Thi phẩm bạn đang cầm trên tay, là kết quả tim, óc trên dưới bốn mươi năm làm thơ của nhà thơ và, cũng là nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường.
Thi phẩm của họ Nguyễn được chia thành ba phần: “Thiên nhiên,” “Chân dung” và “Ta xa nhau thành thơ”.
Ở phần “Thiên nhiên,” trước khi bước vào thế giới của những rung động chân thiết xây trên những vần điệu tự thân ngọt ngào, ông viết:
“…Một lần tôi chợt nhớ ra, mình cũng có một tuổi thơ. Và sau tia sáng hiếm hoi lóe lên ngắn ngủi, soi vào những hang dộng thẳm sâu mịt mùng ký ức, tôi lại thèm vẽ vời mộng mị, thèm cười vang lên dưới khung trời, thèm khóc yên thân trong cõi nào đó riêng mình, mặc cho thời gian luôn cười mỉa mai, và không gian chẳng bao giờ độ lượng…
“Hạnh phúc, khổ đau muôn đời là câu chuyện dài. Cả hai hồ như đã rủ rê nhau, thăng hoa thành giấc mộng. Phải chăng đó là một cuộc sum vầy thiêng liêng, nhiệm mầu đôi khi thê thảm…”
Ở đoạn văn ngắn mà chúng tôi vừa trích, có hai cặp đối đãi vốn tương thích hữu cơ với nhau là, “thời gian / không gian” và, hạnh phúc / đau khổ”.
Hai phạm trù mà Nguyễn Đức Cường nêu ra, với tôi, như hai yếu tính mà nhân loại, dù ở đâu, thế nào cũng như những chiếc bóng lớn chi phối tất cả mọi cuộc đời.
Do đó, vấn đề còn lại, chỉ là cách thế mỗi chúng ta tiếp nhận cái định mệnh bất khả chuyển ấy.
Chính cách thế ứng xử với cuộc đời, với định mệnh mà, mỗi chúng ta có lấy cho mình một chân dung riêng.
Cũng từ cách thế ứng xử kia, mỗi nhà thơ, mỗi thi sĩ dù cùng nổi, chìm trong dòng sinh mệnh, chung nhau một thiên nhiên, một vòm trời, nhưng họ vẫn có được cho riêng họ, một thẻ nhận dạng khác khác.
Thẻ nhận dạng của một Nguyễn Đức Cường thi sĩ, làm thành chân dung riêng ông là:
“Tôi là một kẻ âm thầm / sống giữa mùa thu / thở bằng lao xao giữa miền lá rụng / những lần nhớ đến cô đơn / tôi đi tìm mưa phùn / mà không nhớ chân mình tê buốt…”
Trong tương thích với cuộc đời, với tha nhân, thơ của ông ân cần như thể dặn dò với kẻ thứ hai, trong chính ông:
“Nếu em thích màu xanh / xin đừng tìm trong lá / nếu em thích màu hồng / xin đừng tìm trong hoa // nếu em cần niềm tin / đừng chờ mong sách vở / nếu em cần nụ cười / đừng trông ngóng tương lai…”
Chỉ với hai bài thơ đầu tiên của phần “Thiên nhiên”, Nguyễn Đức Cường đã mạnh mẽ cho thấy quan niệm và, những rung động thẳm, sâu của ông với đời sống, đã là một cảm, nhận khác. Một cảm, nhận chỉ có với (hoặc rất riêng) Nguyễn Đức Cường.
Thơ ông, như thế, đã như những cuộc phiêu lưu, những dò tìm, khám phá tầng tầng đáy sâu ký ức.
Những đỉnh trời thơ ông vươn tới, những vực sâu thơ ông đắm chìm, luôn mang lại cho người đọc những “chân dung” mới, lạ, bất ngờ.
Cũng vậy, ngay khi bước vào trang thơ thứ nhất của phần “Chân dung” ông viết:
“Mẹ là ngôi chùa nhỏ / đón con về nương thân / mẹ là đôi mắt tỏ / tha cho con lỗi lầm…”
Hoặc:
“Khi thời gian đọng lại / nếp chùng gương mặt cha / như nẻo đường thơ ấu / một thời con đi qua…”
Tôi chưa thấy một thi sĩ nào so sánh hình ảnh người mẹ với “ngôi chùa nhỏ”.
Tôi cũng chưa thấy một nhà thơ nào, qua những nếp nhăn trên gương mặt cha, mà cảm, nhận được cùng lúc, bước chân thời gian trong hành trình cuối đường của người. Đồng thời, đó cũng là bước khởi hành, của người con.
Tôi không nghĩ câu thơ này là một liên tưởng choáng váng. Tôi nghĩ nó hơn thế. Nó mang tính song-trùng-sinh-mệnh. Sự xuất hiện cùng lúc hai cuộc đời tương tác, trên dòng sông thời gian xiết, chảy.
Tính song-trùng-sinh-mệnh (dù nghịch, đảo) này, tôi nghĩ chỉ có thể có được từ một nhà thơ mà, tâm hồn, trái tim y ở ngoài cõi giới điên đảo nhân gian này.
Họ Nguyễn, với tôi, chính là người có tâm hồn, có trái tim mẫn cảm đó.
Tính song-trùng-sinh-mệnh, nét đặc thù trong cõi giới thi ca Nguyễn Đức Cường, còn thấy được ở rất nhiều bài thơ khác.
Những bài thơ trong phần “Ta xa nhau thành thơ”, tính chất này cũng thấp thoáng giữa những môi dung hạnh ngộ với chia ly, lầm than với rực rỡ…
Tất cả vẫn lấp lánh đâu đó giữa những dòng thơ (dù cho rất êm ả) của họ Nguyễn.
Với “Cõi buồn”, bài thứ nhất mở vào phần thứ ba này, tôi cũng bắt gặp tính nghịch đảo thân thiết mà, xót xa, như:
“Em về trên đầu non / cuốn theo làn bụi mỏng/ anh đi tìm vô thường / âm thầm nơi cuối sông // Em băng qua rừng sâu / khói sương vờn mái tóc / anh mơ màng biển dâu / thấm ơn đời mưa móc…”
Càng đọc thơ Nguyễn Đức Cường, tôi càng hiểu vì sao ông viết:
“Hành trình tôi cô đơn, tôi ngồi yên đón nhận hành trình. Những sớm mai hồi sinh dưới ánh mặt trời chói lọi, những buổi chiều thoi thóp hôn mê trong hoàng hôn tàn tạ, và những đêm khuya, loài dơi đen buông đôi bàn chân gầy trên những cành khô, nhìn tôi nằm bất động như một tử thi…Hành trình tôi len lỏi dưới bầu không khí trầm luân khổ luỵ bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, từng khi vang dội bài ca dao vô tận của hư không, từng khi im lặng đến bang hoàng tiếng rơi dịu dành của thời gian, tự bao giờ vẫn luôn là một tình nhân thân thiết, vội vàng…” (Trích Nguyễn Đức Cường, mở vào phần “Chân dung”.
Cũng vậy. Càng đọc thơ họ Nguyễn, tôi càng thấy, dù ông chia thi phẩm của ông thành ba phần, nhưng tựu trong nó vẫn là một.
Tôi muốn nói, thuỷ chung, vẫn là một Nguyễn Đức Cường, thi sĩ.
Một Nguyễn Đức Cường bạt ngàn rung cảm tế vi.
Một Nguyễn Đức Cường triết nhân, dù trôi lăn trong trạng huống nào, trên môi ông, vẫn là nụ cười đôn hậu, sáng trưng niềm biết ơn cuộc sống.
Tôi muốn nói, nơi mỗi vần thơ của ông, tự thân là, một cõi trú. Hay, mỗi bài thơ của ông tự thân là, một cứu-rỗi-hào-phóng-nhân-sinh.
Phải chăng vì thế, Nguyễn Đức Cường không nhắm ném thơ của mình vào những cuộc cách tân, đổi mới hình thức hoặc cấu trúc ngôn từ - - Mà, điều ông thao thức, trăn trở chính là sự đi tới tận cùng của những trải nghiệm tâm linh, tình cảm và, đời sống?
Tới đây, xin các bạn, cho phép tôi được khép lại bài viết này, bằng một bày tỏ của chính họ Nguyễn, như một trân trọng riêng, cá nhân tôi, với Nguyễn Đức Cường, thi sĩ:
“Vì thế, giờ đây, tôi xin được ngừng lại trong khoảnh khắc, để viết vội đôi dòng Thơ Tình bé nhỏ này, thay lời Tạ ơn một ngày xưa tôi đã sinh ra. Và mừng thay, nếu như tôi còn có thể tạ ơn cả một ngày mai, nơi cuộc đời mãi đẹp, tôi lại được nằm mộng, Giấc mộng ban sơ thời Thơ ấu.”
Vâng! Tôi tin, Nguyễn Đức Cường chẳng những sẽ còn “một ngày mai” mà, “ngày mai” sẽ ở với ông. Mãi mãi. Như thơ của ông mãi mãi ở với những người yêu thơ ông vậy.
Du Tử Lê
(