(Tiếp theo kỳ trước)
Trong bức thư dài trả lời báo Bách Khoa cuối năm 1973, họ Phạm viết:
“Nguyên liệu đầu tiên để xây dựng họa phẩm của tôi là tế-bào. Ai cũng biết tế-bào là nguyên ủy của sự sống kết tinh từ thuở khai thiên lập địa. Trong cảnh hỗn mang của trời đất tế-bào sinh sôi nẩy nở kết tụ, thành mọi sinh vật sống từ côn trùng, cây cỏ, cầm thú cho đến con người. Trời đất hỗn mang khi xưa có khác chi cái xã hội hiện tại mà chúng ta đang sống? Tro bụi, điêu tàn, băng hoại, đổ vỡ.
“Gieo tế-bào như gieo mầm sống mới, trong một thế giới mới, với một tổ chức, một trật tự mới đặng thế vì cho những cái tàn rụi, nát rữa, trong hội họa, ngoài xã hội và ngay cả chính ta nữa…”
Bằng vào quan niệm trên, họ Phạm cho biết, ông bắt đầu từ cái tế bào nhỏ bé, và ông có cảm tưởng như đang xây dựng lại chính con người của ông vậy.
Nói cách khác, vẫn theo họa sĩ Phạm Tăng thì, từ tế-bào đầu tiên là cái tôi nguyên thủy, ông đi dần tới sự tập hợp của hàng triệu tế bào tuần tự nẩy sinh, dẫn hình ảnh của cái tôi khác nhau, nối kết lại từ hình dạng bào thai trở thành con người. Kết cuộc là gì? Là những hình ảnh được cấu tạo trong tranh của họ Phạm, có thể ví như những hình ảnh của chính tác giả.
“Toàn thể tranh là cái tôi cuối cùng.”
Ông nhấn mạnh và giải thích thêm rằng, ngẫm cho kỹ thì cứ mỗi giây phút trôi qua, không biết bao nhiêu là cái tôi không giống nhau, trùng điệp, cái nọ lan sang cái kia, tựa như một vết mực loang trên mặt giấy. Không ngưng đọng một hình thể cố định nào. Bởi vậy chúng ta sẽ không thể nào có được một bức ảnh chụp hình ảnh của tâm tư con người luôn biến động, dù chúng ta có trong tay một chiếc máy ảnh tinh vi nhất.
Quan điểm này của họa sĩ Phạm Tăng rất gần với quan điểm của Phật giáo cho rằng, cái tâm vốn động hay, những suy nghĩ của con người như sự chuyển động không ngừng, cụ thể qua hình ảnh “Tâm viên, Ý mã.” (11) Hoặc, một tư tưởng, hình ảnh vừa mới nhớm lên thì, một ý tưởng hay hình ảnh khác, đã nhào tới. Hiện ra. Không giây lát ngưng nghỉ!
Tuy nhiên ở đây, chúng ta thấy có một sự khác biệt, nếu không nói là đối nghịch lớn, giữa quan điểm của Phật giáo và họa sĩ Phạm Tăng:
Phật giáo quan niệm để cho tâm có được những giây phút bình an thì, chúng ta phải triệt tiêu những lăng xăng, bất nhất, đổi thay không ngừng của tâm trí. Đó là lý do ra đời của các môn phái Thiền. Riêng, họa sĩ Phạm Tăng thì ngược lại. Ông nói:
“Những hình thể mà tôi tạo nên tranh không khuôn bó trong một chu giới nhất định. Tôi dụng ý để cho những hình thể đó khi ẩn, khi hiện, lúc tỏ, lúc mờ. Hình nọ lan sang hình kia, tựa hồ như những khối tế bào được tự do co dãn, nảy nở.”
Từ đó, ông đi xa hơn:
“Để thể hiện sự sống mong manh của từng tế-bào, tôi tạo những vòng đồng tâm li ti kết tụ quanh hạt nhân ở giữa. Mỗi đường vòng là một mầu đối chiếu trong ngũ sắc. Mầu nọ phản ứng mầu kia tạo nên một cảm giác tựa hồ như có tính chất phát quang. Ánh sáng đó có thể gọi là ánh sáng tự tại xuất phát tự bên trong từng cái sống nhỏ nhoi thoi thóp của từng tế bào một.”
Ý họ Phạm muốn nói, cũng như trong cơ thể của một con người, mỗi giây phút đếu có hàng triệu tế bào chết đi và, cùng lúc hàng triệu tế bào khác cũng được sinh ra, làm thành sự sống toàn diện của con người có cảm xúc trên bức tranh: Từ một, hai hay nhiều ngàn ánh sáng nhỏ tập hợp lại, kết tụ vào nhau, chuyển vận thành những hình dạng sinh động của những vật thể mới, ươm mầm và, ngoi lên tìm sự sống trong ánh sáng.
Ông quan niệm, muốn được như thế, phải kết hợp những tế bào nhỏ li ti theo một nhịp nào đó của đường nét mà ông gọi là “nhịp sống.”
Bước vào phần kỹ thuật tạo hình được xây dựng trên quan điểm nghiêng nặng về tính thuần nhiên, hoặc cũng có thể nói đó là quan niệm thẩm mỹ hội họa mới (mang tính triết lý của riêng Phạm Tăng), họ Phạm nhắc nhở rằng, sống là động, là chuyển dịch cả trong những trạng thái tĩnh nhất. Không chỉ ở những sinh vật sống, thuộc loài động vật hay thảo mộc mà, ngay cả những vật vô tri cũng chuyển đổi không ngừng… Đề cập tới những chuyển động ngoại (không mang tính nội tại, như không khí), họa sĩ Phạm Tăng viết:
“Nhìn những mạch chuyển động của lớp không khí bao trùm địa cầu, thực chẳng khác chi những đường vân xoay tròn trong con ốc biển. Nhìn vào lòng mình, tôi cũng thấy hiển hiện những đường nét đó… Nhất nhất mọi trạng thái cảm xúc đều có thể vẽ thành những đường nét uyển chuyển trùng điệp gắn bó vào nhau, chẳng khác chi những đường nét biểu hiện cái nhịp sống của sự vật…”
Vẫn theo họ Phạm thì, dù bên trong hay ngoài, “nhịp sống” kia vẫn chi phối tất cả. Nếu thể hiện nó lên tranh thì, nó sẽ tác động tới những hình thể đã được kết tụ do tổ hợp các tế bào, khiến cho những hình thể đó trở nên sống động.
“Như vậy có thể nói tranh không còn là phản ảnh của thực tại, cũng không còn dấu vết gì gợi nhớ đến những cái thường thấy, mặc dù nguồn cội thâm sâu của nó vẫn xuất nguyên từ tạo vật.” Chủ nhân sáng tạo những tổ hợp tế-bào trong tranh, khẳng định.
Tuy nhiên, trước khi kết thúc phần quan niệm hay, nỗ lực khai phá con đường riêng của mình, họa sĩ Phạm Tăng kết luận:
“… Theo ý tôi, những sự giảng giải trình bầy kia thực là vô ích. Giả sử có ích lợi chút nào thì chỉ cho riêng tôi để có thể nhìn lại chính mình, xếp đặt mọi sự trong tôi có trật tự hơn. Ngoài ra đối với người xem không có chi là quan hệ. Tại sao vậy? Tôi xin trả lời ngay: Tại cái hồn tranh. Nếu tranh có hồn như một vật thể sinh động thì tự nó hấp dẫn người xem. Giữa người xem và nó có sự thông cảm trực tiếp, không cần phải có kẻ đứng sau nó mà giảng giải. Nếu tranh không có hồn thì dù có giảng giải bằng thiên kinh vạn quyển nó cũng không thể sống được, và như thế cùng lắm cũng chỉ có thể vứt tranh vào đống rác hoặc trong một bảo tàng viện nào đó để cho nhện chăng mà thôi!” (12)
Du Tử Lê,
(Còn tiếp một kỳ)
_________
Chú thích:
(11) “Tâm viên” là tâm vượn, là tâm loạn động như vượn hay khỉ. Loài khỉ thường hay nhảy nhót, khọt khẹt, đứng ngồi không yên, thường chuyền hết từ cành cây này sang cành cây khác, lại hay phá phách bắt chước nên người đời có câu "liếng khỉ" (…) “Ý mã” tượng trưng cho ý nghĩ của con người rong ruổi, đuổi theo ngoại cảnh, không dừng lại, giống như ngựa phi vậy. Hằng ngày, ý tưởng trong đầu chúng ta, cứ chạy lung tung như ngựa chứng… (Nguồn Wikipedia-Mở)
(12) Nguồn: Tạp chí Bách Khoa, Giai Phẩm Xuân, Saigon, 1974.