có thể nói trước.

“Tôi không muốn ông kẹt lại ở đây. Tôi không muốn tới lúc tôi không lo gì được cho ông; khi ngay bản thân tôi, cũng chưa thế nào!” Tác giả “Cuộc triệt thoái cao nguyên,” nhấn mạnh.

Vậy mà, cũng phải đợi tới 20 tháng 4, tôi mới về tới Saigòn. Hy vọng trí nhớ kém cỏi của tôi, không phản bội mình. Tôi nhớ, ngày 20 vì, sau đó ba ngày, ngày 23 Tháng Tư (?)

Tổng thống Thiệu lên truyền hình, tuyên bố từ chức.

Con quái vật chiến tranh với đôi cánh tang tóc, chia ly đã đem nước mắt vào từng con hẻm, từng ngôi nhà của thị dân Saigòn. Đương nhiên, tôi không thể có một tin tức nào về Trác.

Mãi một tháng sau, khi bất ngờ gặp nhau ở Camp Pendleton, Trác kể:

“Tớ rất mừng vì sáng sớm hôm đó, cậu không theo tớ đi Khánh Dương. Nếu cậu đi với tớ, lúc tụi “tây” nó bốc tớ... mà không có... cậu. Cậu kẹt lại... tớ thật không biết phải ăn nói làm sao với vợ con cậu!”

Trác Trương là như vậy. Bạn tôi luôn lo an nguy người khác, trước mình.

Khi Trương Trọng Trác bước vào sân chơi báo chí, cũng là thời gian Trác có mối giao tình đặc biệt, với những người-ảnh hàng đầu của miền Nam, thuở ấy. Như Trần Cao Lĩnh. Như Nguyễn Cao Đàm.

Lần nào, nghe kể chuyện về những buổi săn hình, những tác phẩm nhiếp ảnh, mang đến cho họ Trần, họ Nguyễn, những huy chương cao quý nhất của quảng trường nhiếp ảnh nghệ thuật thế giới; mà, bạn tôi có duyên góp phần; tôi đều cảm được cái nhịp đập hưng phấn của trái-tim-trong-tình-yêu-nhiếp-ảnh-chói-gắt. Những lúc đó, tôi không nhìn vào mấy tấm ảnh của hai vị “tiền bối” Nguyễn, Trần, mà bạn tôi bày ra, dẫn giải... Tôi theo dõi những biến chuyển ngời ngợi trong đôi mắt, gương mặt, giọng nói của Trác. Tôi nghĩ, nếu hai anh Trần Cao Lĩnh, Nguyễn Cao Đàm được “dự khán” cảnh này, họ sẽ hãnh diện, hơn cái hãnh diện họ nhận được từ những huy chương, giải thưởng.

Tôi cho rằng, đỉnh cao của tất cả mọi bộ môn văn học, nghệ thuật, không nằm nơi giải thưởng...Nó nằm nơi tri kỷ. Nơi người bạn nào đấy, cảm thấy hạnh phúc hơn chính tác giả, trước thành tựu của họ. Nó là những rung động, cảm nhận mang tính hữu cơ. Trực tịếp. Tác phẩm và người thưởng ngoạn không còn khoảng cách. Nó không là đôi mắt lạnh lùng, chi li của giám khảo. Nó chảy chung, một máu.

Ngọn nến chỉ tay về địa chỉ 4500 Melrose Blvd. Houston. Tầng hai. Nơi Trác ngồi “luyện đan nghiệp báo,” từ mấy chục năm trước. Tầng hai có rất nhiều cửa sổ.

Có cánh cửa hướng-đạo-sinh-Trương-Trọng-Trác. Bạn tôi, Ngọc Hoài Phương không kể.

Đó là cánh cửa mở vào những sáng chủ nhật, Hà Nội, sân Chùa Quán Thánh, rồi Quốc Tử Giám. Ngay tự những bước chân hăm hở đầu đời, Sói con, rồi Thiếu sinh Trương Trọng Trác đã cho thấy, định mệnh chọn cho anh con đường xứng hợp. Hướng Đạo, một trong mấy con đường mà, anh đã đi tận cùng hơi thở, cuối.

Trác Trương không chỉ là một hướng đạo sinh gương mẫu, trong mắt nhìn khâm phục, ngưỡng mộ của cá nhân tôi. Anh còn là người đóng góp những nỗ lực thay máu cho phong trào hướng đạo Việt Nam. Sau nhiều lần tham dự trại lớn hướng đạo thế giới, trong vai trò uỷ viên, bộ tổng uỷ viên Hướng Đạo Việt Nam, Hươu Nhanh (tên rừng của Trác,) đã đưa ra những đề nghị mang tính “cách mạng... xanh” cho phong trào hướng đạo Việt Nam. Đó là “trẻ trung hoá” guồng máy lãnh đạo hướng đạo và, “lấy vui chơi, chứ không phải lý thuyết làm chuẩn.”

Thời đó, Trác kể, các anh trong Bộ Tổng Uỷ Viên là những người thủ cựu. Các anh trước sau, nhắm trang bị cho hướng đạo sinh lý thuyết và kỹ thuật làm chính - - Trong khi theo quan niệm từ khởi thuỷ người sáng lập phong trào, Baden Powell là, tạo môi trường lành mạnh cho thanh thiếu niên vui chơi và, từ đó, họ tự khám phá, phát triển năng khiếu mình, để mai sau giúp đời. Trác nói, may mắn, cuối cùng, các anh lớn đã nghe theo và “cuộc cách mạng... xanh” Trác, thành tựu.

Với cá nhân, điều tôi biết ơn Trác to lớn nhất, không phải là cuộc “cách mạng... xanh” hay “cách mạng... vàng” kia. Lý do, tôi đã tự ý ngưng sinh hoạt hướng đạo từ năm 1959, khi tự thấy mình không giữ được đầy đủ 10 điều luật hướng đạo. Điều tôi biết ơn Trác, to lớn nhất, là một sáng chủ nhật, trong thung lũng Camp Pendleton, tháng 6, 1975, tôi không biết bằng cách nào, Trác tổ chức được một buổi họp mặt, sinh hoạt hướng đạo trong trại tỵ nạn - - Với đầy đủ đồng phục, hiệu kỳ hướng đạo.

Khi ngọn cờ Hướng Đạo Việt Nam được kéo lên trên cây cột thô sơ, tạm bợ - - Khi bài hát hướng đạo Việt Nam cất lên. Những hướng đạo sinh già/ trẻ dơ tay chào (kiểu hướng đạo,) với ngón cái giữ ngón út, để ba ngón giữa chỉ thẳng lên trời, tượng trưng ba lời hứa hướng đạo.(*) Đứng ngoài vòng, tôi không khỏi hãnh diện, biết ơn bạn tôi. Tôi cũng không cầm được nước mắt vì tất cả những bài hát được hát sáng hôm đó, là những bài hát quen thuộc, một thời tôi, hướng đạo. Nó đem tôi trở lại một thời Việt Nam, niên thiếu. Nó cho lại tôi hy vọng, niềm tin, sức mạnh giữa lúc tôi không chút khí lực, không chút thiết tha sự sống. Nó được cất lên giữa núi, đồi, giữa cây, rừng, Pendleton, với những người lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ, vây quanh, ngẩn ngơ. Không hiểu. Nhưng nét mặt họ, cho thấy niềm cảm thông. Chia sẻ. Làm sao họ không ngẩn ngơ, khi tiếng nước tôi, khi những âm sắc Việt Nam nồng nàn, hâm nóng, nung chảy bầu khí đông đá cùng sương muối nặng, trũng đáy thung lũng.

Tôi không biết tương lai, ngọn nến Houston, còn chỉ tay về địa chỉ 4500 Melrose Blvd. Tầng hai? Nơi Trác ngồi “luyện đan nghiệp báo,” từ mấy chục năm qua.

Tôi không biết! Vì cửa chính, cánh cửa lớn mở vào đời bạn tôi, Trương Trọng Trác, đã khép. Vĩnh viễn khép. Lúc 3 giờ 40 phút. Sáng ngày 1 Tháng Giêng, 2008.

Nhưng, tôi biết, cách gì thì, những cửa sổ mở vào những sân chơi mang tên: Trương-Trọng- Trác-bằng-hữu. Trương-Trọng-Trác-hướng-đạo. Trương-Trọng-Trác-thể-thao. Trương-Trọng-Trác-báo-chí. Trương-Trọng-Trác-nhiếp-ảnh... sẽ mãi mãi, mở.

Bởi vì đó là những đóng góp, những tấm gương, tự thân, mang tính bất hoại.

(Dec-07 – Jan. 09.)

(*) Ba lời hứa Hướng Đạo đó là:
1- Hướng đạo sinh trung thành với tổ quốc, cha mẹ và người cộng sự.
2- Hđs giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào.
3- Hđs giữ 10 điều luật Hướng Đạo.


“... Buồn ngất trên vai áo,”

“nhớ ai buồn ngất trên vai áo.
“mưa ở đâu về, như vết thương.”

thơ DTL.

1.

Những tưởng phải lâu lắm, (nếu không muốn nói là chẳng bao giờ,) tôi trở lại Houston. Vậy mà, cuối cùng, tôi có mặt.

Trong lúc chờ chuyến bay chậm gần hai tiếng tại phi trường LAX, tôi tự hỏi điều gì khiến tôi nhận lời Phạm Quốc Bảo - - Nhận lời Phan Huy Đạt, trong vai trò đại diện nhật báo Người Việt và, Người Việt Online, tham dự tang lễ Chủ nhiệm bán nguyệt san Ngày Nay? Khi trước đó một ngày, tôi đã từ chối đề nghị của Việt Nguyên.

Chẳng phải tôi đã “gặp” Trác cách đây chưa quá năm tuần sao?

Chẳng phải, tôi đã cầm tay, đã “nói chuyện” với Trác, trong căn phòng, trên tầng cao bệnh viện St. Luke? (Căn phòng có tấm giấy lớn, ghi hàng chữ viết tay “No visitors – Requested by family.”)

Chẳng phải Trác đã không buồn nói chuyện với tôi. Trác cũng chớ hề tầm tay tôi! Ngày cuối, trước khi về lại Orange County, vào thăm Trác, tôi “hờn dỗi” nói:

“Tao cơm ăn, cơm dở, qua thăm mày. Nhưng mày không chịu nói chuyện, cũng không thèm cầm tay tao... thì thôi! Tao đành về vậy.”

Không biết có phải vì thấy tôi “hờn dỗi” hay, vì thuốc “nhả”, Trác đã nắm tay tôi. Trác đã nói... chuyện với tôi vài tiếng.

Dù chỉ vài tiếng, tôi vẫn kể lại “biến cố” này, với bạn bè, như một hy vọng to lớn. Một quả quyết chắc nịch rằng, sớm, muộn gì, bạn tôi cũng sẽ bình phục.

Ngày Trác bình phục, anh em chúng tôi sẽ mở... đại hội. Tổ chức “trò chơi lớn” giữa Houston. Chúng tôi sẽ xếp hàng... bốn hùng dũng bước vào nhà hàng Kim Sơn # 1, Downtown cũ. Chúng tôi sẽ chiếm cứ tất cả bàn ghế bày ngoài vỉa hè café Salino, khu West University. Nơi bạn tôi ngồi uống café gần như mỗi ngày với Việt Nguyên. Nơi Trác Trương thu vào ống kính, không biết cơ man nào hình ảnh bằng hữu bốn biển. Chúng tôi sẽ gọi cho chị Nga, chủ quán Nga ở đường Milam, yêu cầu dành riêng cho chúng tôi một buổi, để chúng tận tình vừa thưởng thức, (vừa la ó) món “gỏi vịt” của chị. Chúng tôi sẽ uống vang (do Lê Văn cung cấp.) Từ chủ nhiệm trở xuống, chúng tôi sẽ mặc sức thả khói mịt mờ trời đất mà; không sợ thằng... tây đen nào. Chúng tôi sẽ chửi thề văng mạng (dù nhiều anh em trong chúng tôi, chưa một lần trong đời buột miệng “đ.m.”

Nhân danh tình bạn thiêng liêng và, sự bình phục tuyệt vời, tôi sẽ yêu cầu Nhà giáo lão thành Lã Huy Quý, Thi sĩ nổi tiếng Tô Thuỳ Yên rút lại lời mắng mỏ (đầy thương yêu) Trương Trọng Trác - - Về tội “chơi nổi! chơi trèo!” Dám đi trước các niên trưởng. So bề tuổi tác, Trác Trương thua Tô Thuỳ Yên cả dậm; sinh sau Lã Huy Quý cả cây số ngàn...

Rồi, chỉ một cú điện thoại, mờ sáng, đầu năm, mọi hy vọng, toan tính của tôi, bỗng bèo, bọt.

Dù sự thực nện búa vào đầu tôi, khiến tôi thấy cả trăm... ông trời cùng một lúc; nhưng tôi vẫn ngoan cố, không tin. Đâu thể chỉ vì một cú điện thoại, (dù cho đó là điện thoại của Việt Nguyên), mà, tôi phải tin, Trác không còn nữa.

Tôi biết việc chống lại sự thật kia, ở tôi, chỉ là phản ứng trẻ con. Nỗ lực be bờ, vuốt ve, chiều chuộng cuối cùng, dành cho tôi-ảo-tưởng. Nhưng, điều đó, đâu có nghĩa tôi không được quyền sống với niềm tin xuẩn, ngốc của mình?

Vậy thì, điều gì đã lôi tôi ra khỏi cái kén khăng khăng xuẩn, ngốc ấy?

Tôi nghĩ, nhiều phần, có thể, Trác. Chính Trác, đã nhận lời Phạm Quốc Bảo. Chính Trác (không phải tôi,) đã nhận lời Phan Huy Đạt. Như từ nhiều chục năm qua, Trác từng giúp tôi, trả lời những câu hỏi sinh, tử bất ngờ. Rát. Phỏng.


2.

Cuối cùng, rồi chuyến bay cũng ném tôi về với Houston, khi thành phố đã lên đèn. Và, mưa mỗi lúc một thêm khốn kiếp. Khác chăng, lần này đón tôi là Lê Văn Hào. Không phải Phương Hoa. Khác chăng, lần này (dù cách nhau chỉ ít tuần,) chúng tôi không còn cơ hội nói với nhau về bình minh, nơi chân trời bệnh tình Trương Trọng Trác. Mà là, tang lễ. Nhà quàn. Ngày mai. Vùng Southwest.

Nhà quàn, tang lễ, đương nhiên không thể mang đến cho chúng tôi, chút hào hứng. Nhiều giây phút, cả hai anh em cùng nghe được cái im lặng trấn, đập dữ dằn ngay ngực. Như cái trấn, đập dữ dằn của tầng, tầng lưới mưa, cùng bóng tối đốn mạt cắt, chia Houston thành từng thửa ruộng đèn, xa, chấp chới. Các thương xá, văn phòng, chung cư như những ngôi mộ nổi khổng lồ, bồng bềnh, lùi sâu. Những ngọn đèn thẳng hàng, hai bên xa lộ, lênh khênh, ốm nhom, miễn cưỡng chùm những chiếc áo bệnh viện màu vàng, rộng thùng, vun vút, lùi lại.

Lâu lâu, những chiếc xe cứu thương đâu đó, lại rít lên những hồi còi đay nghiến. Riết róng.

Chỉ đêm, Houston biết, bất hạnh nào đã xẩy ra. Tang chế nào sắp gõ cửa những ngôi nhà yên, ấm!


3.

Khi tôi tới nhà quàn, Việt Nguyên, (người đại diện tang gia, điều khiển mọi nghi lễ,) cho biết, buổi lễ gắn huy chương của Hướng Đạo Việt Nam, cho Trưởng Hươu Nhanh Trương Trọng Trác đã chấm dứt. Các trưởng Nguyễn Đức Lập, Lê Thức (từ Cali,) và Đỗ Phát Hai, đã ra về. Chỉ còn một vài trưởng ở lại, bàn chương trình lễ di quan ngày mai.

Tôi nói với chị Hà, tôi đại diện cho nhật báo Người Việt và Người Việt Online, mang tới chị lời chia buồn chân thành dành cho đồng nghiệp Trọng Kim. Chị Hà nói, chị biết rồi. Chị chỉ không tin tôi sẽ qua lần nữa.

Tôi nói:

“Bên cạnh đó, tôi cũng xin chuyển đến chị lời chia buồn của các anh, chị ở xa, như chị Ngọc Hân, anh Lưu Tường Quang, anh chị Phan Lạc Phúc, Phạm Duy Ánh... ở Úc; anh Vũ Thành An ở Portland, Oregon; anh Ngọc Hoài Phương, Bùi Vĩnh Hưng, Trịnh Quốc Thông, Nguyễn Đức Cung... ở nam Cali. Riêng anh Vũ Thành An cho biết, anh sẽ có một buổi cầu nguyện hiệp thông với mười Linh mục, cứu rỗi linh hồn Trương Trọng Trác...”

Chị Hà nghe với vẻ mặt ngơ ngác và, một xác thân rã rượi, lềnh bềnh trôi giữa vùng không trọng lực. Tôi nghĩ, có thể chị đang cố hình dung những người bạn năm châu, của chồng. Có người, chị từng gặp gỡ. Có người, chị chỉ mới nghe tên.

Sự ngơ ngác của chị, với tôi, cũng giống như những hạt đường tình thân, tôi mới đem đến, ngơ ngác rớt vào lòng biển nước mặn.

Tôi nói với Vera Ching; tôi xin lỗi những người bạn còn hiện diện, như anh chị Dương Ngọc Hoán, Giáng Tiên về từ Hoa Thịnh Đốn, anh chị Trần Văn Ân đến từ nam Cali, Nguyễn Ngọc Chương và Simone về từ Jakarta... cho phép tôi, được thắp nén hương, vái bạn.

Đứng trước bài vị Trác, tôi lập lại những điều hằng nói thầm, kể từ lúc được tin bạn từ trần. Rằng:

“Tớ nghĩ, không mấy ai trước khi ra đi chu toàn được mọi việc. Cậu cũng thế. Tớ rồi cũng thế. Nhưng cậu sẽ thấy, cuối cùng mọi việc rồi cũng sẽ đâu vào đấy. Mọi việc rồi cũng tốt thôi! Thời gian có đôi cánh lãng quên, tàn nhẫn. Nhưng, cạnh đó, nó cũng có đôi tay kỳ diệu. Nó có khả năng thu xếp mọi bề bộn, dở dang cho chúng ta. Ngày sẽ qua. và đời sẽ quên... Trác ạ.”

Tôi không biết Trác có đồng ý lời khấn nguyện của tôi. Tôi nghĩ, nhiều phần... không! Cảm tưởng này ập tới, lập tức; khi tôi đối diện với Trác, trong quan tài.

Hình ảnh đầu tiên gây “shock” cho tôi, là đôi môi mím chặt của bạn. Tôi không hiểu chuyện gì đã xẩy ra cho bạn tôi, ngày cuối? Hiển nhiên, người phụ trách “make-up” của nhà quàn, đã xoá đi khoảng cách (phải có) giữa môi trên và, môi dưới của bạn tôi, bằng một lớp sáp dầy. Đôi môi bạn tôi, chỉ còn như một đường thẳng, bị kéo căng quá mức. Tiếc thay, sự chu đáo cực kỳ kia, lại không được sử dụng để bôi xoá một chấm đỏ, (vết máu còn tươi) nơi cánh mũi bên phải bạn tôi. Ngay hình dạng sống mũi vốn cao và, thẳng của Trác, cũng bị lệch, xô về trái. Tôi không nhận ra Trác. Tôi thấy tôi đang đứng trước một người xa lạ. Không phải Trác. Không phải bạn tôi. Dù thế, tôi vẫn lập lại lần nữa, lời khấn, nguyện riêng, của mình...

Phần Trác, Trác mím môi! Trác vẫn mím môi!

Tôi không thể cho tôi một kết luận nào, khác hơn, rõ ràng, bạn tôi không đồng ý.

Nếu đời sống là tổng số những bất toàn, thì, bạn tôi, tới lúc xuôi tay, còn được “tặng” thêm một bất toàn khác nữa!?!

Rời phòng-lưu-quan, tôi biết tôi không nên nói với chị Hà. Nhưng, tôi không thể không hỏi Hào. Hỏi Việt Nguyên. Hỏi Nguyễn Xuân Hoàng... Những người trước tôi, “gặp” Trác.

Hào đáp:

“Đúng vậy. Không giống.”

Hoàng nói:

“Kỳ quá. Sao lại thế được?”

Việt Nguyên chi tiết hơn, giải thích, thời gian nằm bệnh, sự rút ra, đút vào những ống dưỡng khí, có thể khiến môi Trác bị thương tích. Người phụ trách phần “make up” của nhà quàn, không thể làm gì khác hơn, là khâu vết thương và, dùng sáp che, lấp.

Ngoài chị Hà, tôi nghĩ, không ai có thẩm quyền hơn Việt Nguyên, nói về những giờ phút sau cùng của Trác.

Nhưng cũng không một ai, (ngay chị Hà,) có thể trả lời tôi câu hỏi, liệu Trác đồng ý với tôi “... Thời gian có đôi cánh lãng quên, tàn nhẫn. Nhưng, cạnh đó, nó cũng có đôi tay kỳ diệu...”

Cũng như, tôi tin, không một ai, (ngay chị Hà,) có thể trả lời câu hỏi, liệu Trác có vui trước lời nhắn của Nguyễn Thế Toàn (?) gửi cho Trác. Lời nhắn được viết nơi giải băng thắt ngang vòng hoa phúng, rằng: “Trác ơi! Mày đi trước. Tụi tao sẽ theo sau.”

Thực tình, tôi không được đọc cái “message” đầy tính bất biến đến thắt lòng kia, giữa rừng hoa phúng; nếu Nguyễn Ngọc Chương không kéo tôi ra ngoài hút thuốc - - Hỏi, “anh có phải là tác giả?” Tôi nói, không. Nhiều phần của anh Toàn.

“Anh Nguyễn Thế Toàn, ở Falls Church.”

Tránh gió, mưa và, Houston dưới 40 độ F., trong một góc sân, chúng tôi, Simone, Chương, Hào, Lã Huy Quý... truyền tay hút thử điếu thuốc Chương đem về từ Nam Dương. Chúng tôi ì xèo kể chuyện Trác và, “chân lý... theo nhau về bên kia thế giới” của Toàn. Chúng tôi chúc nhau ngủ ngon. Chúng tôi nhắc nhau, lái xe cẩn thận. Chúng tôi hẹn nhau, ngày mai, gặp lại... Nhưng tuyệt nhiên, không ai trong chúng tôi, nhắc nhau, kẻ nào sẽ theo Trác, sớm nhất!?!


4.

Nửa đêm, Việt Nguyên thả tôi về khách sạn.

Mở cửa bước vào, tôi không biết ai đã bật sáng, tất cả mọi ngọn đèn. Cuối phòng, máy sưởi ù ù toả hơi nóng. Tôi ngó quanh quất. Mùi ẩm mốc rình rập, đâu đó. Bất ngờ một luồng hơi lạnh từ sau lưng tôi, thổi tới. Tựa có người mới ào vào. Tôi nghe lạnh hai má. (Giống như có một chiếc lưỡi rất dài, liếm ướt mặt tôi, khởi đi từ sau gáy.)

Tôi ngoái đầu. Không ai hết. Khuôn sắt bạc, loại khoá an toàn phụ, tôi vừa gạt ngang, còn nằm nguyên đó.

Cùng với gai ốc chạy dọc cánh tay, tôi cảm giác Trác đợi tôi đã lâu. Có thể từ lúc tôi mới rời nhà quàn hoặc, ngay khi tôi vừa ra khỏi tiệm mì (nơi Trác thường đưa tôi tới ăn, cả chục năm qua.) Tôi nao núng, hoang mang tựa lưng vào thành giường...

Trước mặt tôi, bên cạnh tủ đựng TV là chiếc ghế nhung đỏ, có tay ngai, nhái kiểu ghế bành của vua, quan thuở trước. Tôi không dám nhìn Trác. Tôi sợ. Tôi không biết bạn tôi chờ đợi tôi trong hình hài nào? Trác, của hơn năm mươi năm, thời nhỏ? Hay Trác, bạn-tôi-mà-không-phải-bạn-tôi ở nhà quàn?

Tôi sợ phải thấy lại, đôi môi Trác bị khâu(?) Lớp sáp đắp dầy. Đường chỉ chạy dài. Kéo căng quá độ.

Tôi sợ không biết phải trả lời sao, một khi Trác hỏi:

“Cậu thấy tụi nó láo không, khi chúng dám lấy sáp đắp lên môi tớ?”

Tôi sợ Trác nói, Trác không đồng ý, những gì tôi đã cầu, nguyện, cho Trác.

Tôi sợ Trác bảo:

“Chỉ khi nào ở trường hợp của tớ, cậu mới có thể hiểu được.”

Trác nói đúng. Mọi tỏ bày, mọi an ủi, thậm chí điều tiếng... chỉ là những bì phu. Lớp vỏ ngoài. Nó không hề chạm, đụng chút nào, tới cái chết.

Tôi hiểu, chúng ta chỉ có thể có kinh nghiệm về cái chết, sau khi đã bước lên chuyến tàu về hư vô. Và, không chỉ hành khách, ngay chuyến tàu, sau đó, cũng không lưu dấu, vết.

Nhưng, điều tôi sợ hơn cả, (tới rùng mình,) nếu thình lình, Trác bảo:

“Tớ biết cậu... sợ! Tớ biết cậu sợ nhiều điều! Thí dụ, xác chết... Nên, thôi. Tớ đi đây!”

Trác không sai. Trác quá đúng. Trác rất tinh tế. (Như trước đây, những lần rời khách sạn, Trác thường nói “Biết cậu mệt. Cậu buồn ngủ. Tớ đi. Cho cậu ngủ.”) Nhưng lần này, cái tế nhị, lo toan cho bạn, của Trác, khiến tôi thức trắng.

Trong khi chờ “ngày mai” gõ cửa, tôi mở đèn cả đêm. Mở thêm TV. Cho có tiếng.

Cuối cùng, “ngày mai,” chậm mấy, rồi cũng tới.

Dù không chắc buổi chiều có trở lại, nhưng trước khi đóng cửa phòng, tôi vẫn cố tình để đèn. TV. Và máy sưởi.


5.

Cái “ngày mai” chúng tôi hẹn nhau, đã đi qua cùng những giọt lệ hiếm hoi, làm nghẹn, tắc những bày tỏ quý, trọng, thương, yêu Trác, của những người sinh thời, Trác vốn coi họ là lớp đàn anh, đàn chị. Như chị Nguyễn Văn Thơ; như các anh Nguyễn Ngọc Linh, Hà Ngọc Cư, Vũ Quang, Ngô Hữu Liễn, Vũ Quang Ninh... Hoặc những người sinh thời, Trác có tình bằng hữu đặc biệt, như chị Triều Giang; như các anh Trần Văn Ân, Nguyễn Xuân Hoàng, Lê Mộng Hùng...

Cái “ngày mai” chúng tôi hẹn nhau, không những đã đến mà, còn mang theo sương muối, thả đầy những-khoang-thuyền-mắt của số bằng hữu thân, quý khác, của Trác, như anh chị Thanh Thuỷ-Dương Phục, Phương Hoa-Đăng Khánh; các anh chị Tô Thuỳ Yên, Lê Văn, Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Thế Linh, Lã Huy Quý, Nguyễn Quốc Cường, Lê Đức Long...

Cái “ngày mai” chúng tôi hẹn nhau, cuối cùng, đã đi qua. Nó cũng về hư vô (tôi nghĩ thế,) cùng những vái, lậy cuối cùng của chị Hà và các con - -

Sau khi thầy Thích Huyền Việt, (trụ trì chùa Bửu Môn, đến từ thành phố Beaumont,) chấm dứt thời kinh “sinh ký tử quy,” ngắn.

Nó đã đi qua, (tôi nghĩ,) có thể ngay khi tang quyến còn phủ phục trước di ảnh chồng, cha, người phụ trách việc mồi ngọn lửa thiêu, đốt thân tứ đại của Trác, đưa tay bật nút điện.

Tôi thấy (không nghe được,) ngọn lửa bùng lên trong lò thiêu. Và, tôi nghe (không thấy được,) nhiều tiếng nấc lênh đênh, la đà, bay ngang những mái đầu, cúi xuống.

(Calif. Jan. 09.)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 17095)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12304)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19034)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9206)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 8380)
Mới đây, có người hỏi tôi, nếu không có “mắt xanh” Mai Thảo, liệu hôm nay chúng ta có Dương Nghiễm Mậu?
(Xem: 659)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 1036)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1212)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22504)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14042)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19216)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7930)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8849)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8521)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11099)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30752)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20839)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25548)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22934)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21770)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19825)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18077)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19285)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16946)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16134)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24538)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 31988)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34952)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,