Du Tử Lê/ 50 Năm (Tác Phẩm 50)

23 Tháng Sáu 202112:32 CH(Xem: 4192)
Du Tử Lê/ 50 Năm (Tác Phẩm 50)



DTL_50Nam_w-content


DU TỬ LÊ/ 50 NĂM

(1957-2007)


NHIỀU TÁC GIẢ

du tử lê / 50 năm

(1957-2007)

nhiều tác giả.

tác phẩm thứ 47 của du tử lê.

mẫu bìa: nguyễn bá hân.

tranh bìa: đinh cường

(du tử lê và hoa poppy)

trình bày: vương trùng dương.

phụ bản họa:

đinh cường. hồ thành đức. đỗ trung quân.

in tại nhà in t&l printing (714) 435-0991.

tự lực tổng phát hành

14318 Brookhurst St., Garden Grove, CA 92843.

tel.: (714) 531-5290.

e-mail: buybooks@tuluc.com . trang nhà www.tuluc.com

hội văn hóa khoa học việt nam ấn hành lần thứ nhất,

tháng 11 năm 2007.

địa chỉ: Hội VHKHVN

4615 Belle Park dr.

Houston, TX 77072

copyright @ 2007 by du tu le & hvhkhvn.


TUYỂN TẬP

DU TỬ LÊ / 50 NĂM

(1957-2007)

HỘI VĂN HÓA KHOA HỌC VIỆT NAM, 2007.


Lời nói đầu,

Tuyển tập “Du Tử Lê / 50 Năm” quý vị đang cầm trên tay là ấn phẩm do hội Văn Hóa Khoa Học Việt Nam (VHKHVN) thực hiện để đánh dấu buổi vinh danh nhà thơ Du Tử Lê, do hội tổ chức ngày chủ nhật 18 tháng 11 năm 2007 tại Stafford Performing Arts Centre, một thính đường sang trọng, lịch sự với hàng ngàn chỗ ngồi tại Houston , Texas .

Buổi vinh danh nhà thơ Du Tử Lê, với chủ đề “Du Tử Lê, 50 Năm Trên Ngọn Tình Sầu”, được tổ chức nhân thời điểm 50 năm sáng tác thi ca của nhà thơ. Chương trình bao gồm các ca khúc phổ từ thơ Du Tử Lê, do các nghệ sĩ Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Bích Liên, Lê Hồng Quang, Tiểu Muội, và Bạch Hạc trình bầy, với tiếng đàn phụ họa của một giàn nhạc cổ điển Tây phương cùng tiếng đàn tranh và sáo trúc Việt Nam.

Bên cạnh các tiết mục ca nhạc, chương trình còn bao gồm phần giới thiệu nhà thơ Du Tử Lê cùng những nét khái quát về sự nghiệp văn chương của ông, và phần trình chiếu một cuốn phim ngắn ghi lại những nhận định của một số văn nghệ sĩ về nhà thơ Du Tử Lê qua hai khía cạnh: con người và tác phẩm của ông. Nhà thơ Du Tử Lê thành danh rất sớm, chỉ vài năm sau khi ông có bài thơ đăng báo lần đầu với bút hiệu Du Tử Lê vào năm 1957, tức đúng 50 năm trước. Năm 1972, ông được trao Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn Thơ. Cho đến hôm nay, Du Tử Lê là nhà thơ Việt Nam duy nhất có thơ được chọn đùng làm tài liệu giảng dậy tại các đại học nổi tiếng như Harvard, Berkeley và UCLA tại Hoa Kỳ cùng Cambridge tại Anh quốc. Tuy nhiên, điều đáng quý nhất ở nhà thơ là ông đã sống trọn vẹn với thi ca trong suốt 50 năm qua với một sức sáng tác liên tục và bền bỉ.

Có thể nói Du Tử Lê là một hiện tượng của thi ca Việt Nam hiện đại. Trong 20 năm qua, đã có dến hàng trăm bài biên khảo và nhận định về thơ Du Tử Lê được đăng trên các tập san văn học. Tác giả của những bài này thuộc nhiều lớp tuổi cũng như thành phần trong xã hội. Có vị đã “thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ” nhưng cũng có vị phải cả mười năm nữa mới đến ngưỡng cửa “tam thập nhi lập.” Có người là văn nghệ sĩ hoặc nhà báo chuyên nghiệp, nhưng cũng có người là giáo sư đại học, kỹ sư, bác sĩ, luật sư, chuyên viên tài chánh, doanh nhân, sinh viên, và cả những tu sĩ Công giáo, Phật giáo, v.v. Có tác giả còn dành hẳn một tác phẩm dầy 250 trang để phê bình thơ Du Tử Lê. Sự kiện này nói lên mức ảnh hưởng sâu rộng của thơ Du Tử Lê trong dòng sinh hoạt văn học hôm nay. Đó cũng là lý do khiến hàng trăm nhạc sĩ, ở cả quốc nội lẫn hải ngoại, đã chọn thơ ông để soạn thành ca khúc. Đa số những bài đăng trong tuyển tâp 50 Năm” được chọn từ hàng trăm bài viết nêu trên. Phần còn lại là những bài viết mới, chưa hề được đăng tải trên sách báo.

Tác giả những bài trong tuyển tập, dù viết về những khía cạnh khác nhau của thơ Du Tử Lê và con người Du Tử Lê, đều có chung một mẫu số: Ông là một nhà thơ lớn với khối lượng sáng tác đáng kể, không những có giá trị nghệ thuật mà còn mang dấu tích lịch sử. Thật vậy, thơ ông là tiếng nói của một giai đoạn khốc liệt trong dòng lịch sử dân tộc, một giai đoạn chất ngất những đớn đau, mất mát, tuyệt vọng, và hy vọng.

Hôm nay, hội VHKHVN vinh danh nhà thơ Du Tử Lê để cảm tạ những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam suốt 50 năm qua. Trong quá khứ, hội đã vinh danh nhà văn Doãn Quốc Sỹ vào năm 2000 và nhạc sĩ Cung Tiến vào năm 2003.

Hy vọng hội có thể tiếp tục thực hiện những chương trình tương tự trong tương lai nhằm tri ân những văn nghệ sĩ đã bỏ cả cuộc đời để tận tụy phụng sự cho nghệ thuật, đểõ làm giầu cho nền văn học Việt Nam, và để làm đẹp thêm tâm hồn chúng ta.

Cuối cùng, hội VHKHVN xin chân thành cảm tạ các tác giả những bài trong tuyển tập này cùng quý độc giả của tuyển tập. Xin kính chúc quý vị mãi mãi được bình an, hạnh phúc.

Hội VHKHVN



CỔ NGƯ,

KHÚC CA RIÊNG CỦA CHÀNG, BIẾN TẤU 3.



Yêu Dấu,

Dường như mỗi ngày, nỗi biệt ly, lòng nhớ thương lại mang đến cho tôi một khuôn mặt khác. Biệt ly và lòng nhớ thương, như khí hậu, như thời tiết. Những tháng ngày xa nhau, không chỉ cho tôi khí hậu bốn mùa, vòng quay trái đất. Những giờ phút mất nhau, không chỉ cho tôi đìu hiu nắng gió, mà, Yêu Dấu, dường như biệt ly và, nhớ thương, còn cho tôi một thứ khí hậu, một loại thời tiết chưa từng ; và, sẽ không hề có, nơi hành tinh này.

Yêu Dấu,

Tôi muốn gọi đó là nhan sắc lầm than của vầng trăng tình yêu, cửa khác.

Đĩa nhạc “K. Khúc Của Lê 3” đã mở đầu bằng một lời  dẫn như thế. Lần lượt, “Yêu Dấu” sẽ có dịp song hành cùng những “con ve sầu mùa hè”, “cánh bướm cổ tích”, “con ngài tội nghiệp không ngày mai”, “con bò nhai lại quá khứ”, “con chim vỡ ngực không thấy được tim mình”... để đưa người nghe đến với từng ca khúc, như, hơn ba mươi năm trước, “bầy sẻ cũ hom hem” và “con dế buồn, tự tử giữa đêm sương” đã được âm nhạc Từ Công Phụng dẫn dắt từ cõi thơ Du Tử Lê đến với người thưởng ngoạn.

Liên tiếp trong ba năm 2000, 2001, 2002, hai mươi chín ca khúc, trích từ hơn ba trăm ca khúc phổ thơ Du Tử Lê đã lần lượt được giới thiệu trong các đĩa nhạc “K. Khúc Của Lê” 1, 2 ... 3. “Khúc Ca Riêng Của Chàng”, như thế, đã có nhiều người cùng góp tiếng hát, để, từ chốn riêng của Lê, đem trải rộng ra cả cõi nhân gian (ở chỗ có thể cảm thông) này. Vậy trong “K. Khúc Của Lê 3”, niềm riêng nào đã được thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ gửi đến chúng ta? Có phải đó là trăng, nhưng không còn là vầng trăng tình yêu, mà chỉ là mảnh trăng xứ lạ, nhẫn nại dõi theo chiếc bóng đơn cuả nhà thơ đằng đẵng suốt ba năm trời, để một đêm vỡ oà, đổ dài trên dòng lục bát :

Đêm về, theo bánh xe lăn,

Tôi-trăng viễn xứ, hồn thanh niên vàng,

Tìm tôi, đèn thắp hai hàng,

Lạc nhau cuối phố, sương quàng cổ cây...

Có phải đó là “mưa Thị Nghè”, “nắng Trương Minh  Giảng”, là nỗi nhớ về một không gian xa, xưa, đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương đẩy đến những nốt cao buốt xoáy với “nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường”? Ca khúc “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn”, sáng tác năm 1983, có thể xem là ca khúc được phổ biến rộng rãi nhất kể từ sau năm 1975 của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Các tiếng hát Thái Thanh, Lệ Thu, Ý Lan, Vũ Khanh, Phạm Thành, Lê Hồng Quang... , và ở đây, tiếng tơ vàng Quỳnh Giao, đã ghi khắc những hình ảnh “tôi-xa lộ”, “nhà-Hàng Xanh”, “nghĩa trang-quê hương bạn bè”... đậm dấu trong lòng người thưởng thức.

Dường như, giữa thơ Du Tử Lê và nhạc Phạm Đình  Chương đã có một gắn bó định mệnh. Bản nhạc cuối cùng nhạc sĩ Phạm Đình Chương để lại cho đời, “Quê Hương Là Người Đó”, phổ từ một bài thơ cùng tên của Du Tử Lê, và bản nhạc đầu tiên ông sáng tác sau khi định cư ở Hoa Kỳ, năm 1982, có tên “Khi Tôi Chết, Hãy Đem Tôi Ra Biển”, cũng phổ từ một bài thơ cùng tên của thi sĩ họ Lê, viết trước đó bốn năm. Nhạc điệu chậm buồn, đều đặn tuôn chảy theo những câu thơ tám chữ, tựa một tiếng thở dài não nuột:

Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển,

Đời lưu vong không cả một ngôi mồ,

Vùi đất lạ, thịt xương không tan biến,

Hồn không đi, sao trở lại quê nhà?

Quê-nhà ở đâu? Bên kia biển, bên kia trời là quê hương  tôi đó! Người làm thơ, người đặt nhạc, trong những ngày đầu ngơ ngác nơi xứ lạ, có chung một niềm đau, một nỗi nhớ. Và biển, biên giới mênh mông, cắt đứt đường bay của chim, cũng là lối thoát, để hồn theo xác lênh đênh tìm về đất mẹ. Trong đĩa nhạc “K. Khúc Của Lê 3”, tiếng hát ray rứt, đôi chỗ nghẹn ngào của Anh Khoa ở đoạn chuyển nhạc cuối bài như tan nhoà vào tiếng sóng, lịm tắt trong lòng biển thẳm:

Khi tôi chết, nỗi buồn kia cũng hết,

Đời lưu vong tận tuyệt với hồn tôi...

Ở “Người Về Như Bụi”, phổ từ “Một Bài Thơ Nhỏ”, là tâm cảnh khác, giữa một thời gian khác. Sáng tác tại Sài Gòn, bài thơ được đăng trên báo Văn năm 1967, được nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo phổ nhạc năm 1969, nhưng mãi mười lăm năm sau mới được thu âm tại Hoa Kỳ và được giới thiệu trong album “Tịnh Tâm Khúc”. Cùng với các tiếng hát Hải Lý, Khánh Ly, Thái Hiền, Mai Hương trong album này, trên nền nhạc khúc khi chậm rền lúc thánh thót, giọng nữ cao trong suốt của Kim Tước đã phác hoạ lại một chân dung, Huyền Châu, mà trước đó đã thấp thoáng ẩn hiện trong “Trên Ngọn Tình Sầu”:

Người về, sương động chập chùng,

Tả tơi phấn hương,

Người về trong gương

Thấy mình mất tích,

Người về, tang thương...

Cũng tại Sài Gòn, để đánh dấu một mối tình, hai bài thơ “Như Xa Miền Yên Vui” và “Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt” lần lượt được nhà thơ Du Tử Lê sáng tác trong hai năm 1972, 1973 và được hai nhạc sĩ Phạm Duy, Trần Duy Đức phổ nhạc ngay khi ấy. Sau đó ít lâu, “Như Xa Miền Yên Vui” được Duy Quang thu âm vào băng nhựa, như đã từng thu âm hai tình khúc “Kiếp Sau, Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau” và “Tình Sầu” (đều cùng thơ Du Tử Lê, nhạc Phạm Duy). Nhạc phẩm “Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt” không được cái may mắn đó. Hơn mười năm sau khi ra đời, 1985, lần đầu tiên bài hát được thu âm qua tiếng hát Hải Lý trong băng nhựa cùng tên, do nhà thơ Nguyên Sa phát hành. Bốn năm sau, 1989, đến lượt Khánh Ly. Với đĩa nhạc “K. Khúc Của Lê 3”, những rung động từ hai ca khúc trên, qua các giọng nam trung trữ tình đầu thế kỷ hai mươi mốt của Đinh Ngọc và Trần Thái Hoà, vẫn giữ nguyên vẻ tươi mới. Hãy nghe Đinh Ngọc nhắc:

Hỡi Nhỏ rất buồn, buồn như con sông,

Buồn như chiếc lá những đêm mưa sầu,

Buồn như cái kiến, buồn như bướm,

Bướm ốm o, và Nhỏ cũng ốm o...

Hãy nghe Trần Thái Hoà than thở:

Rồi em bỏ tôi đi

Trong một buổi sáng Sài Gòn đầy lá

Hay em bỏ tôi đi

Trong một buổi chiều nắng ăn lốm đốm da em...

Để nhớ về một mối tình thơ dại, một khuôn dáng thân yêu giữa phố xá Sài Gòn, ngày ấy, hay có khi, quá khứ, chỉ là mới hôm qua...

Từ ca khúc “Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt”, tình bạn bền đậm của người thơ và người nhạc đã tìm được khởi điểm để đâm rễ, nảy chồi, kết quả. Giữa những hoa trái tươi đẹp của cây đời ấy, phải kể đến đĩa nhạc “Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau” (1989) gồm mười ca khúc Trần Duy Đức phổ từ thơ Du Tử Lê và được trình bày qua các giọng hát nổi tiếng: Khánh Ly, Lệ Thu, Lê Uyên, Anh Ngọc, Tuấn Ngọc, cùng với phần hoà âm của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng. Ngoài ca khúc “Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt” đã nói đến, “K. Khúc Của Lê 3” cũng giới thiệu lại hai nhạc phẩm “Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau” và “Nhớ Lại Trong Đêm Nay” trong đĩa nhạc đầu tay này của nhạc sĩ Trần Duy Đức. Trong bài thơ “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu”, khi nhắc về một cuộc tình nhiều trắc trở, lắm dị nghị, Du Tử Lê đã viết :

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu,

Em còn nắng gió tới mai sau?

Thấy nhau mà lệ không sao chảy,

Riêng máu còn sôi phút nghẹn ngào...

Khi soạn thành tình khúc “Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau”, nhạc sĩ Trần Duy Đức đã để giọng ca tráng kiện của Anh Ngọc thay lời nhà thơ, cất tiếng khẳng định ở phần kết:

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu

Tôi với Người chung một trái tim.

“Nhớ Lại Trong Đêm Nay”, 1979, là một trong những bài thơ đầu tiên của Du Tử Lê viết trên xứ người, sau này được in lại trong tập “Thơ Tình / Love Poems” (1985). Nhịp luân vũ trong ca khúc cùng tên đã hôn phối trọn vẹn với bài thơ năm chữ đoạn vui đoạn buồn của dòng phim hồi ức:

Nhớ lại trong đêm nay

Từ ngôi trường thơ ấu

Nhớ mặt từng ông thầy

Nhớ chỗ ngồi cuối lớp...

...

Nhớ lại trong đêm nay

Nửa đời qua thoáng chốc

Bạn bè như lá cây

Rụng giữa mùa rất biếc...

Đong đưa theo nhịp Í, ở cuối bài, chất giọng khàn nhưng chắc nịch của Lê Uyên vụt dướn cao, mãnh liệt đầy cảm xúc:

Nhớ lại trong đêm nay

Cả trăm điều muốn khóc,

Còn ta trong Việt Nam,

Tiếc gì dòng máu cuối...

Lại cũng là một lời khẳng định: dù sống chết tha phương ở đâu đi chăng nữa, thì trong tâm, thân, quê hương, nguồn cội vẫn mãi mãi còn đó, Việt Nam. Bài hát thứ tư và thứ chín trong đĩa nhạc “K. Khúc Của Lê 3” là hai tình khúc tương phản. Nếu xem “Thu Hồng” như một ngày nắng hanh lãng đãng thì phải gọi “Hạt Mưa Bay

Cuối Đời” là một đêm mưa giông nặng hạt, hai mặt sấp ngửa, trắng-đen của cùng một thứ cảm xúc: tình yêu đôi lứa.

Dựa theo ý thơ “Bài Thu Hồng Tháng Tám”, nhạc sĩ Phan Nguyên Anh đã dùng nhịp luân vũ chậm, boston, nhịp điệu của những tình nhân, để phổ thành ca khúc “Thu Hồng”, và tiếng hát nũng nịu, trong sáng trẻ thơ của Diễm Liên đã thả từng sợi tơ nhạc vào giữa trời thu bát ngát:

Và tháng Tám, dòng sông về rất lạ,

Mùa Thu-tôi, em thả tóc đi qua,

Rụng xuống mãi để lòng tôi u buồn,

Chiều quê người, từng phiến lá thiết tha...

Ở “Thu Hồng” là những câu nhạc mênh mang, với các nốt cuối câu níu dài, mở rộng. Ở “Hạt Mưa Bay Cuối Đời”, ngược lại, là từng ngắt đoạn ba chữ, với hai nốt nối tiếp cùng cao độ, tạo khắc khoải, hoang mang, thống hối. Trích từ đĩa nhạc “Dù Nghìn Năm Qua Đi” (2000) gồm mười tình khúc Đăng Khánh, tiếng hát Tuấn Ngọc và hoà âm Duy Cường, ca khúc đầy kịch tính “Hạt Mưa Bay Cuối Đời” kết hợp thành công nhạc điệu, âm thanh và tiếng hát để kể cho người nghe về một mối tình tuyệt vời nhưng tuyệt vọng:

Này em ơi! Người yêu ơi!

Từ trong tôi, thịt da tôi,

Hạt mưa bay cuối đời.

Và mai sau, nụ hôn xưa, son chưa bạc màu,

Nhớ nhau, đêm không qua mau...

Khi kể đến những nhạc sĩ có nhiều gắn bó với thơ Du Tử Lê, như Từ Công Phụng, Phạm Đình Chương, Trần Duy Đức... , người ta sẽ nhắc thêm tên Đăng Khánh. Thật vậy, ngoài “Hạt Mưa Bay Cuối Đời”, trong đĩa nhạc đầu tay “Em Ngủ Trong Một Mùa Đông” (1994), nhạc sĩ Đăng Khánh cũng đã giới thiệu đến người yêu nhạc hai ca khúc trữ tình, phổ từ thơ Du Tử Lê: “K. Khúc Của Lê” và “Em Ngủ Trong Một Mùa Đông” qua các tiếng hát Tuấn Ngọc, Ý Lan và Vũ Khanh. Sau tình yêu đôi lứa, tình yêu quê hương, năm 2001, nhà thơ Du Tử Lê ra mắt tập thơ “Vì Em, Tôi Đã Làm Sa Di”, đánh dấu một khuynh hướng sáng tác khác: tình yêu tôn giáo. Nhưng, điểm đặc biệt trong thơ của ông là không có sự phân biệt rạch ròi, mà những thứ tình yêu kia tan lẫn vào nhau, cộng sinh để cùng cộng hưởng, tạo rung động cao độ.

Bài thơ tám chữ sáu đoạn “Người Nhón Gót: Thả Vầng Trăng Thứ Nhất” sáng tác tại Úc năm 2000 có những câu:

Chào Quán Thế (riêng tôi)! - Rừng chánh niệm

Cây từ bi từng ngọn. Lá trăm năm

Người nhón gót: cúi nhìn nhân thế, gió

Thấy tôi không? - Tội nghiệp một linh hồn?

Ở đoạn đầu, từ những câu thơ bị chẻ đôi bởi các hình ảnh hoặc ý tương phản:

Chào tinh khiết! // -Giữa chiều/ tôi/ xế bóng

Như tấm lòng thao thiết // cũng gieo neo.

Người nhón gót: // nghe mưa về đáy vực

Buồn tôi sâu, hút, // tựa nhớ, thương, nào.

Một nhóm bạn ở Paris đã cùng sáng tác nên ca khúc “Nhón Gót”: Nguyễn Linh Quang phổ nhạc, Trần Lê Khang soạn hợp âm và đệm tây ban cầm, Kim Tuấn, Bạch Thảo soạn bè cho song ca và trình bày. “Nhón Gót” với đoạn trưởng, đoạn thứ xen kẽ, khi nhịp 4/4, lúc 3/4, với giọng nữ cao, nam trung và tiếng tây ban cầm solo, ở đôi chỗ đã biến thành một khúc tam tấu, hoà quyện đến không thể tách rời, như minh hoạ cho sự lấp lánh muôn mặt nhưng nhất quán của một tổng thể: nguồn tự sự Du Tử Lê.

Xuất phát từ nền chung: cõi thơ Du Tử Lê, qua phần phổ nhạc của Phạm Đình Chương, Hoàng Quốc Bảo, Phạm Duy, Phan Nguyên Anh, Trần Duy Đức, Nguyễn Linh Quang, Đăng Khánh, với kỹ thuật hoà âm của Duy Cường, Randy Ames, Phan Nguyên Anh, Trần Lê Khang, Trầm Tử Thiêng, Gia Bảo và cách trình bày của Quỳnh Giao, Kim Tước, Đinh Ngọc, Diễm Liên, Trần Thái Hoà, Kim Tuấn, Bạch Thảo, Anh Ngọc, Tuấn Ngọc, Anh Khoa, đĩa nhạc “K. Khúc Của Lê 3” đã trở thành nơi phát tán và cũng là điểm hội tụ của nhiều cảm xúc phong phú, đa dạng, đầy màu sắc. Những dòng nhạc đã dứt, tiếng hát cũng ngừng, nhưng trong tâm tưởng người nghe, hình như vẫn còn âm vang lời dẫn cuối, tưởng như viễn tượng về một chốn hết, thật sự, lại là lời mời gọi của du tử cùng bước đến một tình yêu mới, ở kiếp khác, đời sau:

Yêu Dấu,

Ngày mai, ta chết, chung thân.

Cổ Ngư

CHOISY-LE-ROI 03.2003




CUNG TRẦM TƯỞNG,

NGÔN NGỮ

VÀ KHÔNG GIAN THƠ DU TỬ LÊ.

(Bài nói chuyện tại Brian Coyle Center, Saint Paul, Minnesota,

18- 5- 96.)

Tôi bước ra từ thơ, để đứng đây, nói về tác phẩm Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà của Du Tử Lê. Một công trình đáng kể của người thi sĩ này về hai phương diện: Ngôn ngữ thơ và, không gian thơ. Nói đến thơ là nói đến ngôn ngữ. Vì ngôn ngữ thơ, tương tự như thương người như thể thương thân. Đối với người làm thơ thì ngôn ngữ chính là máu huyết, là nước mắt, là cốt tủy, là phong cách của một thi sĩ. Dù trong tập thơ này, tác giả đề cập tới một tình yêu da diết, hay bất hạnh thì đằng sau tình yêu đó, vẫn phải máu huyết của người thi sĩ. Nói về ngôn ngữ thơ của Du Tử Lê phải công nhận rằng Du Tử Lê đã tạo được phong cách riêng cho thơ của ông. Du Tử Lê đã tận dụng các dấu, gồm luôn cả dấu gạch chéo / slash, để xô đẩy câu thơ đầu tiên, dàn trải theo mạch thơ, về một phía, để xác định tính chủ thể, khởi nguồn của bài thơ. Nhưng ở những câu thơ kế tiếp, Du Tử Lê lại xô, dạt chúng về một phía khác, để làm bật lên những ý niệm khác. Chữ thứ hai xô đẩy chữ thứ nhất về nơi chốn cuối. Nó nằm yên ở đó. Nó không chết. Và với câu thơ kế tiếp hay tới khi cuối bài thơ, chữ tưởng như bị chôn vùi, bị chết lại trở về, hòa nhập hay hoán vị với chữ đầu tiên... Theo tôi, Du Tử Lê đã thành công với cả hai phần: phần mở vào bài thơ và phần khép bài thơ lại. Chính vì thế mà khi ta đọc thơ Du Tử Lê, ta cảm thấy có một cái gì rất đặc biệt. Ta vẫn thấy thơ của ông, khác với thơ của những người khác. Nó khiến ta phải băn khoăn, phải thắc mắc. Phải quay trở lại phần khởi nguồn của bài thơ. Tác giả nói về một sự vật, nhưng đồng thời cũng là tiếng nói của chính sự vật đó.

Tôi gọi đó là đặc tính phủ định trong ngôn ngữ thơ Du Tử Lê. Bởi vì, ông có một khả năng xử dụng ngôn ngữ thơ tài tình. Một ngôn ngữ thơ tuyệt vời. Bây giờ, trong vô vàn ngôn ngữ thơ của nhân loại, chúng ta có ngôn ngữ thơ mang tên Du Tử Lê. Về không gian trong thơ Du Tử Lê, ông dùng dấu gạch chéo / Slash để tạo một không gian cho người đọc tùy nghi sắp xếp, sáng tạo, viết lại, như một tác giả thứ hai. Tuy nhiên, cần nhớ rằng người đọc chỉ toàn quyền trong cái khoảng không gian thơ, quy luật thơ, cõi thơ mà ông đã quy định sẵn mà thôi. Để dẫn chứng, tôi xin đọc nguyên văn bài thơ mà tôi cho là quan trọng nhất trong thi tập này.

Đó là bài: Tình Yêu / Trang Ruột Và,/ Bìa Sách/. Tôi sẽ đọc theo thể điệu Rap, vì thấy nó thích hợp.

tôi sẽ để rất nhiều khoảng trống

giữa hai gạch chéo / slash

trong một câu thơ

thí dụ:...../...../...../...../

mời những người đọc tôi

hôm nay, ngày mai tham, dự

không phân biệt mầu da

chúng ta: đồng tác giả

bài thơ xuất hiện lần đầu

mượn trái tim anh em, bà con để, thở

thi, ca tự thân là những đôi nhiễm sắc thể

như con người

vẫn một: trong / hình dung / tốt lành

thượng đế.

tôi sẽ để rất nhiều khoảng trống

giữa hai gạch chéo / slash

trong nhiều câu thơ

thí dụ:...../...../...../...../

mời những người đọc tôi

hôm nay, ngày mai tham, dự

không phân, biệt tuổi tác, giống tính

chúng ta: đồng tác giả

bài thơ xuất hiện lần đầu

mượn trái tim anh em, bà con để, thở

thi, ca tự thân

là vũ trụ tinh khôi

tất cả mọi người đều có quyền

tùy tiện đặt, để núi, sông / cỏ, cây / thiên nhiên /

thánh thần / ma quỷ

tùy tiện chọn việc làm / chỗ ở / người tình / cầu tiêu

/chim muông / dã thú

rừng quá quắt giầm, ngâm biển muối

sớm mai tro /ngấu /giọt nhớ nhà

tôi sẽ để rất nhiều khoảng trống

giữa hai gạch chéo / slash

thí dụ:...../...../...../...../

trong bài thơ

mời những người đọc tôi

hôm nay, ngày mai tham, dự

không phân, biệt cội nguồn, xuất xứ

chúng ta: đồng tác giả

bài thơ xuất hiện lần đầu

mượn trái tim anh em, bà con để, thở

thi, ca tự thân là giải ngân hà

mỗi chúng ta

một black hole

hố chôn, dấu thẳm sâu, kín đáo nhất

mọi mơ ươc, khát vọng tiền bạc / địa vị

/ tình yêu / quyền lực

thậm chí ẩn ức sinh lý / loạn luân / bệnh hoạn...

không ai có quyền ngăn, cấm quý vị

điền tên tôi; và, những lời nguyền rủa thô, bạo

vào khoảng trống (vừa đủ)

thí dụ: đ.m. du tử lê và (vẫn thí dụ) nên xót thương y

/ bởi ai cũng cần có cho mình một bà mẹ

chiếc nhau tôi chôn, xa

buồn hủi, cùi cận gần quá đỗi

tôi sẽ để rất nhiều khoảng trống

giữa hai gạch chéo / slash

trên vách xương, thơ thịt bài thơ

thí dụ:...../...../...../...../

mời những người đọc tôi

hôm nay, ngày mai tham, dự

không phân, biệt nghề, nghiệp

chúng ta: đồng tác giả

bài thơ xuất hiện lần đầu

mượn trái tim anh em, bà con để, thở

thi, ca tự thân

vốn tật nguyền

(mỗi bài thơ một mệnh hệ riêng

lăn xuôi triền lở, hẫng)

kẻ dư thịt da

thiếu tấm lòng để hiểu

sống hay chết cũng chỉ là cách nói

điều đáng buồn: - ngươi biết hổ ngươi?

tôi sẽ để rất nhiều khoảng trống

giữa hai gạch chéo / slash

tâm thất trái bài thơ

thí dụ:...../...../...../...../

mời những người đọc tôi

hôm nay, ngày mai tham, dự

không phân, biệt lý lịch

chúng ta: đồng tác giả

bài thơ xuất hiện lần đầu

mượn trái tim anh em, bà con để, thở

thi, ca tự thân

dị ứng mọi khoanh vùng

chỉ có thơ

hoặc không phải thơ

thi sĩ

hoặc lũ hề

(và đám ruồi bu

nhặng xị phèng la, chiêng, trống)

hãy lánh xa bọn gọt đầu, nhổ răng văn học

tôi sẽ để khoảng trống duy nhất

giữa hai gạch chéo / slash

/...../

cho tình yêu ta

(câu thơ không cần viết ra)

chẳng thể có một câu thơ nào

máu huyết / lớn lao / hơn

câu thơ viết ngoài bìa cuốn sách

/quê hương/

ấp, ủ ta: trang ruột.

Du Tử Lê

(Jan., 1995)

CUNG TRẦM TƯỞNG



ĐA MI,

ĐỨA CON NGHÌN NĂM TUỔI HOANG VU.

1 - Có dễ một triệu năm, hay một triệu năm lẽ, tôi gặp Không phải dáng núi. Dáng núi vòi vọi cao, ngất ngưỡng, ảm đạm, nghiêm minh Không phải dáng sông, tha thướt, yểu điệu, nồng nàn và trở nặng Không. Ngàn lần không. Triệu lần không

Chỉ là một luồng ấm áp, bền chặt, dung dị, lấp lánh sau

nụ cười mim mím là đôi mắt đôn hậu Cha tôi ư? Cái dáng

khòm lưng gánh cả khuôn đời tủi nhọc? Cha tôi ư? Nụ cười

bao dung che chở đứa con nghìn năm tuổi hoang vu vẫn trẻ

thơ dậy thì

2 - Tôi sẽ nhớ mình như đứa trẻ hoang vu trẻ thơ dậy thì của ngàn muôn năm trước ấy. Bờ suối đêm còn văng vẳng tiếng than thở côn trùng. Như là chị Chi tôi, dội nước ào ào vào bộ đồ đại lễ trắng - kỉ vật cuối của Cha còn sót lại, khóc rấm rức, khóc cức tưởi, khóc cơ cầu thời cuộc. Tuổi thơ, đen bóng nhãy, ám tượng con ma người nhảy nhót đâu đó. Tôi cũng sẽ rúc mình vào sâu đâu đó, những cái xó đời không bao giờ thiếu, để khóc cho trỗi một bản đồng ca tủi hận. Như là anh Tuấn lủi thủi ôm cây guitar ra bờ suối, kéo tay tôi từ trong xó sâu đời ấy mà ủi an, vỗ về. Đêm muôn tuổi, con dế buồn tự tử giữa đêm khuya. Tôi như nghe dế hát, dế bầu bạn, dế chuyện trò, dế đối thoại bài đồng dao thơ ấu lẽ nào bỏ tôi mà đi? Con dế cũng buồn. Con suối kém vui. Con người tôi, hoang sơ từng giọt nước mắt lăn ngỡ to như những viên đá cuội, và cũng sần sùi đau đớn như thế. Dế ơi

3 - Hình như tôi lớn khôn như thế. Lớn khôn, những ngôn từ ma lực và ám tượng hồ đồ của một nhận thức ngô nghê, chơm chớm, lân lấn, ươm ướp đủ cho cái ưu phiền trĩu lên khuôn đời vừa đúc. Nó mài mòn những góc cạnh căn phần. Nó dài dại nụ cười vĩnh hằng trẻ nhỏ lần dò, lò mò, tìm kiếm, để vỡ òa triết lý đại ngộ của tuổi thơ mình: Thác lời người nói tiếng chim muông!

4 - Mà tôi gặp lại! Không phải bến sông chơm chớp cánh trắng ca dao con cò. Không phải triền núi tôi thô cạnh lão tiên đồng tóc râu bạc trắng. Không phải chàng lãng tử xoay mình cung kiếm trần thế Mà tôi gặp lại, chút ngô nghê tiên cảm. Chút hoang vắng cuộc đời ươm lên khó nhọc. Chút vụng dại trần trụi bao bẽ bàng người va con thời cuộc. Phảng phất đâu đó ngực trầm hương ấu thơ, những nụ hôn vừa, những tuổi buồn xích đạo Mà tôi gặp lại, như hình bóng của triệu triệu năm nào, trở về trong chính một sát na này, vững tin, yên vui! Khi con dế buồn bỏ tôi mà đi về một cõi khác, tôi đã gặp lại đây, ánh nhìn dung dị, ấm áp, từ tâm và hiền triết!

Đa Mi



ĐOÀN KẾ TƯỜNG,

ĐÊM SÀI GÒN NGỒI NHỚ DU TỬ LÊ.

T ôi không thể nào nhớ được lần đầu tiên mình gặp Du Tử Lê ở đâu, và nhân duyên nào xui khiến chúng tôi quen nhau, để trở nên thân tình. Bởi lẽ đã hơn 35 năm trời trôi qua, với bao cuộc biển dâu rồi còn gì. Nhưng chắc chắn một điều: Tôi đến với Du Tử Lê vì tôi là người yêu thơ, mà anh lại là người làm thơ quá hay, nhất là những bài thơ tình...

Thuở đó chúng tôi còn rất trẻ.Vào thời chinh chiến, nhưng sao Sàigòn vẫn thanh bình lắm, êm đềm lắm. Hầu như sáng nào chúng tôi cũng gặp nhau tại quán cà phê Hân, trên đường Đinh Tiên Hoàng. Uống ly cà phê đầu ngày. Ngồi nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời, trước khi đến chỗ làm việc. Tôi có nhiều kỷ niệm với anh, nhưng kỷ niệm vui nhiều hơn buồn, chẳng thể nào quên được. Nhiều bạn bè thân hoặc sơ, kể cả những người biết nhưng không quen Du Tử Lê, những khi trà dư tửu hậu, thường nhắc đến Du Tử Lê như một gã làm thơ lãng mạn, đa tình. Tật lãng mạn và đa tình thì anh làm thơ nào không mắc phải? Ngay cả kẻ làm thơ xoàng xĩnh như tôi.

Nhưng chơi thân với Du Tử Lê, tôi hiểu được rằng, yêu ai anh cũng yêu bằng tất cả sự rung cảm của trái tim. Cũng bắt gặp ở đó những buồn vui, khổ đau một cách hồn nhiên, chân thật. Không bằng sự chủ quan mà bằng sự thấu hiểu sâu sắc tôi nhận ra rằng: Bạn tôi bị Trời hành. Bắt phải chịu đựng nỗi cô đơn triền miên. Nỗi cô đơn không chỉ đến, mỗi khi anh đối diện với chính mình mà, với cả cuộc đời. Không chỉ bị cô đơn hành hạ, Du Tử Lê còn mang một trái tim quá nhạy cảm, một tâm hồn quá lớn nên phải ứa thành những bài thơ hay, để tự vỗ về, an ủi mình. Nhưng với anh, tất cả đều chật chội.

Những năm tháng cuối cùng trước khi Sàigòn thất thủ, Du Tử Lê từ giã căn phòng nhỏ nhắn, nhưng luôn phải đón tiếp quá đông bằng hữu ở số 8 Hồng Thập Tự để về làng Báo Chí ngoài xa lộ. Thế là anh trở thành láng giềng của tôi. Sáng 29/4/75, tôi gặp anh lần cuối ở đầu cầu xa lộ, nói với nhau một vài câu rồi chia tay. Mỗi đứa mỗi đường. Chẳng biết đi về đâu? Rồi sẽ sống chết ra sao?

Về sau nghe đâu Du Tử Lê may mắn lên được một chiếc tầu hải quân,, ra khơi từ bến Bạch Đằng và đến được Hoa Kỳ. Còn tôi ở lại quê nhà, khăn gói vào trại cải tạo, hơn 10 năm lao lý. Vậy mà tôi biết chắc chắn có một thời gian quá dài, nhiều bạn bè thân thiết, trong đó có cả Du Tử Lê, nhìn tôi như người đã chết! Một kẻ đã quay lưng với quá khứ của chính mình. Tôi âm thầm sống. Âm thầm trôi đi giữa hai dòng nước bằng cảm nhận đau đớn của riêng mình. Tôi sống đâu phải chỉ như một câu thơ của Vũ Hoàng Chương, “nợ áo cơm để lụy đến hình hài”, mà còn hơn thế nữa!

Một buổi tối cách đây nhiều năm, tình cờ tôi gặp lại Du Tử Lê trên đường phố. Mừng lắm! Nhưng anh chỉ gật đầu chào, với cái bắt tay lạt lẽo và vài câu chiếu lệ rồi quay đi. Đó là lần gặp lại sau 30 năm xa cách! Tôi cứ tưởng sẽ vô cùng cảm động. Chúng tôi sẽ ôm chầm lấy nhau cho thỏa lòng; chứ sao anh lại hững hờ như thế? Dĩ nhiên tôi rất hụt hẫng! Nhưng mọi chuyện đều có lý do của nó! Tôi không trách anh. Không trách bất cứ một bằng hữu nào mà chỉ tự trách mình. Càng già mình càng phải tỉnh táo để nhận trách nhiệm với chính bản thân mình. Ngay cả khi bị ai đó ngộ nhận hay cố tình ngộ nhận thì mình cũng phải tự xét: Ít ra ta đã làm một điều gì khiến cho người ta phán xét mình, dù là thuận lý.

Mới đây thôi, Du Tử Lê mới hiểu, và tình bạn ngày xưa mới được tiếp nối bằng những lá thư, những cuộc điện thoại nối liền nửa vòng trái đất. Có một điều rất đáng nói nhân dịp kỷ niệm 50 năm Thơ Du Tử Lê. Cho dù anh đã sống tha hương hơn 30 năm; nhưng nói như lời của Trịnh Công Sơn trong bài “Tình nhớ”, “người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây...”

Quả thật Du Tử Lê vẫn hiện diện giữa lòng quê nhà, thông qua những bài thơ phổ nhạc của anh, luôn vang vọng trong từng quán café, những sân khấu ca nhạc, phòng trà và trong nhiều gia đình Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước. Mấy năm trước đây, vào một buổi chiều mùa thu Hà Nội đẹp tuyệt vời, tôi bước vào một quán café vắng khách trên đường Nguyễn Du, ven bờ hồ Gươm. Bất chợt nghe tiếng hát Tuấn Ngọc cất lên từ một đĩa nhạc, “ơn em thơ dại từ trời…” Vừa ngồi xuống ghế tôi vừa lẩm bẩm hát theo mà tưởng chừng như anh quanh quẩn đâu đây. Bỗng dưng một cô gái trẻ có mái tóc chấm vai, ngồi sau quày, cất tiếng hỏi tôi:

“Chú cũng thích bài này?”

Tôi trả lời pha một chút tự đắc:

“Thích lắm. Đó là thơ bạn tôi.”

Cô gái xoe tròn đôi mắt tỏ vẻ không tin:

“Đó là thơ Du Tử Lê ở tận bên Mỹ làm sao là bạn chú được?” Tôi cụt hứng. Nhưng hơi đâu mà giải thích. Mà ví như có giải thích đi nữa, thì chắc gì cô gái đã tin. Dường như cô gái sợ mất lòng tôi, giọng cô trở nên thân

thiện:

“Hay quá chú nhỉ. Cháu thích nhất là câu ‘ơn em ngực

ngải môi trầm.’ Ghê gớm thật. Nghe đến tê cả người. Chữ nghĩa như thế thì cực kỳ…” Tôi đâm ra quý mến cô gái. Bởi vì nếu như cô ta thuộc thế hệ tôi thì chẳng nói làm chi. Đằng này, tuổi cô ta xem chừng được sinh ra sau chiến tranh nhiều năm; lại là người Hà Nội, mà biết Du Tử Lê thì mới thật đáng phục cho người yêu thơ lẫn người làm thơ. Một lần khác, tôi lên Đồng Đăng đưa tiễn một đứa cháu sang Trung Hoa du học. Nửa đêm, sương khuya giăng kín ga nhỏ héo hắt, chỉ còn lại một quán café duy nhất mở cửa, bán kèm theo mấy món hàng ăn. Thấy chú cháu tôi bước vào, bà chủ quán đang độ tuổi sồn sồn, còn đang ngái ngủ, vội đưa tay bật nút chiếc máy nghe nhạc. Tuyệt vời thay, trong cái không gian và thời gian đó mà nghe giọng hát Khánh Ly cất lên “Khúc Thụy Du” thì còn gì bằng. Có thể nói đó là trong những lần nghe nhạc gợi cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi hỏi bà chủ:

“Chị cũng thích bài này?”

Giọng bà trở nên sôi nổi:

“Chả giấu gì bác, trước đây em là giáo viên cấp 1, mới đổi sang buôn bán mấy năm nay, nên vẫn còn yêu văn nghệ lắm. Nhưng âm nhạc thì phải như thế mới tê tái. Nhạc ra nhạc. Ca từ ra ca từ. Nghe mà cứ da diết trong lòng. Cái ông Du Tử Lê này chắc là phải khổ đau vì tình lắm mới viết được như thế bác nhỉ.” Không nói ra nhưng tôi nghĩ, trong cõi người ta này, thiếu gì kẻ đau vì tình, nhưng đâu có phải bất cứ ai đều thốt lên được những lời tha thiết điếng tê như thế. Không biết có chủ quan hay không, nhưng tôi cho rằng không ai có thể hát ca khúc “Trên ngọn tình sầu” của Từ Công Phụng, phổ thơ Du Tử Lê, hay bằng nhạc sĩ Bảo Phúc. Số là, một buổi tối cách đây khá lâu, tôi đến dự khán một chương trình ca nhạc khá quy mô, được tổ chức tại một rạp lớn, thuộc loại nhất nhì Saigòn. Gần cuối chương trình, người MC giới thiệu một tiết mục đặc biệt. Đó là sự xuất hiện đặc biệt của nhạc sĩ Bảo Phúc - một nhạc sĩ sáng tác và hòa âm rất thành công hiện nay. Bảo Phúc bước ra sân khấu với một bộ complet mầu đen xám. Cúi gập người chào khán giả, xong anh ngồi xuống chiếc ghế đặt sau cây đàn piano, tự giới thiệu tác phẩm mà anh sắp hát. Đó là ca khúc “Trên ngọn tình sầu.” Từng giọt dương cầm thánh thót, lan tỏa trong khan phòng im lặng như tờ. Bảo Phúc hát bằng chất giọng trầm ấm:

 “Hạnh phúc tôi, hạnh phúc tôi từ những ngày con nước

ve”…à

Chỉ mới một câu đầu tiên thôi, hàng tràng pháo tay tán thưởng vang lên không dứt. Rõ ràng Du Tử Lê vẫn mãi sống, mãi hiện diện giữa lòng quê nhà, và như thế anh là một người hạnh phúc. Và, ngày càng có thêm nhiều người yêu thơ anh, quý mến anh, dù thân hay sơ, dù quen hay không quen. Như đêm nay, Saigòn vừa tan một cơn mưa. Không khí trở nên mát dịu. Chúng tôi đang ngồi trong quán khuya, nhắc đến Du Tử Lê bằng tất cả nhớ nhung. Dường như mọi người đã thấm hơi men, và ai đó cất giọng hào sảng:

“Hát đi Bảo Phúc! Hát ‘Trên ngọn tình sầu’ đi, Bảo Phúc!

Hát trong không khí này mới là phiêu linh!”

Ôm cây đàn ghi-ta cũ kỹ, Bảo Phúc rót vào hồn chúng tôi tiếng hát ngọt buồn đến rưng rưng:

“…Môi thâm khô từ thuở định hôn người - ngày tháng hạ

khi không mà trở rét – Sao khi không người ngoảnh mặt kiêu

sa…”

Và như thế, Du Tử Lê, không phải chỉ đêm nay mà mãi mãi giữa lòng Saigòn. Giữa lòng quê hương, luôn có những người ngồi nhớ anh. Chẳng khác nào thương nhớ nhân tình!

ĐOÀN KẾ TƯỜNG


,

ĐINH CƯỜNG,

CHÂN DUNG THÁNG MƯỜI. 2007:

DU TỬ LÊ VÀ HOA THUỐC PHIỆN.

Đ ã vẽ nhiều chân dung bạn. Mỗi lần vẽ là một lần nhớ lại. Nhớ những năm 60, Saigòn bạn, trong bộ đồ nhà binh ủi hồ thẳng cứng, hoa mai đen trên cổ áo mầu rêu. Ngồi trên chiếc Lambretta, vai hơi nghiêng. Ghé qua La pagode. Một thời, và một lứa, nay còn đây, đếm trên đầu ngón tay...Đã nửa thế kỷ... Còn lận đận không? Vẫn nhớ khi vẽ chân dung bạn, lần khác, vẫn dáng đi nhẹ tênh, hai vai rút, lưng hơi gù, mặt như cúi xuống mà đôi mắt luôn nhướng nhìn lên.

Đôi mắt đắm đuối, giọng nói đắm đuối...

Và vầng trán rộng.

Và vì sao bức chân dung kế tiếp nữa, là tóc bạn như rơm...rơm, rơm rạ để nhúm bếp ở quê, như hồn mẹ. Bạn luôn ôm hình ảnh mẹ, hình ảnh chị, hình ảnh bạn bè. Luôn và, và...

Còn những người tình thì Đẻ ra Thơ. Cũng có thể kể là những thời kỳ Hồng, thời kỳ Xanh, hay Xám. Mà cũng có thời như lửa rực.

Và, vì sao bức chân dung vẽ Du Tử Lê tháng 10 năm nay lại hiện ra những đốm hồng, xanh non của Hoa Thuốc Phiện. Có phải hồn Thơ bạn nửa thế kỷ nay là một hồn thơ luôn vây khổn hồn người...

ĐINH CƯỜNG,

Virgina 10. 10. 2007.



ĐẶNG MAI LAN,

NỖI BUỒN CỦA LÁ.

N hà đông anh chị em, nhỏ nhất nhà, nên những chuyện vặt vãnh đều dành cho Lá. Vì vậy, mỗi lần anh đến, Lá luôn là người ra mở cửa tiếp anh nếu như người anh muốn gặp đi vắng. Lần nào Lá cũng trả lời qua loa và chỉ chực quay đi. Chẳng bao giờ Lá mời anh vào nhà. Mà nếu như Lá có mời thì anh sẽ lúng túng, cả hai chắc chắn sẽ chẳng biết nói gì với nhau. Bởi anh nào có lớn hơn cô là bao lúc ấy.

Lần đó Lá cầm trên tay một cuốn sách. Cầm một cách cẩn trọng, nâng niu. Anh thấy Lá để một tấm bìa làm dấu nơi trang sách mà cô đang đọc. Tấm bìa chỉ ló ra một phần nhỏ, đó là một tấm ảnh trắng đen. Anh hỏi, Lá đọc gì thế ?

- Tiểu thuyết.

- Hay không ?

Lá lúng túng..Em không hiểu , nhưng .. em thấy hay và buồn lắm..

Lá chưa biết trả lời sao cho đúng vì đó là một cuốn truyện Lá đọc khác hết những loại sách Lá đang đọc. Nó dẫn cô vào một vùng chữ nghĩa khác. Thứ chữ nghĩa làm Lá bay bỗng, cuốn xoáy rồi rơi xuống đậu trên một nỗi buồn rất êm, rất mượt.

Cuối cùng cuốn sách ấy đã về tay anh, không phải anh mượn sách để tìm cái không hiểu mà hay như cô nói. Thực lòng, anh chỉ muốn ngắm tấm hình dấu bên trong những trang giấy. Hình thuở Lá mười lăm tuổi, ngây ngô đứng trước sân nhà. Buổi trưa, nắng vỡ trên tóc, trên vai. Nắng làm hai con mắt cô nheo lại thật dễ thương, tội nghiệp.

Cuối cùng, cuối cùng..

Buổi ấy, cuốn sách đã theo anh về đơn vị, theo anh ra chiến trường và cùng anh biến mất ở một cánh rừng nơi vùng Tây Nguyên. Anh mất, cuốn sách mất và Lá cũng mất đi sự hồn nhiên ngày nào. Đó là những ngày tháng mà Lá biết thế nào là buồn bã, lạc loài. Lá vẫn nghĩ về cuốn sách, tự hỏi anh đã đọc hết chưa ? Tại sao anh lại mượn cuốn sách ấy ? Một truyện tình buồn nên mang một cái tựa không vui. ? Có lúc Lá lại nghĩ nó như một điềm gở cho sự chia ly của cô và người con trai ấy. «Khi người con gái đến được chỗ hẹn thì người con trai đã bỏ đi. Cô cũng nghĩ đến điều ấy vì đã quá trễ. Người con trai không còn có thể nán lại lâu hơn nữa để chờ đợi cô. Cô biết chứ, nhưng tự dưng cô vẫn muốn đến nơi đó dù chẳng còn chút hy vọng nào. Đến, chỉ để nhìn vào cái quán trống. Có thể nơi chỗ anh ngồi, trên vuông bàn thân thiết ấy còn dăm ba cái ly hoặc chỉ có một ly cà phê đã cạn và chiếc gạt tàn thì đầy ắp những tàn thuốc hút của anh. Còn cả hơi ấm hai bàn tay anh, hơi hướm anh trên vai ghế, nệm ngồi. Cô sẽ đứng phía ngoài, lặng lẽ nhìn vào. Rồi cô sẽ trở về nhà, không bằng một phương tiện giao thông nào khác. Bằng đôi chân cô sẽ chậm rãi đi qua những con đường đầy gió, đầy lá, đầy bóng tối mỏng mảnh vừa đổ xuống, xoá hết một ngày. Cô cũng sẽ đi qua một giòng sông, những ngã tư, ngã sáu.. những nơi chốn người con trai thường đi qua.. Cũng có thể người con trai đang đi qua lúc ấy. Những bước chân của hai người rượt đuổi nhau mãi mà chưa dừng lại trùng phùng. Cô sẽ như người con trai, lắng nghe cây lá reo vui, dế giun than vãn, và nghe sông gọi sóng bằng âm thanh của gió. Cô sẽ mang những âm thanh ấy vào giấc ngủ đêm nay. Mang theo hình ảnh gầy gò và lủi thủi như một tàng cây buồn, lặng lẽ trong khuya khoắt, bão, mưa. Người đàn ông yêu dấu của cô. * Như một cành củi nỏ, cháy nhánh đời điên mê... »

Lá nghĩ nếu như anh còn sống thêm nhiều năm nữa.. và dù đời sống vui hay buồn cô cũng sẽ có với anh những ngày ấm áp thơ mộng như thế. Tình yêu của cô vừa mới chớm đã bức tử chia lìa. Lá buồn bã, Lá thèm được như người con gái kia.. Nhưng cô sẽ đi về đâu, đến một nơi nào để tìm lại, thấy lại dấu vết của người lính trẻ ? Những cánh rừng nào anh đã đi qua ? Làm sao Lá có thể đến được. Đi ngang trại lính nằm ở ngoại ô thành phố chăng ? Cũng có một lần Lá đi qua đó, những cuộn dây kẻm gai đã làm tim cô ứa máu.

Từ lâu, tôi đã có ý muốn viết một truyện ngắn với một nội dung như thế. Nhưng cho đến bây giờ nó vẫn chỉ là một ý định chưa thành. Viết gì ? Về mối tình thơ dại, bèo bọt mong manh trong thời chiến chăng ?.. Thường tình quá, phải có thêm một điều gì khác nữa. Tôi chưa tìm được điều ấy nhưng mỗi khi nghĩ đến truyện muốn viết, tôi lại nghĩ về cuốn sách. Thực sự tôi không còn nhớ gì về nội dung, hình thức bìa bản của nó ngoài cái tựa và tên tác giả. Tôi đã đọc hết cuốn sách đó chưa trước khi cho người lính trẻ mượn lúc anh chuẩn bị lên đường ra chiến tuyến ? Tôi cũng không nhớ nốt.. Nên hình ảnh người con trai như một tàng cây mong manh, co ro buồn dưới một vuông trời mù *, cùng người thiếu nữ có đôi mắt làn môi và mái tóc bão bùng tâm hồn anh* mà tôi sẽ đưa vào truyện chỉ là hư cấu. Cái hư cấu được nẩy sinh từ những Khúc Tháng Hai, những Twn6rê Ngọn Tình Sầu mà tôi đã nghiền ngẫm sau này. Những lời hát, những câu thơ đã vẽ lên trí tưởng tôi một khung cảnh, một tình yêu, một khúc đời rất mộng, rất buồn.. Người con gái trong truyện ấy tên gì ? Thụy Châu, Huyền Châu ? Nhất định phải có một người con gái. Tôi chưa định được tên cho nhân vật nữ này. Riêng tôi, truyện vẫn nằm sâu trong trí óc nhưng tôi đã gọi người thiếu nữ trong truyện của tôi là Lá. Cái tên có từ lúc tôi gặp được tác giả của cuốn sách tôi đọc năm xưa. Trước khi quen và gặp được ông, tôi đọc khá nhiều những tác phẩm của ông, đa số là thơ. Tôi theo dõi cả những bài viết về Tác Giả, Tác Phẩm do những bạn hữu, thân tình của ông viết ra. Người ta nhắc nhở đến những bài thơ cũ từ thập niên sáu mươi, bảy mươi và cho đến bây giờ nhưng tuyệt nhiên không hề có người nào nói đến cuốn tiểu thuyết ấy. Lắm lúc tôi tự hỏi, hay tôi nhầm. Ông chẳng hề viết ra cuốn sách có cái tựa như thế& Như tôi đã nói, mấy mươi năm rồi, tôi không còn tin vào trí nhớ của mình nữa. Nhưng làm thế nào có thể quên được cái tên ấy nhỉ ?

Mùa hè năm đó, nhà thơ Du Tử Lê, tác giả của tiểu thuyết mà tôi đọc gần ba mươi năm trước qua Pháp cùng với hai nhạc sĩ là Từ Công Phụng và Vũ Thành An. Họ đã qua Đức trước đó và cùng ban tổ chức bên Đức đến Paris. Tôi được giao phần phỏng vấn DTL, giới thiệu một vài bài hát của hai nhạc sĩ Vũ Thành An và Từ Công Phụng do những ca sĩ nghiệp dư của Paris trình diễn. Chỉ một vài bài hát và phỏng vấn ông vài câu còn tất cả đã có một người M.C ở Đức phụ trách. Nên tôi dự tính là sẽ về Paris vào sáng thứ bảy, đến thẳng hội trường vì chương trình bắt đầu lúc ba giờ chiều hôm đó. Vả lại, tối thứ sáu mãi gần bảy giờ tối tôi mới rời khỏi sở làm. Thế mà vừa đặt chân vào nhà thì điện thoại reo. Đó là lần đầu tiên tôi nghe giọng nói của ông, giọng nói mà sau này gặp ông Phạm Phú Minh ở Cali ông có nói với tôi rằng, DTL mà nói thì con kiến trong tổ cũng phải bò ra nghe.

- Có chút vấn đề, anh cần nói với ML. ML có thể lên gặp anh em ngay tối nay được không ? Please..please !!

Vấn đề gì, quan trọng cỡ nào mà sao tôi nghe giọng nói của ông lại rất dịu dàng điềm tĩnh ? Vậy là con kiến ML đành phải ăn vội qua loa chút gì đó và cùng một người bạn gái khác vượt gần hai trăm cây số giữa đường khuya để về Saint Germain Les Corbeil, một làng nhỏ cách Paris khoảng ba mươi cây số. Nơi cư ngụ của nhà thơ Thụy Khanh. Một ngôi nhà xinh xắn mà ông cùng hai nhạc sĩ lưu lại trong những ngày ở Paris. Ngôi nhà này tôi đã đến rất nhiều lần, mà hình như đều đến vào buổi tối và lần nào tôi cũng bị lạc đường. Mười lần thì lạc cả mười. Tối đó chúng tôi cũng bị lạc. Chủ nhà cứ phải ngồi trực điện thoại để chỉ đường cho tôi. Và không biết tôi đã ngừng lại bao nhiêu góc đường để điện thoại hỏi thăm. Khi chúng tôi đậu xe trước sân nhà thì cũng đã mười hai giờ đêm. Mọi người, trừ nhạc sĩ Vũ Thành An đi ngủ sớm, còn tất cả đều thức và đang trò chuyện, bàn tán sắp đặt chương trình cho ngày mai. Tuy nhiên có một người, không biết tự bao giờ đã đứng trên thềm cửa đón chúng tôi. Ngoài chủ nhà, những người có mặt đêm ấy đối với tôi đều là người lạ. Tôi chưa gặp họ bao giờ luôn cả người đàn ông đứng chờ chúng tôi giữa bóng đêm. Dù chỉ thấy từ xa, không nhìn rõ mặt nhưng tôi biết chắc đó là ông, Củi Nỏ đang cháy đời điên mê với đốm lửa đỏ trên môi, giữa gió, sương, đêm hè tháng tám của năm 1999.

Tôi muốn nhắc lại những con số của ngày tháng này vì sáu năm sau đó tôi lại có dịp cùng ngồi với ông trên một ị sân khấu Ể khác. Người tổ chức buổi văn nghệ hôm đó là nhà văn Cổ Ngư. Anh mời tôi đọc thơ Du Tử Lê và cũng lại giới thiệu những bản nhạc phổ từ thơ ông, trong số đó có những bài của anh sáng tác. Tôi không hiểu tại sao Quang (nhà văn Cổ Ngư) lại chọn tôi. Tôi không tin là mình có một giọng hay, truyền cảm để diễn tả trọn vẹn những vần thơ tình, tuyệt của ông. Hay Quang nghĩ là tôi thân với ông ? Hình như tôi cũng chưa hề nói với Quang về một thứ tình thân nào của chúng

tôi cả.

Cho đến bây giờ, gom góp lại thì tôi quen ông khoảng gần 10 năm. Mặc dù, tôi không phải là người nhút nhát, ít nói. Ông cũng là một người khéo léo, mềm mỏng trong giao tế. Chiếc xe Rover nhỏ xíu của tôi đã đưa ông đi khắp cùng Paris. Đưa ông về Reims, thành phố tôi đang sống. Tôi và ông có rất nhiều thời gian, cơ hội để chuyện trò. Nhưng nếu kể về những câu chuyện, lời lẽ qua lại giữa tôi và ông có viết ra thì không biết sẽ được mấy câu ? Chúng tôi chỉ nói với nhau những điều cần thiết. Như buổi tối ông yêu cầu tôi về Paris sớm vì có chút vấn đề. Vấn đề mà sau đó tôi tự tìm hiểu chứ ông cũng không hề giải thích, chỉ ân cần dặn dò tôi phải nhắc đến người này, người kia trong phần giới thiệu của tôi. Từ những nhắc nhở, dặn dò nhỏ nhoi đó mà tôi nhìn thấy nơi ông một tấm lòng. Không biết phải gọi là gì ? Nó bao gồm sự tử tế, công bằng, lòng bao dung, tình nghĩa với những người ông quen biết. Đối với tôi, đó là căn bản đạo đức sống của một con người và đã đủ để tôi quý mến ông mà những thị phi gai góc, lời ong tiếng ve nhỏ nhặt hẳn có của đời thường không thể nào bôi xoá trong tôi cái nhìn tốt đẹp ấy. Lẽ ra tôi phải nói điều này với ông từ lâu lắm. Tôi phải cám ơn ông nữa, vì một chuyện làm tôi rất cảm động là trong ngày ra mắt sách của tôi, tôi được gặp một người bạn chí thân của ông. Người đàn ông đến mua sách, tự giới thiệu mình là Phạm Xuân Hy và cho tôi biết là Du Tử Lê đã nhờ ông đến tham dự, ủng hộ tôi. Ở một nơi xa mà ông vẫn nghĩ đến tôi. Tôi nhớ mãi điều này.

Khi nhận lời Quang đọc thơ của ông. Tôi cũng lười, không liên lạc trước với ông. Chỉ âm thầm lo liệu bài bản của mình. Đúng ngày giờ, tôi mới đến chào ông. Bây giờ nhớ lại lúc tôi giới thiệu ca khúc “ Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn”, bằng những lời lẽ rất mượt mà dẫn chứng những hình ảnh đẹp trong giòng lục bát của ông. Thực sự khi đọc trong tôi chợt có một nỗi xúc động dấy lên. Tôi đã quay xuống nhìn ông lúc đó và nhận ra ông cũng đang nhìn tôi với một chữ “thank” rất nhỏ. Chỉ có

thế, tàn cuộc rồi chia tay, chúng tôi chẳng nói gì thêm với nhau mặc dù cả sáu năm không gặp. Xem ra sự liên hệ giữa tôi và ông rất nhạt. Tôi tự hỏi : Có điều gì làm tôi ngại ngần không đến gần ông ? ..Tiếng tăm ông lừng lẫy, bạn bè thân thiết của ông quá nhiều, cần gì con nhỏ chỉ viết được dăm ba truyện ngắn như tôi. Không đâu, tôi chẳng hề có thứ mặc cảm đó. Tôi chỉ tin rằng tuy tôi không hề biểu lộ bày tỏ một điều gì nhưng tự ông đã nhìn thấy những tình cảm tốt đẹp của tôi dành cho ông và ngược lại. Tôi tin, tin lắm.

Tôi muốn gọi tên bài viết này là “Nỗi buồn của Lá”, vì lần đầu gặp tôi, ông nói tôi gầy như một chiếc lá. Chiếc lá đương xanh, chiếc lá chớm vàng, hay chiếc lá đã quắt queo khô, buồn rơi trên mặt đất. Với tôi, dù thế nào chiếc lá là một hình ảnh đẹp. Cũng chỉ là một câu nói rất thường nhưng Lá là một sinh vật mong manh, đáng yêu mà ông mang vào trong thơ của ông rất nhiều. Tôi cảm thấy vui vui và thầm cám ơn ông đã ví tôi bằng một hình ảnh đẹp như thế.

Cùng tôi, mưa xuống lưng đồi

Cây vui tay vẫy, lá mời hạt rơi *

Chim cao bay lạ tiếng chì

Mái ngon hiên nặng lá thì thầm vui *

Nghe tôi chiều cũng lên đồi

Cây chia nỗi nhớ từng ngôi lá tàn *

Đã có lúc tôi cười một mình tự hỏi , tự nhại lại những câu thơ của ông rằng.. “Lá là tôi hay lá cũng là ông ? Tôi và, lá và, ông là một nhé ! “ khi tôi đọc những câu :

Tôi, chân buồn phố xá

Tôi, tay buồn lá khô *

Cây tôi mộng sớm ra ràng

Lá tôi thoắt đã bay dàn sân mưa*

Còn bao nhiêu chiếc lá, bao nhiêu đời lá mộng mị buồn thảm trong thơ ông ? Làm sao kể hết. Trước khi viết bài tôi có gửi E.mail cho ông. Tôi nói, ML sẽ viết về anh, về cuốn sách có tên là “Ngửa Mặt”. Ông rất

ngạc nhiên. Ông không ngờ truyện dài đầu tiên của ông sau rất nhiều năm hầu như bị lãng quên, mất tích bây giờ lại được tôi, một người không cùng thế hệ với ông ngó ngàng tới. Những lời lẽ đầy xúc động của ông làm tôi bối rối. Viết gì bây giờ ? Chỉ như một đốm lửa lập loè trong trí nhớ đặc quánh sương mù. Chỉ là một kỷ niệm nhỏ lồng trong một kỷ niệm buồn thời tôi mới lớn và đeo đẵng tôi mãi cho đến bây giờ. Có thể nói cuốn sách ấy đến và đi ra khỏi đời sống tôi, để lại một nỗi buồn từ ngày ấy. Bonjour tristesse ! Nỗi buồn Ngửa Mặt, nỗi buồn của những chiếc lá.

Đặng Mai Lan

(Reims tháng 2/07 )

* Trích từ những bài thơ của Du Tử Lê



ĐỖ QUÝ TOÀN,

THI SĨ CÓ NHỮNG CÂU THƠ THÀNH

NGÔN NGỮ HÀNG NGÀY.


Những ý kiến tôi đã diễn tả trước đây, 15 năm, cho đến nay vẫn còn đúng. Du Tử Lê, quả nhiên vẫn là một nhà thơ hiếm hoi. Anh vẫn một mình một cõi. Đó là một điều đặc biệt. Và đối với một thi sĩ, thì đó là một sự thành công. Bởi vì, thi sĩ phải là một thi sĩ riêng cho mình, không thể lẫn vào một thi sĩ khác được. Du Tử Lê vẫn luôn luôn tìm cách làm mới tiếng nói của mình. Tức là làm mới thơ của chính Du Tử Lê; cũng như góp phần làm mới thi ca của người Việt Nam.

Chúng ta biết thơ có hai cách diễn tả: Tự nguyên thủy, thơ là lời nói, lời phát âm ra. Rồi, từ cả vài ngàn năm nay, loài người dùng chữ viết, thành ra thơ cũng là một nghệ thuật dùng chữ viết, in ra nữa. Hai hình ảnh mà ta tiếp nhận thơ là nghe lời người ta nói và đọc bài thơ trên giấy. Cả hai hình thức đó Du tử Lê đều tìm cách làm mới cả.

Nhiều người cho rằng Du tử Lê hơi cầu kỳ. Khi anh sử dụng rất nhiều thứ dấu khác nhau. Như dấu phẩy, dấu chấm, dấu ngang, dấu dọc, gạch chéo, gạch ngang…để làm cho thơ của anh khác thường. Nhưng tôi nghĩ, người thi sĩ có những lúc có nhu cầu là phải làm sao để diễn tả được đúng tâm trạng của mình. Họ sợ rằng người đọc bài thơ trên giấy không thấu hiểu hết ý của mình, nên phải dùng thêm dấu nọ dấu kia, để theo đó mà người đọc thấu hiểu thêm.

Thí dụ câu thơ dưới đây trong tập thơ mới của Du Tử Lê.

Nếu tôi đọc những câu thơ này theo lối bình thường, tôi sẽ

đọc là:

Người cho tôi vực khuya

Đêm vọng nồng tiếng hát

Những ngón tay xuân thì

Bươi tìm tôi thất lạc.

Đó là những câu thơ rất đẹp.Nhưng nếu chúng ta theo cái cách của tác giả diễn tả. (Tôi rất tiếc là không thể trình với quý vị nguyên văn của bản thơ đó trên màn hình. Nhưng chắc chắn ban kỷ thuật sẽ làm được việc đó.) Và khi người đọc được nhìn vào bản văn với những dấu chấm, dấu phẩy, dấu gạch ngang, dấu hai chấm, dấu ba chấm của tác giả, người đọc sẽ đọc nó khác đi một chút. Nó có thể sẽ là:

Người cho tôi vực, khuya

Đêm vọng, nồng tiếng hát.

Những ngón tay xuân thì:

Bươi, tìm tôi-thất-lạc.

Chữ “tôi-thất-lạc”, tác giả gạch giữa. Ba chữ đó là một tiếng mà thôi. Chúng trở nên một cụm từ, dính liền nhau. Cái “tôi-thất-lạc”. Người ta thấy tác giả diễn tả một cái gì khác. Không phải là... tôi thất lạc. Đó là một cố gắng của Du Tử Lê. Cố gắng làm cho tiếng nói và thơ của ông diễn tả đúng tâm trạng của ông hơn. Tuy nhiên, nếu quý vị thấy mình có thể tiếp nhận một cách khác, hoặc cho rằng tại sao lại phải cầu kỳ như vậy thì có thể tùy ý.

Dù sao thì chúng ta phải nhận thấy rằng Du Tử Lê không phải là người cầu kỳ. Bởi vì người cầu kỳ thì thơ sẽ làm cho người ta kinh ngạc. Người ta sợ, mà người ta không yêu được. Chúng ta phải công nhận rằng Du Tử Lê đã thành công trong việc làm cho nhiều người yêu thơ ông. Phải nói là, Du Tử Lê đã làm chủ được ngôn ngữ mà ông đã sử dụng, là tiếng Việt Nam. Ông đã sống với nó, đã yêu nó. Nhờ thế mà Du Tử Lê đã diễn tả được những điều rất giản dị, không cầu kỳ; làm cho ai cũng hiểu và, tự nhiên mà nhớ.

Tôi lấy thí dụ một câu thơ của Du Tử Lê đã trở thành ngôn ngữ hằng ngày của mọi người:

” Ở chỗ nhân gian không thể hiểu!”

Thật ra câu này không phải dễ hiểu. Nhưng trong một số tình huống nào đó, thì nó lại là câu nói nói cửa miệng.

Thí dụ một ông chồng gọi điện thoại cho vợ nói:

“ Em ở đâu đó? Sao em hẹn anh ở ngã tư có cây xăng, mà sao anh không thấy em đâu cả? Hay chắc là em đang ở chốn nhân gian không thể hiểu rồi!”

Vậy câu thơ trên đã trở nên ngôn ngữ thường ngày.

Lâu lâu tôi lại nghe câu thơ của Du Tử Lê “ ở chỗ …,” lúc thì để diễn tả một tâm trạng vui; cũng có khi để diễn tả một tâm trạng buồn. Tôi cho đó là thành công của một nhà thơ. Một thí dụ khác, một câu thơ khác của Du Tử Lê, cũng thường được dùng để van lơn nhau, để khuyên bảo nhau, hay để than vãn với nhau:

“ Đi với về, cũng một nghĩa như nhau.”

Câu thơ này người ta cũng có thể nói trong lúc buồn:

“ Thế anh mới đến chơi mà đã về rồi à?”

“Tôi vừa mới gặp cô Tiểu Muội, rồi cô lại đi Texas…”

Có thể người nào đó sẽ nói:

Hoặc mình có thể dùng câu đó để đùa với nhau cũng được. Một thi sĩ có những câu thơ thành ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta, tôi cho đó là một thành công. Người thi sĩ đó đã sống bằng tiếng Mẹ đẻ của mình và, hòa nhập với cộng đồng của những người cùng chung ngôn ngữ. Đó là một thành công. Có thể nói Du Tử Lê là một trong những người hiếm hoi, luôn luôn tìm cách đổi mới. Nhưng lại không quá mới đến độ xa lìa cộng đồng cùng dùng chung ngôn ngữ với mình.

Đỗ Quý Toàn

(29 tháng 9 – 07.)




HOÀNG ĐÌNH BÌNH,

NHƯ MỘT LỜI TẠ ƠN.




Vào cuối năm 1976; tôi tình cờ gặp lại người bạn học trong một quán Café nằm cạnh bãi biển ở Nha Trang; trên tay anh là cuốn thơ “ĐỜI MÃI Ở PHƯƠNG ĐÔNG” của nhà thơ Du Tử Lê (người mà tôi được biết tên qua bài thơ “Thú Tội” được viết năm 1957; năm ấy tôi chào đời...)

Sau vài câu chào hỏi, người bạn văn nghệ này có đề nghị tôi “Lật ra bất cứ trang nào...” thì tôi và anh ta sẽ phổ nhạc bài thơ ấy thành ca khúc; tôi đồng ý một cách liều lĩnh (vì thú thật rằng: Lúc ấy tôi chỉ biết đánh đàn “chập choạng” mà chưa biết đến một nốt nhạc là gì?? – Cũng như con người biết “ú ớ” trước khi biết viết lên điều mình đang “ú ớ” vậy.!?!) Tôi nhắm mắt và tay bắt đầu dở cuốn thơ...Khi mở mắt ra; tôi thấy ngay cái tựa của bài thơ thật hấp dẫn như có ma lực nào hút lấy hồn tôi (lúc ấy, cả bây giờ và có lẽ luôn cả về sau...) Một bài thơ ngũ ngôn nằm gọn dưới hàng chữ lớn “VỀ TỪ VÔ VỌNG”...

Chưa biết thế nào; tôi gật đầu ngay và vội chép bài thơ trên bao thuốc lá; mang về nhà ...bắt đầu cho một cuộc phiêu lưu đi tìm giai điệu.

Ba ngày sau chúng tôi gặp lại nhau tại quán café như đã hẹn trước (cùng với dăm bẩy người bạn văn nghệ – mới có, cũ có...) Anh ta hát, rồi tôi hát... Các bạn tha hồ bàn tán, phê bình... Kết quả: Anh bạn tôi phải “khao” chúng tôi một chầu café như lời giao ước. Từ ấy; bài hát theo tôi đi khắp nơi... Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Xuân Lộc, Saigòn, Sydney, Vancouver... Và... Và nay, bài thơ “tình cờ được phổ nhạc này đã gặp lại chính chủ nhân mình sau 22 năm (cũng trong một cuộc gặp gỡ “tình cờ” không kém...)

Xin TẠ ƠN người bạn tên: NGHĨA – Xin TẠ ƠN người thi sĩ có tên D.T.Lê. Xin tạ ơn bài thơ có cái tựa VỀ TỪ VÔ VỌNG – Xin tạ ơn sự “ngẫu duyên” đầu đời đã mở cho tôi Một Chân Trời Mới cho những ca khúc về sau. Một lần nữa, xin tạ ơn những ai đã; đang và sẽ ngồi lại để cùng lắng nghe “NGỰC NGẬM LỜI TRĂM NĂM” và cũng để được Trở Về: Từ Nơi Vô Vọng.

Seattle,10-98

H. Đ. BÌNH.



LÊ HUY OANH,

KẺ NHẬN LÃNH SỨ MẠNG RAO GIẢNG

PHÚC ÂM BUỒN: DU TỬ LÊ.

Truyện đó nằm trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Truyện kể rằng có một người đi giang hồ dữ lắm, đã từng tới nhiều nước, đã biết rất nhiều chốn cảnh xa lạ, để rồi khi trở về quê hương, phải thú nhận rằng trên mặt địa cầu này, không có nơi nào đẹp đẽ và hấp dẫn cho bằng quê hương.

Đến nay, thêm một lần nữa, một nhà thơ của nước ta, Du Tử Lê, tác giả tập “Thơ Du Tử Lê 1967-1972”, đã bằng kinh nghiệm đích thực của mình, xác nhận lại với chúng ta cái ý nghĩa đó.

Du Tử Lê hiện đang ở tuổi ba mươi thì phải. Cách đây mấy năm, anh đã từng có dịp được sang du học bên nước của ông Henry Ford; nước ấy sang lắm, giầu lắm, bảnh lắm, dân lao động cũng thường có xe hơi luých chạy phom phom ngoài đường; gạo, đường, sữa ê hề, cả trăm triệu dân vừa ăn vừa đổ đi, mà vẫn không hết, lại còn rất nhiều để đem xuất cảng bán hoặc không cho những nước khác. Anh Lê đã từng được sang Mỹ, đã từng chóa mắt vì cảnh giầu sang của nước Mỹ, đã từng có một vài cô bạn Mỹ hình như thật trẻ, thật thơm, thật quyến rũ thì phải.

Vậy mà, tới một ngày nào đó, tại đất Mỹ, Lê bắt đầu nhớ quê hương, nhớ phảng phất, nhớ day dứt, không hiếm những lúc nhớ một cách sôi nổi, kịch liệt. Cái siêu cường quốc quá giầu sang, quá trù mật đó đã không thể nào làm cho chàng ta quên được cái sầu tha hương.Chàng nhớ tổ quốc Việt Nam ghê gớm lắm, mặc dù đất nước này, sau cả mấy chục năm chiến tranh liên miên, giờ đây đã nghèo lắm rồi, lương thực không có đủ mà ăn, vải vóc không có đủ mà mặc, thần chiến tranh tàn nhẫn không ngưng vung lưỡi hái vào đám dân đau khổ. Thêm vào đó, còn biết bao nhiêu tai họa thường trực khác: cả ngàn cả vạn những tên gian thương Ba Tàu và Giao Chỉ; cả ngàn cả vạn những tên tham nhũng. Thêm vào đó, có thêm những chính khách hoạt đầu tham lam, ích kỷ, chuyên nghề bán nước buôn dân...

Chiến tranh, nghèo đói, tai họa, hoạt đầu, gian thương, tham nhũng, ngoại bang, cộng sản, tư bản...bằng ấy thứ đã và đang khiến cho nước này tan nát, xác xơ, vậy mà cái anh chàng trẻ tuổi đang được sống trong cái xứ giầu sang nhất thế giới ấy, đang có dịp kề môi áp má những kiều nữ xinh tươi mơn mởn ấy, vẫn cứ thèm được trở về quê hương xứ sở, thèm ghê lắm, thèm đến phát khóc lên được:

không bao giờ đâu Donna, Donna,

dù anh có yêu em

hơn bất cứ thứ gì có trên đất Mỹ

thì anh cũng vẫn trở về

anh vẫn phải trở về quê hương anh

cái giải đất nóng khô cong hình chữ S

cái giải đất không lớn bằng tiểu bang California của xứ sở

em

 (nơi anh đã sống những ngày đầu tiên

và tập ăn, tập nói theo lối Mỹ)

cái giải đất rách nát nghèo đói vì chiến tranh

liên tiếp trên hai mươi năm

......

không bao giờ đâu Donna

dù anh có yêu em

hơn bất cứ thứ gì có trên đất Mỹ

thì anh cũng vẫn trở về quê hương

nơi mẹ anh đã già, một đời ăn cơm chan bằng nước mắt

nơi anh em, nơi chú bác, cô dì ruột thịt

đã và đang còn từng giờ gục ngã

chiến đấu cho sự trường tồn

và lý tưởng tự do của giòng giống

......

không bao giờ đâu Donna, Donna

dù anh có yêu em

hơn bất cứ thứ gì có trên đất Mỹ

thì anh cũng vẫn trở về

quê hương anh ruộng cằn đất cỗi

người chưa lớn đã già

trẻ chưa cao đã cọc

Mấy dòng thơ trên được trích từ bài thơ “Vỡ lòng cho một người con gái Mỹ”, một trong những bài thơ nói lên cái tinh thần ái quốc của một nhà thơ Việt Nam hôm nay, và cũng là một những số không hiếm những bài thơ thật hay trong tập “Thơ Du Tử Lê 1967-1972”. Chúng ta có thể gọi thi tập này là “Thơ Du Tử Lê II”, bởi vì trước đó, vào năm 1964, tác giả cũng đã từng cho xuất bản một thi tập cũng mang cái đầu đề thật giản dị là “Thơ Du Tử Lê”. Nội dung bài nhận định này của chúng tôi, được giới hạn trong khuôn khổ tập “Thơ Du Tử Lê II” này.

Ngoài cái tinh thần ái quốc giản dị nhưng tha thiết đến thế, được bày tỏ trong “Vỡ lòng cho một người con gái Mỹ” (trang 71) hoặc trong một số những bài khác như “Viết ở Fort Harrison” (trang 85), “Những bài lục bát ở quê người” (trang 95), nội dung tập “Thơ Du Tử Lê II” còn trình bày một số những khía cạnh tâm linh khác của một thanh niên Việt giầu suy tư, giầu tình cảm.

Trước hết là nỗi buồn, chính đáng, cao cả, của một con người vốn dĩ nhận thức được sự phù du, phi lý của sự hiện diện của mình trong vũ trụ vô cùng tận này. Đó cũng còn là nỗi buồn của một người dân một nước nhược tiểu, lớn lên trong khói lửa chiến tranh, lớn lên trong nỗi hoảng hốt âu lo thường trực, thường cảm thấy mình bị đè nén, bị áp bức hoặc một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp; đó cũng chính là nỗi buồn của một người vốn nuôi nấng một lý tưởng và những ước vọng hoặc lớn hoặc nhỏ, nhưng lại thấy rằng có lẽ mình chả bao giờ đạt được lý tưởng đó. Chẳng bao giờ mình thỏa được những ước vọng dầu chỉ là những ước vọng tầm thường. Vì thế, cũng giống như hầu hết những văn nghệ sĩ chân chính khác, cũng giống như Bryon, Keats, Ôn Như Hầu, Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng, Tú Xương, Tô Thùy Yên, Nguyễn Đức Sơn, Viên Linh hoặc Gerald de Narval, cũng giống như những Goethe, những Standal, những Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, tâm trạng của Du Tử Lê là một tâm trạng buồn, khi thì bâng khuâng nhẹ nhàng, khi thì chứa chan day dứt, nhưng đó là một nỗi buồn thường trực, một nỗi buồn không rời. Nỗi buồn của những kẻ giầu tình cảm, giầu suy tư, của những kẻ có một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên (bởi vì có trong sáng, có hồn nhiên con người mới có thể cảm thụ và nhận thức được nỗi buồn của chính lòng mình, nỗi buồn cao cả như cái cầu nối con người và các đấng thần linh, nỗi buồn bao la tỏa ra khắp vũ trụ làm môi trường hoạt động cho tư tưởng có thể tỏa ra bao trùm lấy vũ trụ.)

con vi trùng không tên

đục rỗng tôi tự đó

cơn sốt người bao năm

hôm nay còn vật vã

tháng năm tôi dựng ngược

mắt mù cơn mưa say

trán khô vùng bão rớt

cát ngủ trong đầu già

vai nhô vùng rét buốt

trông chừng cánh chim qua

hồn dài con nước lớn

chia nghìn chân đi xa...

(Chết đuối, trang 109)

Thật ra, cái thứ vi trùng không tên đó chẳng phải là thứ vi trùng lạ. Nó đã có từ lâu rồi, có lẽ từ lúc con người biết suy nghĩ, biết rung động với một áng mây, hay một tiếng côn trùng rỉ rả, một giọng chim hót hoặc một cánh hoa rơi. Có thể nó là một thứ ác trùng, cũng có thể nó là một thứ thiện trùng, nhưng luôn luôn nó là thứ vi trùng cần thiết, bởi nhờ có nó mà loài người biết buồn, để rồi có biết buồn mới thấu được niềm vui, nếu như có được một niềm vui nào đó. Và phải chăng con người chỉ khác con vật ở chỗ có được một nỗi buồn, và cao hơn nữa, ý thức được nỗi buồn của mình. Tuy nhiên, để có được nỗi buồn ấy, cũng như để có thể ý thức được nỗi buồn ấy, một con người nào đó, cần phải có một tâm hồn ngây thơ, trong sạch, cao thượng, sang cả.

Trong “Thơ Du Tử Lê II”, tác giả đã tự chứng tỏ được rằng mình có được một tâm hồn thanh khiết như thế. Còn hơn vậy nữa, nhà thơ ấy đã tự chứng tỏ mình có đầy đủ khả năng để truyền giảng nỗi buồn thiết yếu đó cho kẻ đồng loại, đã xứng đáng là một nhà tiên tri lãnh cái trách nhiệm truyền bá “Phúc Âm Buồn”. Muốn truyền bá một lý tưởng gì, trước hết cần phải sống thực với lý tưởng đó. Cũng như đấng Christ, khi muốn truyền bá tinh thần Bác Ái, đã vui lòng sống và chết cho tinh thần đó. Hàn Mặc Tử, Keats, Shelley, Đỗ Phủ, Huy Cận, Nguyễn Đức Sơn hay Du Tử Lê cũng thế, khi tự nhận lãnh rao giảng Phúc Âm Buồn, chính họ đã thể hiện được nỗi buồn thiết yếu đó. Du Tử Lê chẳng hạn, đã cho người ta thấy chàng là kẻ biết đau, biết thương, biết tuyệt vọng:

hãy mang đi hồn tôi

một hồn đầy mắt đỏ

mưa nối liền vai người

buồn nối liền thân tôi

tình nối liền nỗi chết

hãy mang đi hồn tôi

một hồn đầy bão rớt

một hồn đầy điên mê

một hồn đầy mộ địa

hãy mang đi hồn tôi

một hồn đầy môi người

một hồn đầy tóc rối

một hồn đầy máu tươi

một hồn đầy tay xiết

một hồn đầy ngực thơm

chân đưa lời cáo biệt

hãy mang đi hồn tôi

một hồn đầy côn trùng

một hồn đầy tháp chuông

ngân nga lời báo tử...

(Lúc người chết, trang 130)

Phải có nỗi buồn chân thành và đích thực ấy, phải có sự tuyệt vọng cao cả ấy, con người mới đủ tư cách rao giảng Phúc Âm Buồn. Nhưng tại sao lại cần rao giảng Phúc Âm Buồn? Bởi vì: Thứ nhất, như đã bàn ở trên, con người có lẽ khác với súc vật ở chỗ biết buồn và ý thức nỗi buồn của mình. Thứ hai, trong xã hội ngày nay có rất nhiều người không còn có khả năng buồn, một nỗi buồn cao cả, không còn biết thế nào là buồn, do đó họ đã biến thành súc vật, thứ súc vật hung dữ như hùm beo, lang sói, họ là những tên buôn bán vũ khí, những tên gian thương, những gã tham nhũng, những kẻ buôn dân bán nước, nghĩa là tất cả những tên có thể vì quyền lợi riêng của mình mà bình tĩnh thản nhiên trước những đau đớn cùng cực của người đồng chủng mà một phần lớn là do chúng cấu kết với nhau để tạo ra. Phúc Âm Buồn cần được rao giảng, như Du Tử Lê và nhiều người tâm huyết khác rao giảng, để chữa cho hàng triệu con súc vật người, tâm hồn chai đá, tàn nhẫn, hung bạo, đểu cáng, bởi vì chúng không còn biết nỗi buồn là gì, không còn biết buồn trong cái ý thức về thân phận của mình trong vũ trụ, không còn biết buồn với nỗi đau buồn khổ sở cùng cực của những người

chung quanh, của kẻ đồng chủng.

Đã có nỗi buồn cao cả đó tất phải có tình yêu, bởi vì hai thứ ấy không thể nào thiếu nhau được. Chúng hỗ trợ nhau để tạo cho nhau một giá trị đích thực. Kẻ biết buồn tất phải biết yêu, vì tình yêu là hậu quả của nỗi buồn, cũng như nỗi buồn phải nhờ có tình yêu mới xuất phát được. Do đấy, kẻ đã giữ công việc rao giảng Phúc Âm Buồn, tất phải kiêm nhiệm luôn việc rao giảng Phúc Âm Tình Yêu. Du Tử Lê đã làm đầy đủ sứ mạng kép đó của anh. Chứng cớ: Tập “Thơ Du Tử Lê II” đã vừa là một Phúc Âm Buồn, vừa là một Phúc Âm Tình Yêu. Yêu non sông đất nước, yêu kẻ đồng loại, yêu những chân lý cao cả, yêu những chất sống chan chứa trong cuộc đời và vũ trụ, yêu những tình cảm chân thành nhất, và tất cả những tình yêu ấy thường khi đã được tượng trưng bằng một người đàn bà – mà tôi đám quyết rằng có thật, bằng xương bằng thịt hẳn hoi – Thụy Châu, Thụy Châu, Thụy Châu! Trong “Thơ Du Tử Lê II”, Thụy Châu bàng bạc khắp nơi. Do đấy, chúng ta thấy cả một quê hương Thụy Châu, những cánh đồng Thụy Châu, những dẫy núi, những vùng biển, những dòng sông mang tên Thụy Châu, những đau buồn, những sung sướng Thụy Châu, những xác thịt, những tâm hồn, những đam mê, những hy vọng, tuyệt vọng Thụy Châu. Thụy Châu là tất cả, bởi vì Thụy Châu được tượng trưng cho tình yêu trong tập “Thơ Du Tử Lê II”, một thứ Phúc Âm Buồn, từ đó một Phúc Âm Tình Yêu, hay nói gọn hơn, theo kiểu của chính Du Tử Lê, đấy là một tập “Phúc âm nàng”:

nàng buồn như trái chín

mắt gầy đêm mưa xanh

hồn căng trên thập tự

đầu cúi xuống dương gian

chớp hoài đôi mắt ướt

tôi thích được quỳ dưới chân nàng

chỉ để xin những điều vơ vẩn

(Phúc âm nàng, trang 50)

Thật ra, nếu coi sự sống, sự tuần hoàn của máu trong mạch máu, coi những hơi thở là những sự thiết yếu nghiêm trọng chứ không phải là “những điều vơ vẩn” thì rõ ràng Du Tử Lê không chỉ xin những điều vơ vẩn. Bởi vì nàng Thụy Châu (nàng buồn như trái chín – mắt gầy đêm mưa xanh – hồn căng trên thập tự) đã là và phải là chính sự sống của tác giả; và cũng là chính sự sống của tập thơ. Bởi vì trong “Thơ Du Tử Lê II” có những bài thơ tình phát biểu một tình yêu chân thành nhất, thủy chung nhất, say đắm, nồng nàn, thiết tha và thường khi trải ra mênh mông bát ngát. Ở đây tình yêu thật là cao cả, thật là khẩn thiết, thật là thiêng liêng đến độ đôi khi nó giống như một thứ Định Mệnh hoặc Tôn Giáo, trong đó, người yêu được tôn sùng như một Đấng Cứu Rỗi (Rédemptuer).

tình muôn thuở nên suốt đời vẫn mới

môi đam mê nên vẫn nụ hôn đầu

ngực thanh tân nên hơi thở nhiệm mầu

tôi phục phục dưới chân người-yếu-đuối

tôi vẫn thế trở về đây thú tội

tội yêu người hơn cả lúc ra đi

và mai sau, tôi nấm cỏ xanh rì

xin bia mộ ghi tên người-cứu-rỗi

(Thư cho một người họ Huỳnh, trang 98)

xin thân xác lõm in mười ngón nhọn

xin răng thơm cắn vỡ giọt-tôi-sầu

xin mưa bay trên vạt áo nhiệm mầu

cuốn tôi lại trong kén-người-hạnh-phúc

chân xin sa – trong tình tôi ngập lụt

đôi cánh vàng xin bỏ lại trên cao

miệng hoa cau xin kết nụ ngọt ngào

tay kim chỉ xin khâu tình rách rưới

......

cho tất cả, xin cho đừng luyến tiếc

tình không dung một cân nhắc bao giờ

phút giây nào người còn ý so đo

xin đừng đến để tình tôi khỏi tủi

(vì hạnh phúc không dung cùng khốn khó)

tôi lấy gì để sửa lễ cầu hôn

biết lấy gì để đổi được lòng tin

tôi chỉ có thủy chung làm vốn liếng

mắt xin mở tạnh nguôi nghìn thảm thiết

môi ô mai xin muối mặn hồn này

người linh hiển trên đỉnh cùng gió cuốn

bước một lần xin bước xuống đời tôi

bước một lần như thần thánh bỏ ngôi

chung than củi với một người phẫn chí.

(Khúc cầu hoàng, trang 116-119)

Những câu thơ nồng nàn tha thiết như vậy có rất nhiều trong “Thơ Du Tử Lê II”. Ở đây ái tình mang đầy đủ sắc thái và hậu quả của nó: Hy vọng, tuyệt vọng, đau khổ, vui mừng, bình yên, xao động, tin tưởng, nghi ngờ, cay nghiệt, khoan dung... nghĩa là có tất cả những yếu tố khiến cho tình yêu trở thành mãnh liệt và đầy đủ nhất.

Như vậy, trong cái xã hội suy đốn cùng cực của thế giới hôm nay, trong khi rất nhiều người đã và đang chà đạp những tình cảm thiêng liêng nhất của con người, đua đòi nhau chạy theo cuộc sống vật chất ích kỷ, hời hợt nông nổi, thì may thay, cũng có một số người – rất ít người – trong đó có thi sĩ Du Tử Lê, vẫn cố gắng giữ lấy một tâm hồn ngây thơ, thanh khiết, cố gắng bảo vệ những tình cảm quý báu của con người sẵn sàng nhận lãnh cái trách nhiệm kêu gọi nhân loại phục hồi lại những giá trị tinh thần đó. Giữa cái cảnh sa đọa, đổ vỡ về tâm hồn của thế giới hôm nay, những nhà tiên tri ấy vẫn mạnh dạn lên đường, với một cây đàn huyền diệu trong tay, cây đàn thi ca và nghệ thuật, lớn tiếng ca ngợi những gia trị vô biên của sự đau khổ và của tình yêu.

Tôi tin chắc rằng, trong cái sứ mạng đó, nhà thơ Du Tử Lê đã và sẽ còn gây được những ảnh hưởng tốt đẹp bởi vì tiếng đàn, tiếng hát của anh vốn có một sức quyến rũ kỳ lạ, phong phú. Anh là một trong những thi sĩ Việt Nam hậu chiến đã đóng góp công nhiều trong việc tạo thêm những sắc thái mới cho ngôn ngữ của thơ Việt hôm nay.

Chẳng hạn, anh đã biết phối hợp một cách khéo léo những tinh hoa của thơ Tự Do với những đặc điểm của lối thơ Cổ Truyền. Ngoài ra, anh cũng đã tỏ ra thành công trong việc tạo thêm những mãnh lực mới cho cho các dụng ngữ, khiến cho ngôn ngữ trong thơ anh đạt được những vẻ đặc sắc riêng, cả trong những lối thơ mang hình thức tự do phóng khoáng, lẫn những lối thơ đã có từ trước như năm chân, bảy chân, lục bát. Cùng với một số khá đông những thi sĩ hôm nay, trong đó có những người như Cung Trầm Tưởng, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Trần Dạ Từ...Du Tử Lê đã có công xây đắp ngôn ngữ mới, tạo ra những sắc thái và những giá trị mới cho cả những lối thơ xưa cũ, đặc biệt là lục bát. Với một tâm hồn ngây thơ, trong sáng, với những tình cảm nồng nàn thiết tha, với những tư tưởng phong phú chính xác, với một tài nghệ làm thơ vững vàng như vậy, Du Tử lê là một thi sĩ rất xứng đáng với danh hiệu Thi Sĩ.

Tôi đã không ngạc nhiên sửng sốt chút nào cả, khi nghe tin tập “Thơ Du Tử Lê 1967-1972” (mà tôi mạn phép gọi là “Thơ Du Tử Lê II” để phân biệt với tập thơ cũng mang tên “Thơ Du Tử Lê” mà anh đã cho xuất bản hồi 1964) đã đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc về Thi Ca năm 1973.

Lê Huy Oanh

(Giai phẩm Văn Học, Xuân, Saigòn,

tháng 2 năm 1973)



LÊ VƯƠNG NGỌC,

MỘT TỔNG HỢP LUẬN VỀ DU TỬ LÊ:

PHONG CÁCH VÀ SÁNG TẠO.

PHẦN MỘT:

Những Nhận Xét Và Khám Phá Về Du Tử Lê: Người và Thơ Ba tập “Tác Giả & Tác Phẩm” (TG&TP) đăng tải 11 bài phân tích và phê bình ngắn, dài ở tập I; 26 bài ở tập II; (đặc biệt có một bài viết về văn và tùy bút Du Tử Lê cùng một bài ghi lại một số tác giả ngoại quốc nhận xét về thơ Du Tử Lê;) và ở tập III, có 21 bài, đáng chú ý là sự lên tiếng của 2 vị linh mục đã nhiệt thành mang tinh thần bao dung Ki Tô giáo trong sự đón nhận hân hoan một nhà thơ ngoại đạo như một con chiên lành thấu cảm sâu xa ý nghĩa cứu rỗi qua những đau thương tột độ của kiếp người! Thật là một hiện tượng ít thấy trong lãnh vực thi ca Việt Nam, với chừng trên 60 bài, kể thêm ít bài chưa in trong 3 tập nói trên viết về Du Tử Lê, người và thơ.

Dĩ nhiên các nhận xét và phê bình không khỏi có sự trùng hợp về cách nhìn và đối tượng phê phán, tuy nhiên ở mỗi bài, người ta nhận thấy vô cùng phong phú về những khám phá, những trích dẫn, nhất là về một số các kỷ niệm riêng tư giữa các tác giả và Du Tử Lê, khiến từ đó có thể rút ra một thực tại khách quan: con người Du Tử Lê, và thơ Du Tử Lê đã dành được một góc tâm hồn trân trọng và thân yêu đặc biệt nơi số lượng rộng lớn tới chóng mặt của những người thưởng ngoạn văn chương.

A.- KHÍA CẠNH CHUNG CHUNG.

- Con người Du Tử Lê nhỏ nhắn, “kiu-tờ”, nhưng lại mang một kho tàng thơ quý báu tới độ đáng chất chứa trong một đền thờ khổng lồ: “Bạn tôi bằng nửa con cò “Vác trên lưng cái đền thờ con voi...”

(Nguyên Sa, TG & TP tập II, tr.59. Nhân Chứng, Calif.,

1996.)

- Thoạt bước chân vào làng thơ, “cua rơ cậu” Du Tử Lê đứng vào hạng chót, nhưng chỉ một thời gian sau, trong cuộc đua vòng quanh VN và hải ngoại chàng đã tiến lên hàng đầu trong nhiều chặng và cuối cùng đã đoạt danh vọng quán quân áo vàng: Thoát ý Mai Thảo (sđd, tr.63).

- Cũng thoát ý Mai Thảo, một thứ tửu đồ hữu hạng đương thời bén gót Lý Bạch, Tản Đà,... xa xưa: “Thơ Du Tử Lê là một thứ rượu quý cất từ trái chín trúng mùa, cất đúng lúc và hạ thổ hoặc tàng giữ dưới hầm đúng tuổi, một thứ rượu mang những tên “bí tích”, “truyền kỳ” như rượu “Vô cố nhân” và “Ức sầu viên” (TG & TP, tập I, tr.50. Đời, Calif., 1992.)

Cái gì, chứ theo tôi thơ Du Tử Lê đầy rẫy nỗi trống vắng của thiếu người xưa (tạm dịchVô cố nhân) và sự cố gắng đè nỗi buồn dài dặc xuống (tạm dịch: ức là đè xuống, mặc dù ức cũng có nghĩa là mười vạn, nghĩa thực ra sao phải tra cứu lại nơi bài viết của cố văn sĩ Nguyễn Tuân, người đầu tiên nói tới hai tên rượu, chỉ đọc lên thôi, đã thấy “vạn cổ sầu”.

- Không khác nhận xét của Mai Thảo, khi Nguyên Sa

viết:

“Du Tử Lê đã đi xa hơn những người làm thơ cùng thời với anh một quãng đường trông như gang tấc, mà trong thơ, xa vạn dặm” (sđd, tr. 57).

- Một tác giả khác, Phùng Nhân, đã theo sát Nguyên Sa khi tuyệt tác tả về hình dáng và thơ của Du Tử Lê trong vài hình ảnh thật quê hương như sau: “Hình dáng ông nhỏ thó như con gọng vó, lội ngược trong mùa mưa lũ. Nhưng thơ của ông thì trải dài như rừng Mắm Năm Căn...” (sđd, tr.133).

- Nhận xét tổng quát mà chính xác về toàn bộ thơ Du

Tử Lê do họa sĩ Tạ Tỵ khi ông khẳng định Du Tử Lê là nhà

thơ của... “Khám phá trong mỗi từ mỗi ý”: “Du Tử Lê đã cho tôi những rung động sâu thẳm qua những vần thơ, đã cho tôi được cùng sáng tạo qua những gạch chéo Slash (sđd, tr.137)

- Tôi sẽ thiếu sót lớn nếu quên đi một cách nhìn chung chung khác về quê hương Việt Nam triền miên khổ ải, trầm luân trong chiến tranh tàn khốc và cả trong hòa bình hiện tại rách nát, tối tăm. Hình ảnh quê hương đau thương đó không rời khỏi hồn thơ Du Tử Lê khi còn trong lứa tuổi đôi mươi được gửi sang Mỹ học trường báo chí quân đội. Dù đang liên hệ tình cảm với một thiếu nữ da trắng địa phương, chàng nhắn nhủ cô bạn gái Mỹ mà cũng là tự hứa với mình để trở về nơi chôn nhau cắt rốn đang quằn quại trong cảnh tương tàn. Tâm thức này được nhà văn Lê Huy Oanh viết trong Giai phẩm Văn Học số Xuân 1974, Saigòn; và đăng lại trong TG & TP, II trang 9. Nhân Chứng, Calif. 1997 Cũng tâm thức này trong (TG&TP, tập III, tr.99. Nhân Chứng, Calif., 1998,) L.M Trần Cao Tường ghi nhận dưới tựa đề “Một Thoáng Bâng Khuâng Với Thơ Du Tử Lê”.

Theo nhiều người, thơ Du Tử Lê viết về quê hương như

tuyên ngôn của một chiến sĩ muốn sống và chết với non sông bằng mọi hình thức. Nhưng với L.M Trần Cao Tường, không cần Du Tử Lê cảm tác trực tiếp về xứ sở, ông vẫn xúc động nồng nàn, tìm về thăm xóm xưa, làng cũ một cách thật giầu tưởng tượng và nên thơ như ông tả lại trong tiểu đoạn “Một chiếc thuyền con”:

“Một người say mê hút hồn trước bức tranh vẽ cảnh núi sông ao ước: giá ta có được chiếc thuyền con để trở lại thăm nơi quê cũ. Một vị lão trượng... cầm một chiếc lá trúc gắn vào bức họa... Rồi người xem tranh... bỗng thấy mình ngồi trên chiếc thuyền con... được trôi về thăm cố hương”... Linh mục Trần Cao Tường trích dẫn một số câu thơ của Du Tử Lê cũng đã giúp L.M chợt thấy mình đang ngồi trên chiếc thuyền con đi trở lại quê nhà.

- Như tác giả Đào Vũ Anh Hùng nói về” Cõi Thơ, Cõi

Nhớ, Cõi Tình” của Du Tử Lê:

“... ‘Thơ tình Du Tử Lê’ chứa đựng không phải chỉ tình yêu giữa người nam và người nữ. Nó là tổng hợp đầy đủ các thứ tình khác, tình gia đình, bằng hữu, “... Và ông đi tới một kết luận ngắn gọn và giản dị nhưng rộng khắp và sâu thẳm...

“Du Tử Lê với quê hương là một”. (Sđd, tr. 163).

B.- “CÕI THƠ” DU TỬ LÊ

1.- Thể Loại - Đặc Biệt Lục Bát Du Tử Lê.

Cố thi sĩ Nguyên Sa trong TG&TP, I, (tr.145-157) đã mang một tâm hồn văn nhân tài tử đa dạng trải mỏng trong “cõi thơ” Du Tử Lê. Cụm từ này được ông dùng để biểu dương một cách tuyệt diệu, phong phú, sáng tạo, làm mới, và có thể nói không ngoa, làm mẫu mực cho khám phá đích thực về thơ Du Tử Lê từ ý tới lời tới các thể loại: năm, bảy, tám, lục bát, tự do...

Du Tử Lê từng cho biết khoảng những năm tháng đầu viết thơ đã tìm đọc Nguyên Sa, rất “chịu” thơ của tác giả “Áo Lụa Hà Đông”. Bây giờ khi tôi đọc “Cõi Thơ” của Nguyên Sa, tôi không khỏi rung động theo tác giả và cảm thấy Nguyên Sa yêu thích Du Tử Lê và “chịu” thơ Du Tử Lê ở mức ngoài tầm tưởng tượng của chính tôi. Nếu đó là niềm vinh dự cho Du Tử Lê thì đồng thời cũng chứng tỏ khả năng thưởng ngoạn nghệ thuật tế vi và siêu việt của Nguyên Sa. Và cũng rất khác thường nữa nếu ta thấy tục ngữ “văn mình, vợ người” thường là thái độ xảy ra trong làng văn nghệ.

Tôi sẽ chỉ trích dẫn 2 đoạn ngắn trong bài này của Nguyên Sa vì ông đã vạch ra vài khám phá mới lạ, kỳ thú. Trước hết ông và một số bạn văn học khi ở Pháp quan niệm “... muốn hiểu thấu đáo tác phẩm, cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng cuộc đời tác giả...” ông cho thí dụ tìm hiểu Paul Eluard (nhà thơ trứ danh Pháp đã viết nên bài “Bonjour Tristesse” được làm tựa đề cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của nữ văn sĩ trẻ Francoise Sagan và cũng là tựa đề một bản nhạc được dịch ra cùng với cuốn tiểu thuyết trong hàng chục thứ tiếng khác nhau) và tìm hiểu Prevert công phu như thế nào. Bây giờ đọc thơ Du Tử Lê, ông thấy... sự việc không đơn giản như thế.  “Cũng có thể cuộc đời soi sáng cho tác phẩm, nhưng có

thể chính tác phẩm mới cho thấy cuộc đời...”

Điều khám phá thứ hai của Nguyên Sa về thơ Du Tử Lê nằm trong lãnh vực không - thời - gian, ở cái chiều nhânsinh-

vô-tận:

“... Lục bát, bảy chữ, tám chữ, năm chữ tuyệt vời đó đưa tôi tới đủ thứ, tới dĩ vãng Lê - tới núi non - tới biển khơi

- tới sa mạc - tới cơn điên không dứt, tới dằn vặt khôn cùng.

Tới cả những kỷ niệm chưa gặp, những tương lai mà sao nằm trong dòng ký ức...”

Có lẽ ngoài Nguyên Sa, ít có tác giả nào đề cập tới đầy

đủ các thể loại thơ của Du Tử Lê. Ngược lại riêng về lục bát Du Tử Lê hầu như trong mấy chục bài viết về Du Tử Lê, không một ai là không ít nhiều giải thích tại sao lục bát Du Tử Lê lại được yêu thích, tán thưởng nồng nhiệt tột độ như vậy.

Bùi Bảo Trúc trong bài “Lục bát và những đóng góp của Du Tử Lê,” là một công trình nghiên cứu tiến triển và đổi mới của dạng thơ duy nhất, đặc thù của Việt Nam từ hình thức ca dao tới nay.

Ông đánh dấu những mốc quan trọng của tiến trình đó qua những thành công của các tên tuổi như Nguyễn Du, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Cung Trầm Tưởng, Viên Linh để đi tới cuối cùng là Du Tử Lê:

“... Cùng với những cách mạng ông đem đến cho ngôn ngữ, Du Tử Lê quay ra khủng bố thơ lục bát. Ông không thích sự hiền lành đó của nó, ông muốn bẻ gẫy cái nhịp cũ của thể thơ này...”

Rồi Bùi Bảo Trúc phân tích các đổi mới trong cách

chấm câu và ngắt câu ở thơ Du Tử Lê so với thơ trong truyện Kiều, thơ Lưu Trọng Lư,... Bùi Bảo Trúc cũng đề cập tới một số thơ Du Tử Lê sử dụng nhiều từ trầm bình thanh để diễn tả nỗi mệt mỏi rã rời... Tình cảm mất hết sự sôi động ở trong nỗi chán chường được đưa xuống tận đáy sâu thấp nhất...” (Sđd, trang 31 & 32.)

Trước Bùi Bảo Trúc lối 20 năm, nhà văn Lê Huy Oanh đã nhận định rộng rãi hơn trong cùng một chiều hướng: “Du Tử Lê đã có công xây đắp ngôn ngữ mới, tạo ra những sắc thái và những giá trị mới cho cả cho cả những lối thơ đã xưa cũ, đặc biệt là thơ Lục Bát”. (Sđd, tr.21.)

Nhưng để đi sâu vào cõi thơ lục bát Du Tử Lê, chúng ta không thể không tìm lại Nguyên Sa khi ông phân tích bài “Chuyết kinh thi”: “Tôi biết bài lục bát tới, một lục bát không Nguyễn Du, không Nguyễn Bính, không Huy Cận. Một lục bát khác Huy Cận. Một lục bát vượt Huy Cận...” (Sđd, trang 152.)

Và ông không quên, để chứng minh so sánh trên, liệt kê một số thơ lục bát tiêu biểu ngoài “chuyết kinh thi” như Đêm nhớ trăng Sàigòn, Cõi Tôi, Lục bát Úc Châu, những bài U, những bài Bồ Tát, những Lãm Ca, những Thánh Nữ...

2. Từ ngữ và thơ, điệu thơ Du Tử Lê.

Trong TG&TP tập I, nhà phê bình Cao Thế Dung trong cuốn “Thi ca và Thi nhân” (Quần Chúng, Saigòn, 1968,) đã phân tích sâu sắc và đầy đủ về 2 tập thơ đầu tay của Du Tử Lê:

“Đọc thơ ông thấy ngay ông làm thơ như người ta nói chuyện. Nhưng từ mỗi ngôn từ, mỗi mạch thơ càng đọc càng thấy có sự hiện diện của một nghệ thuật mới, có một giọng riêng, không thể lẫn lộn với bất cứ ai.” Sđd. tr. 15.) Điều khám phá kỳ thú khác do Cao Thế Dung: “Trong thơ Du Tử Lê có ẩn dấu một bản chất thật Việt Nam”. Ngôn ngữ riêng của thơ Du Tử Lê chỉ như sự phát hiện một cách tự nhiên từ bản chất Việt Nam của ông, cái bản chất sơ khai từ lòng Mẹ” Cao Thế Dung cũng cực tả được âm điệu trong thơ Du Tử Lê:

“Điệu thơ Du Tử Lê có một cái lạ rất mơn man và

quyến rũ. Tiếng thơ như lời ca. Nó bồng bềnh trôi nổi. Mà cách hợp vần hợp điệu như một bộc phát tình cờ...” Ông dẫn bài “Trên lưng tình dài” để tả cái nhịp thơ “lênh đênh và phiêu bồng như tiếng gió và thông reo “như van lơn trong nỗi rời rạc của tâm thể...” Điều khám phá nữa mang tính cách chìa khóa mở đến các cửa ngõ vào thế giới thơ và người thơ Du Tử Lê: “Giữa những người làm thơ hôm nay thì Du Tử Lê là một chân dung hồn hậu”.

Chìa khóa “chân dung hồn hậu” này giúp ta hiểu tại

sao L.M. Thạch Sơn-Nguyễn Huy Tưởng viết như sau: “Ngôn ngữ Du Tử Lê về tôn giáo, nói riêng về đạo Chúa rất chuẩn... Những ngôn ngữ về tôn giáo của ông dùng là những câu kinh chỉ có người có đạo dòng mới hiểu được... và hiểu tận tình...”

L.M. Thạch Sơn có phỏng đoán về sự kiện ngoại đạo

mà hiểu kinh điển tận tình của Du Tử Lê, không những thế, Du Tử Lê đã được ông so sánh với nhiều nhà thơ Thiên Chúa Giáo... “Nhưng Du Tử Lê đã dùng những từ tôn giáo bình dân nhất, nhưng cũng nên thơ nhất”...

Vẫn theo L.M., vì có bạn thân theo đạo Chúa nên “những từ về tôn giáo đã đến với ông tự nhiên như hơi thở”. Thực ra theo tôi lập luận trên đây của L.M. Thạch Sơn sẽ đầy đủ hơn nếu chúng ta ghép chúng với những khám phá kể trên của Cao Thế Dung, vì ở mỗi trạng huống tình cảm riêng biệt đau thương nào, Du Tử Lê cũng dùng cái bản chất Việt Nam, cái hồn hậu tự tại của lòng Mẹ tiếp nhận và trân quý ấp ủ. Nhận xét của L.M. Thạch Sơn và Cao Thế Dung cũng áp dụng y hệt như trong các bài thơ nói đến Bồ Tát, (thí dụ: “Vì em tôi làm Sa-di”, “Nhớ em chánh

điện”, “Lỡ mai xa khuất tay Bồ Tát...”)

Nhìn dưới một góc cạnh khác, Tam Thanh trong bài “Cõi tôi nơi Du Tử Lê”, (TGTP, III, tr.131) đã viết: “... Du Tử Lê còn đúng ở thể hiện thực... Ngôn ngữ địa phương hàng ngày được ông sử dụng một cách tự nhiên, không thắc mắc, rất hiện đại” Theo Tam Thanh, thơ Du Tử Lê lừng lẫy hơn cả là do... “Ngày càng phong phú, xuất sắc, thâm thúy trong ngôn ngữ, cú pháp...” và mặc dù “... ngay cả bút hiệu cũng lấy từ một bài thơ của Bạch Cư Dị (?) nhưng không hề, trong các tác phẩm của ông, dùng tới một điển tích nào của Tầu cả”.

Cuối hết mà cũng bao khắp hết được công lao sáng tạo thơ của Du Tử Lê lại do một giáo sư Y Khoa Đại Học Wright State, Ohio, Bác sĩ Nguyễn Văn Tuấn đã viết trong bài “K. Khúc / Thế giới của Lê”: “Có thể mượn câu nói của Chế Lan Viên để nói về Du Tử Lê, ‘vừa làm thơ, vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước.’ Từng bài thơ đều mang dấu bức phá của thi sĩ, từ chữ nghĩa, tiết điệu, hình tượng và cấu trúc. Tất cả hầu như là một sự tái sinh của tiếng Việt trong ngôn ngữ thơ”. (Bán Nguyệt san Ngày Nay, Houston, Texas, số 426 ngày 1 tháng 1- 2000.)

Tới đây tôi xin mở ngoặc nhắc lại ý kiến của vài ba

tác giả tìm hiểu nghệ thuật sử dụng từ ngữ tài tình của Du Tử Lê. Trước hết Bùi Bảo Trúc viện dẫn thi sĩ tượng trưng trứ danh Pháp Valery cho rằng sự thành công của ngôn từ trong thơ do các sự khủng bố chữ nghĩa của mỗi nhà thơ đêm khuya thanh vắng. Nguyễn Anh Văn viết trong TG&TP, tập II, (tr.146,) không đồng ý với Valery về trường hợp Du Tử Lê.

Theo ông, Du Tử Lê lọc chọn lời thơ như một người yêu hoa lựa một giò thủy tiên rồi công phu gọt tỉa ra cho tới khi mang một hình dáng toàn mỹ. Theo tôi cả hai bạn đều không sai khi đề cập tới Valery và chơi hoa thủy tiên. Nhưng thú vị nhất là gần đây, trong một quán cà phê Nguyễn Đình Toàn, bạn thân của Du Tử Lê, một nhà văn đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc cùng năm với Du Tử Lê, đã vừa cười vừa dí dỏm bảo tôi:

“Du Tử Lê đúng là ghè chữ ra nghĩa.”

Khi tôi kể chuyện này với Du Tử Lê, không biết nhà thơ có đồng ý hay không. Chỉ thấy chàng cười cười. Cái cười cũng dung dị như lời thơ của chàng.

3.- Lục bát cách tân của Du Tử Lê.

Tương đối khá nhiều tác giả viết về những khai phá mới của Du Tử Lê trong nghệ thuật ngắt nhịp, ngắt đoạn, đổi luật bằng trắc và nhất là sự du nhập thêm những gạch chéo, những chấm câu ở giữa từng câu lục hay bát mà Du Tử Lê gọi là phương thức hoán vị. Các tác giả này thường chia ra hai nhóm: một viết về phương thức hoán vị lục bát do Du Tử Lê khởi sự từ 1994, nhóm kia viết về các canh tân ngoài hoán vị mà Du Tử Lê đã sử dụng từ khi thoạt in thơ trong 2 tập đầu 1964 và 1966.

Cũng tác giả Lê Huy Oanh năm 1974 đã nhìn nhận hơi thơ lục bát Du Tử Lê theo cách ngắt nhịp, ngắt đoạn, đổi luật bằng trắc, chấm câu của Du Tử Lê phải chờ một thời gian từ khi xuất hiện tới năm ông phân tích thơ Du Tử Lê mới coi như được chính thức công nhận, ngoài tính cách mới lạ còn đem lại những rung động, hình ảnh nhất là khi đọc lên, ngâm lên, âm điệu phong phú thêm và diễn đạt được trung thành cảm hứng của nhà thơ. Về cách tân lục bát với các dấu gạch chéo gạch ngang, chấm giữa hàng..., những tác giả tán thưởng và khuyến khích chiếm đa số. Tiêu biểu là các tác giả Bùi Bảo Trúc, Trần Văn Thế, Cung Trầm Tưởng, Toàn Phong, Vương Thành coi bài viết các tác giả này trong TG&TP, tập II)... Riêng Vương Thành, (TG&TP, II, tr.213,) viết khá đầy đủ về tiến triển canh tân / cách tân trong thơ Du Tử Lê từ 1958 tới nay. Điều sâu sắc trong phân tích của Vương Thành là... sự loại bỏ âm trắc ở câu sáu, cắt vụn nhịp đi của thơ lục bát nói riêng và các thể thơ khác nói chung... đã phản ảnh được những đặc tính sau đây của thời đại hiện tại...

Đó là:

a/ Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy vỡ vụn, đầy bất trắc...

b/ Tính lạnh lùng, chủ nghĩa cá nhân được tôn trọng triệt để...

c/ Riêng những bài Du Tử Lê kết thúc bằng câu sáu có

mục đích mời độc giả tham dự vào bài thơ trở thành đồng tác giả với Du Tử Lê khi chính độc giả có thể thêm câu tám vào bài thơ.

Du Tử Lê gặt hái được từ những tác giả viết phê bình

thơ văn chàng những bông hoa ưu ái ngọt ngào sắc hương, tất cả hầu như đồng thuận trong thưởng ngoạn, hầu như không có khác nhận định, khác chính kiến ở mọi lãnh vực, ngoại trừ, điều này có thể là bất ngờ mà cũng có thể dễ hiểu thôi, có vài ba tác giả nói lên sự dè dặt và một vị còn minh thị vạch ra cái bất lợi của lục bát Slash... cách tân. Lam Nguyên trong bài “Biểu Cảm Cách Tân”, (TG&TP, II, trang 223,) đã cho thấy vô hình chung Du Tử Lê đã là biểu tượng của “Tân kỳ biệt chí / mới mẻ độc đáo,” lời của tác gia Trung Hoa Tiết Bảo Thoa, khi bàn về tác phẩm “Hồng Lâu Mộng” của Tào Tuyết Cần. Lam Nguyên cũng trích dẫn lời của Lưu Hiệp, trong tác phẩm “Tâm Điêu Long” với ghi nhận: “...sự nghiệp văn học mỗi ngày mỗi cách tân mới giữ lâu dài được và có thông đạt mới khỏi bị khô cạn.” (Xin xem thêm Lam Nguyên, sđd, tr. 225.)

Cái thâm nho trong văn học sử Tầu của tác giả Lam

Nguyên cũng gióng lên một tiếng chuông dè dặt “... cách tân phải đạt đến nghệ thuật...” và một thời gian ngắn không thể xác định được. (Sđd., 225.)

Cũng trong chiều hướng phát biểu dè dặt về nỗ lực cách tân thơ lục bát của Du Tử Lê, trong bài “Cõi tôi nơi Du Tử Lê”, (TG&TP, III, tr.131,) Tam Thanh sau khi ghi nhận những nỗ lực đóng góp những thay đổi lớn lao nhất trong canh tân thể lục bát, cũng đã trích dẫn 2 câu thơ tám chữ: “gió /nhấm nhẳng /cất chưng mùa hẹn, hết... / tình, lở, bồi /mưa /tróc vỏ /ta /trôi;” để phê bình quả thật Du Tử Lê đã đi quá xa trong đổi mới, đưa người đọc... đôi khi đi loanh quanh, luẩn quẩn không thấy lối ra, trong cái bẫy chữ nghĩa và bố cục của cú pháp. Đào sâu hơn và cũng lập luận đầy đủ hơn trong sự dè dặt đón nhận lục bát cách tân của Du Tử Lê là nhà giáo nhà văn NinhHạ / Nguyễn Đức Tâm trong TG&TP, III, tr. 65. Ngoại trừ sự dè dặt này, phải nói ngay trong toàn bài tác giả không tiếc lời khen tặng thơ Du Tử Lê về mọi mặt. Cả ở trong vài ý kiến bất đồng về kết quả nghịch ứng với mong đợi của Du Tử Lê, Ninh Hạ vẫn mong mỏi cho ước vọng của Du Tử Lê về quan niệm hoán vị được thành công. Ninh Hạ đã không vòng vo khi viết: ”... Thơ Du Tử Lê bây giờ để nhìn và đọc...Không ngâm được nữa vì... giữ vần thì không hết ý... Trúc trắc, trục trặc...” Phê bình cái lợi ích của cách đọc thơ hoán vị, Ninh Hạ

dẫn câu thơ:

“rừng /tôi /sâu /thở nốt chân trời.”

Rồi áp dụng 3 lối đọc hoán vị để kết luận... Riêng tôi, chỉ đọc không thôi cũng đủ “oải” rồi. Chưa hết, Ninh Hạ cũng còn vạch ra sự kiện “tùm lum” của các dấu chấm và “lạ đời khó chịu của các slash/gạch chéo”. (Xem thêm: Ninh Hạ-Nguyễn Đức Tâm, sđd., trang 65-78.)

Ở trên tôi có định tính cho những hồi chuông báo... động là bất ngờ nhưng cũng dễ hiểu. Thật vậy bất ngờ vì cho tới khi đọc mấy tác giả này, chúng ta hầu như không gặp bất đồng ý kiến nào trong suốt các tập TG&TP. Dễ hiểu bởi lẽ những người làm văn học nghệ thuật VN ở hải ngoại, theo tôi, đã ở mức trưởng thành và lương thiện trí thức đủ để nói lên sự thực về cái nhìn, cái cảm của họ đối với một tác phẩm văn nghệ hoặc một sáng tạo tân kỳ về một thể loại văn chương, một hình thái nghệ thuật nào đó, dù tác giả có là bằng hữu thân thiết của họ. Âu đó cũng là sự may mắn và niềm hãnh diện cho tiền đồ văn hóa dân tộc.

C.- Ý THƠ VÀ NGƯỜI THƠ DU TỬ LÊ.

Trong văn chương thường nói văn là người, theo tôi nghĩa rộng hơn là “Le style, c’est l’homme” của Pháp, vì bao gồm luôn cả nội dung của thơ văn. Do đó ta nhìn thấy nhiều hình ảnh Du Tử Lê qua thơ văn chàng. 

1- Người thơ của quê hương.

Không riêng các tác giả Việt Nam hải ngoại mà cả trong nước, có 2 nhà văn hóa, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài “Vài cảm nhận văn học VN hải ngoại” (Hợp Lưu 8/9-94) và Phạm Xuân Nguyên trong bài “Hình dung một bức tranh hoàn chỉnh về văn học dân tộc” (Hợp Lưu 4/5-95) đã trích dẫn 2 bài thơ của Du Tử Lê: “Vỡ lòng cho một người con gái Mỹ,” “ và “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển” để gạt bỏ chính kiến chính trị ra ngoài mà công nhận tinh thần yêu nước mãnh liệt nơi Du Tử Lê.

2- Người thơ của tình yêu nói chung và tình yêu lứa đôi nói riêng.

Có thể nói tới trên hai phần ba thơ Du Tử Lê viết về tình yêu và được hầu hết quảng đại độc giả ưa thích vì họ cảm thấy Du Tử Lê đã ít nhiều nói hộ cho mỗi người những cảm xúc riêng tư từ mỗi trạng huống tình yêu chân thực, hạnh phúc đấy mà cũng bi thảm đấy, éo le, oan trái do những mâu thuẫn, những nghịch cảnh xuất phát từ một xã hội chiến tranh, từ những luồng giao lưu văn hóa truyền thống đương thời, đông và tây, từ tiến trình giải phóng toàn diện con người nói chung và ở VN ta, có lẽ khởi đi từ “Loan” trong “Đoạn Tuyệt” được thấu cảm xót xa và phản kháng trường kỳ qua những vần thơ cực tả nỗi chịu đựng hy sinh vì nếp sống cổ hủ: “Anh đi đường anh, tôi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có

thế thôi”.

Từ những tập thơ tình đầu tiên thập niên 60 cho tới những cuốn xuất bản từ 1989 tới 1999, lấy những câu thơ làm nhan sách, chứa đựng nhiều ý nghĩ, cảm xúc sâu thẳm mà đầy những bí ẩn huyền nhiệm: “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu”, “Đi với về cũng một nghĩa như nhau”, “Chấm dứt luân hồi: em bước ra”, “Chỉ như mặt khác tấm gương soi,” “Hoa nào tim quả đắng đến không ngờ” Có lẽ Du Tử Lê đã được Thượng Đế chọn làm một thứ “Tử vì đạo”, cái đạo của tình yêu, cái lẽ sống vĩnh hằng của nhân loại nơi thế gian.

3- Người thơ của bằng hữu.

Chứng minh cho khía cạnh này chỉ cần độc giả để ý hầu hết mỗi bài thơ của Du Tử Lê đều có ghi dành tặng bạn hữu dù thân hay sơ (nếu là sơ hẳn phải có một đặc tính nhân bản nào đó), số lượng bằng hữu được Du Tử Lê nhớ tới đó dài tới chóng mặt. Chỉ cần trích dẫn hai tác giả sau cũng đủ đại diện cho nhiều vị khác đã phát biểu về tính cách này của Du Tử Lê. Nguyên Sa viết:

 “Mỗi lần nghe Trên Ngọn Tình Sầu, tôi liên tưởng đến một Du Tử Lê khác biệt. Lần gần đây tôi thấy Du Tử Lê ở quán LUP. Con chim sẻ nhảy nhót vui tươi, đứng gần cửa đón bạn bè thân hữu, con dế mèn trên sân khấu giới thiệu chương trình. Nhà thơ ngồi ở bàn Mai Thảo, rồi bay sang bàn Cò Dzu, dừng lại với những người sáng tác trẻ, những Trần Duy Đức, Trầm Phục Khắc,... Thứ Bảy nào cũng có họp mặt đón Trần Văn Trạch từ Pháp qua, ... ngâm thơ Tô Thùy Yên, trên sân khấu có Cao Đông Khánh... Quỳnh Như nhiều lần đến LUP ngâm thơ. Có cả Hùng Cường, Vũ Khanh, Tuấn Vũ... Lup đóng vai trò một “Club littéraire”, mang đậm sâu dấu vết Du Tử Lê.” (Sđd. trang 62.)

Ở một bài khác cũng trong TG & TP, I, (tr.153,) Nguyên Sa gặp cả những người bạn của Du Tử Lê: “Những Bành Nho, những Đào Quý Châu, những Kiểm, những Tư Cóc, Minh Dê, Hồng Trố...”

Và một trong những bài thơ tuyệt vời nói lên tình bạn

bất hủ nơi Du Tử Lê là: “Nhìn Nhau Chợt Thấy Ra Sông Núi” (Ai đọc rồi cũng cảm thấy đỡ bi quan vì trên đời này, trong tâm thức quằn quại của con dân Việt, vẫn còn có thể quên đi những nhăng nhố, tráo trở, thấp hèn thường thấy, để vượt lên và nhập vào thanh khí bằng hữu an lành trong thơ Du Tử Lê.)

Nhà báo và cũng là họa sĩ Khánh Trường, rút từ kinh nghiệm bản thân với Du Tử Lê khi chân ướt chân ráo định cư trên đất Mỹ, cộng tác với nhà thơ qua tờ Tay Phải 1987, đã phân tích và tìm hiểu Du Tử Lê qua thơ văn và đời sống trong một bài giá trị: “Nghĩ rời, khởi từ ở chỗ nhân gian không thể hiểu”, ông viết: ”Sống gần Du Tử Lê, tôi có dịp tìm hiểu thêm nhiều mặt khác của người thơ này. Nhạy cảm và chí tình với bạn bè. Chưa bao giờ tôi nghe Du Tử Lê phê phán chê bai một đồng nghiệp nào, dù đó là những người đi trước, cùng thời, hay đến sau. Khám phá ra một tài năng mới, ông mừng như chính mình đã thành công.”

Một trong những tài năng mới đó, nay đã thành danh theo Khánh Trường, kể cho ông nghe về chính bản thân tác giả đó, khi gửi đăng báo của Du Tử Lê, rất được Du Tử Lê trân trọng, khuyến khích nên tài năng mới đó coi như “một động cơ lớn giúp thêm tự tin khi chọn thi ca như một nghiệp dĩ”. (Sđd., trang 30.)

Tấm lòng đó của Du Tử Lê không chỉ với thi sĩ kia, mà còn với rất nhiều người khác. Ghi nhận này của Khánh Trường giúp ta hiểu rõ thêm cái “chân dung hồn hậu” mà Cao Thế Dung đã tặng cho Du Tử Lê.

4- Người thơ với tinh thần nhân bản.

Một trong những phương châm của nền giáo dục văn

hóa quốc gia là nhân bản. Hiểu theo nghĩa: một hệ thống suy tư và hành động theo những quan thiết, giá trị và nhân phẩm con người nói chung. Về phương diện này rất ít có nhận xét hoặc phân tích trực tiếp từ phía các tác giả, mặc dầu ngoài tinh thần nhân bản bàng bạc trong thơ Du Tử Lê kể cả thơ tình thuần túy, vẫn có một số bài thơ đề cập tới các khát vọng chính đáng của tuổi thơ, tuổi trẻ, của khối người yếu kém vì màu da, vì nơi chốn họ sinh ra, của những cặp tình nhân kẹt trong khuôn thước, luật lệ lỗi thời của tôn giáo, luân lý, của những ảnh hưởng tai hại do các tranh đua khám phá và áp dụng khoa học đối với môi sinh kể cả môi sinh ngoài không gian. Lã Huy Quý viết:

“Nhìn vào nếp sống tình cảm có vẻ bất cần dư luận, nhiều người chắc nghĩ Du Tử Lê phải là con người hướng nội mãnh liệt, sự thực qua thơ anh, tôi vẫn thấy anh là người hướng ngoại. Vậy Du Tử Lê hướng thơ mình về đâu: bằng hữu, đồng bào, tha nhân, con người và thế gian nói chung?” (Sđd. trang 81.)

Đây cũng là nhận xét của Nguyễn Mạnh Trinh:

“Phần thứ hai của ‘Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu,’

thi sĩ đã chuyển đến những đối tượng khác, cho nhiều người

và chẳng chỉ một người.” (Sđd., trang 89.) Lê Huy Oanh phân tích và tìm thấy ở một số thơ Du Tử Lê có thể gọi là “Phúc Âm Buồn” và, cần được rao giảng “để chữa cho hàng triệu triệu con súc vật người, tâm hồn chai đá, tàn nhẫn, hung bạo không còn biết buồn trong cái ý thức về thân phận mình trong vũ trụ.” Ông viết tiếp về cái khía cạnh nhân bản đó của Du Tử Lê: “Trong cái xã hội suy đốn cùng cực của thế giới hôm nay, may thay cũng còn có một số người -rất ít người- trong đó có thi sĩ Du Tử Lê vẫn cố gắng bảo vệ những tình cảm quý báu của con người, kêu gọi nhân loại phục hồi lại những giá trị tinh thần đó.” (Sđd., trang 17-21.)

Theo tôi, chỉ cần đọc tất cả những bài thơ trong tập “Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi”, ta sẽ thấy rung động với nhịp đập của con tim “nhân bản” Du Tử Lê với một Homeless Mỹ trắng, một nữ văn sĩ thời danh Mỹ đen, với “Phi Châu Ấn Độ, vẫn còn những đứa trẻ chết đói;” với linh hồn có các màu đen, vàng, trắng; với “Thư dặn dò con chưa có mặt”, với “Robot và tình yêu” của thi sĩ.

5- Người Thơ Của Di Truyền Giòng Giống Với Hệ Luận Nhỏ:

Khía cạnh tình dục trong thơ Du Tử Lê.

Về phương diện thơ Du Tử Lê mang tính chất “di truyền nòi giống”, và “phản hồi về nguyên thủy vũ trụ”, (đọc thêm: Lê Vương Ngọc: “Thử Áp Dụng Quan Niệm...” TG&TP, III, tr. 237 - 250;) đặc biệt xin ghi lại một khám phá thú vị của L.M. Trần Cao Tường viết trong Bán nguyệt san Ngọc Lân, số đề ngày 1-1-2000 liên quan tới câu thơ “Hoa nào tin quả đắng đến không ngờ” đã được minh triết bánh dầy bánh chưng của Việt tộc diễn thành một công thức đạo sống do Hoàng tử Tiết Liêu thể hiện. Linh Mục viết: “Khi nhiều quả đắng quá xuất hiện thì tưởng là không ngờ, chứ thực ra tổ tiên mình đã thấy được hậu quả đó từ lâu”.

- Khía cạnh tình dục trong thơ Du Tử Lê

Tôi nhớ có được đọc từ một văn hào Tây Phương đại ý:

“Lịch sử nhân loại, rút lại, là sự đương đầu giữa hai phái nam và nữ”, nói cách khác các biến thiên trong nhân loại phần lớn do tình dục nắm một phần nguyên nhân, gia dĩ kho tàng văn chương bất thành văn của dân Việt thật phong phú và hấp dẫn với các truyện kể và ca dao thật phong tình, nhẹ nhàng nhưng đôi khi cũng rất mãnh liệt và hiện thực. Không khác gì trong thơ Du Tử Lê khi đa số đồng ý Du Tử Lê là một nhà thơ của quê hương dân tộc. Trong những tập thơ đầu, nếu Du Tử Lê có đề cập tới tính dục, thường rất là tế nhị, hoặc có rõ rệt thì cũng được thi vị hóa tối đa để trở nên rất nhẹ nhàng, được tiếp nhận không những dễ dàng mà còn gây thích thú cho người đọc. Thí dụ như trong bài “Tình Sầu”:

“Ta như sương cao mà người như hoa sâu

....................................

“Người đã vì ta tan ước mơ

“Phấn son chửa ngát thịt da ngà

..........................

“Cỏ xanh áp má những đêm buồn

“Dế giun còn tiếc mùa ân ái...”

Hoặc như trong bài “Vọng động tôi”:

“Rừng tôi có luống ngô đồng

“Có hương tóc cũ, có giường chiếu xưa

“Có chăn gối lạnh...”

Hay trong “Ai nhớ ngàn năm một ngón tay”

“Tháng tư chăn gối nồng son phấn

“Thịt xương đã trộn như sông núi...”

Rồi như trong bài thơ rất phổ biến với tiếng nhạc lênh

đênh, tha thiết “Ơn Em”:

“Ơn em ngực ngải môi trầm...

“Cho ta cỏ mặn, trăm lần lá ngoan

Hay trong một bài khác:

“Ngực thơm hoa bưởi, môi đưa bão về”

Trong những bài thơ viết sau này khi đã mang nhiều vết thương lòng, những vần thơ nặng về gợi dục cảm bắt đầu sống động nóng bỏng hơn như trong bài: “Thấy trăm năm chỉ tựa một đôi giờ”:

“... Em nhan sắc chưa một lần ố bẩn

“Ôm tôi đi bằng tay Phật Thích Ca

“Ghì tôi đi bằng ý Chúa Ngôi Ba

“Son phấn nữa khắp lòng nhau thơm ngát...”

Kịp tới khi tuổi đã luống, các cuộc tình đã xa, các vết

thương lòng đôi khi tấy mưng trở lại, những “Đôi khi ký ức ta như sáp” của Du Tử Lê quyến chặt lấy thần trí chàng và những chua xót của mất mát, của lãng quên nơi con tim còn chưa hết thao thiết đã cho ta những vần thơ đầy dục tính hiện thực như trong tập thơ “Hoa Nào Tin Quả Đắng Đến Không Ngờ”:

“ Đồng ý chúng ta không còn cơ hội gác chân, tay lên

bụng nhau

“nhưng, cách gì, trái tim tôi

“cũng vẫn an lành ngủ giữa đôi nhũ hoa em...”

Hoặc ở trang 181:

“Người đàn ông mới nào

“cũng nhìn ngắm thân thể em

“như bức tranh chờ được

“khám phá và hoàn tất

“dù cho dưới bụng em

“đầy vết nứt

 “(và chính tôi

“cũng góp phần...)”

Tuy nhiên phải chờ tới hoặc trở lại tập thơ “Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà”, ta mới thấy giòng thơ tình dục băng trôi cuồn cuộn, hầu như bao khắp khoảng không gian và thời gian nào mà trí nhớ và tưởng tượng của Du Tử Lê còn tìm thấy được. Thí dụ như ở những trang 81, 82, 93, 102, 106, 107, 128, 154.

Trước khi sang phần kế tiếp tôi chỉ nhắc lại Du Tử Lê mang bản chất di truyền giòng giống, dĩ nhiên gói trọn luôn cả cái tính dục đa diện của dân tộc như trong ca dao phong tình, một rừng thơ truyền khẩu phóng khoáng đến độ nhiều khi rẽ hẳn sang bên lề của luân lý đương thời.


PHẦN HAI:

Thử Đối Chiếu Thơ Du Tử Lê với Thơ Ngoại Quốc: Pháp Trong số các tác giả viết về thơ Du Tử Lê có người cho rằng một số thơ Du Tử Lê mang tính cách tượng trưng, ấn tượng và siêu thực như Bùi Bảo Trúc (TG & TP II, tr. 55, 56,) hoặc có tính chất “rất siêu thực” ghi nhận bởi Trần Thu Miên, hoặc “những câu thơ/hát như mộng vừa thực, như lạc vào cõi hư vô siêu hình,” bởi Bác Sĩ nguyễn Văn Tuấn (Bns. Ngày Nay, Houston, TX, số 426, 1-1-2000.) Cuối cùng Giáo sư Chu Văn Hùng viết trong Bán nguyệt san Ngọc Lân số 77, 1-100, dưới nhan “Du Tử Lê, Linh Hồn”:

“Đến nay, anh đã có 42 năm sinh hoạt, đi từ tượng

trưng, đến ấn tượng, đến siêu thực.” Trong bốn tác giả kể trên ngoài Bùi Bảo Trúc là một nhà báo, nhà văn, ba vị còn lại là giáo sư các Đại học Mỹ ở Boston, Ohio và Concordia, Louisiana). Tôi sẽ sơ lược ghi lại những nét chính về các trào lưu thơ Pháp và sẽ trích dẫn phân tích và phê bình của các vị trên cùng vài nhận xét của riêng tôi liên quan tới các khuynh hướng trong thơ Du Tử Lê.

A. THƠ PHÁP TỪ LÃNG MẠN TỚI CẬN ĐẠI.

Theo G.S Louis Cazamian viết trong cuốn “A history of French literature” (Oxford xb 1964).

- Phái Lãng Mạn (1820 - 1850) xác định một nguồn cảm hứng văn chương mới với các tính chất: Ưa thích cảm xúc, cảm tính từ thế kỷ 18 kết hợp với khích động mạnh của tưởng tượng: - nguồn cảm hứng rút từ thời Trung cổ, các vùng đất xa lạ, bí ẩn, tàn lụi của vạn vật, thiên nhiên trong nguyên trạng (huy hoàng, trong sáng, dịu dàng.) Còn cảm xúc gồm các ao ước, bản năng, cả các ý tưởng cũng được thể hiện tự do hấp dẫn khác thường (Ảnh hưởng một phần do cách mạng Pháp 1789).

-Phái Hiện Thực (1850 - 85) do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học về thiên văn, vật lý, hóa học nhất là về nhân chủng qua cuốn “Origin of Species” của Darwin (1859) và “Tự nhiên thuyết” (Naturalism) phối hợp quan niệm thực chứng về bản chất con người và cái nhìn thực nghiệm về vạn vật. Balzac, Stendhal, Merimée thuộc hệ phái này. Cả Baudelaire cũng là một nhà thơ hiện thực trong cuốn “Les Fleurs du Mal”.

- Phái Tượng Trưng (1885 - 1914.)

* Tính chất: mơ hồ, dễ tan biến trước cả tế vi nhậy cảm của một nhà quán tịnh; ít nhiều là lãng mạn với cường độ khai thác tối đa những môi trường tế nhị, tranh tối tranh sáng; nhìn thi ca như một khám phá những bí ẩn của thực tại lẩn trốn sau thế giới hiện tượng.

* Các thi sĩ phái tượng trưng (Baudelaire, Mallarmé,

Rimbaud, Valery...) sử dụng nhạc tính và biểu tượng trong thơ. Do hồi âm trực giác, rung cảm tìm thấy chân lý và sự hiện hữu của hình ảnh thoát ra từ ngoại giới. Sự gợi ý và vang vọng của ý nghĩa thay thế cho sự xác quyết trực tiếp và phương thức so sánh cùng nội quan thay thế cho lý luận.

* Phái tượng trưng tự khoác cho mình cái “định mệnh

tinh thần” (spiritual destiny) có tính cách giải thoát, đã ảnh hưởng cả Âu Châu khi mọi người hào hứng tìm đọc Verlaine, Valery... Thơ của những thi sĩ này được coi là “supreme examples of a beauty!”

- Phái siêu thực - Cuối Thế chiến I và đầu Thế chiến II.

* Phản ứng xã hội và chính trị đi tới giai đoạn chót của giải thoát tâm hồn: Khai thác cái bản năng sâu kín của tâm linh (“Rối loạn đẹp hơn trật tự mục nát”) Yếu tính của phái này là sức mạnh từ khởi thủy vô nhiễm của con người (untainted power in man, his primitive force).

* Bắt đầu với khuynh hướng Dã Thú (di cư từ Thụy Sĩ)

kiếm tìm biểu tượng cho sự khinh mạn và hận thù các cố gắng thực hiện của trí tuệ và chủ trương độc đoán, chống hợp lý - nhưng phong trào này không có nhiều kiện tướng. Ngược lại một số chủ trương sát nhập với siêu thực (đại diện cho Tristan Tzara viết tuyên ngôn 7 bản (1924), vì lẽ chính: An art of negation cannot survive.

- Phái tượng trưng còn nổi tiếng cả trong lãnh vực Hội

Họa, Văn chương. Thoạt tiên Apollinaire tự hiến làm trung tâm thanh toán và yểm trợ cho phong trào tinh thần mới (Esprit nouveau) với các khuynh hướng Futurisme, Cubisme mà sau đó ô. Hàn Jean Cocteau tiếp tục xiển dương. Những thi sĩ siêu thực tên tuổi gồm Baudelaire, Corbière, Rimbaud, La Forque, Apollinaire. Từ Dada có Cubists. Picaso, Braque; thi sĩ có Reverdy, Char, Eluard, Apollinaire trở thành lý thuyết gia của Lập thể với cuốn “Les Feintres Cubists”, còn thi sĩ André Breton viết tuyên ngôn “Manifeste du surrealisme”.

- Sau thế chiến II có một phong trào văn chương khác, tương đối có giá trị qua thời gian là triết lý Hiện sinh của J. Paul Sartre, biểu hiện mạnh mẽ qua văn chương, ca nhạc và lối sống nhưng cũng chỉ náo nhiệt được vài ba chục năm rồi im lìm dần. Nét đặc thù:

* Con người tự quyết định và trách nhiệm về chọn lựa hành động.

* Tâm lý hiện sinh: buồn nôn trước vũ trụ vô chủ đích,

vô nghĩa.

 B. PHONG CÁCH RIÊNG THƠ DU TỬ LÊ.

- Bao gồm mọi khuynh hướng từ Đông sang Tây? Vấn đề đặt như trên có thể quá rộng hoặc thiếu khiêm tốn nhưng nếu nghĩ Du Tử Lê là một sản phẩm đặc biệt của VN thì từ vị trí địa lý của đất nước, tới những biến chuyển chính trị mang tới cho VN các nền văn hóa tươi tốt nhất của nhân loại, đại diện cho trời Tây là văn hóa Pháp và phương Đông là văn hóa Trung Quốc, được hòa hợp với văn hóa gốc VN, thành thử cái “Phong cách riêng thơ Du Tử Lê” có thể vô hình chung là một sự hài hòa dễ thương của nhiều sắc thái văn hóa Đông và Tây.

Ngay chính G.S James T.Y Liu dạy môn “Văn chương

Trung Hoa” tại Đại học Chicago, viết trong một cuốn sách về môn ông phụ trách xuất bản 1962, có đối chiếu thơ văn Trung Hoa với các khuynh hướng chính trong thơ văn Tây Phương và công nhận ngoài một số dị biệt vẫn có nhiều điểm tương đồng giữa các khuynh hướng Lãng mạn, Tượng trưng, Hiện thực, Siêu thực Tây Phương với một số thơ Trung Hoa. Thực ra vấn đề đòi hỏi nhiều sưu khảo dẫn chứng nhiều khám phá, phê bình khác nhau. Cho nên ở đây, tôi chỉ xin “thử” đối chiếu mà thôi.

- Tính cách lãng mạn - Cảm hứng lãng mạn như rút từ thời xa xưa, các vùng xa lạ bí ẩn, sự tàn phai tiếc nuối, thiên nhiên nguyên sơ hầu như có mặt đầy đủ trong bài “Còn thơm tay Quý Phi” (Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, trang 2. Nhân Chứng, Calif., 1989.)

“Tìm nhau mưa bụi trên đầu núi

“Thiên đàng trong mỗi bước em đi

“Mắt thơ lên ngút mùa hoa huệ

“Khăn áo còn thơm tay quý phi.

...........................

“Tìm nhau thao thiết hồn chim biển

“Chở hết mùa đi, đợi tái sinh

“Dáng em công chúa lìa cung điện

“Nên lãm-ca buồn mắt thiếu niên.

............................

 “Tìm nhau. Mẹ đứng triền tan tác

“Gội tóc ngày mưa thả xuống nguồn

“Ta đi mấy kiếp còn trông lại

“Lồng lộng trần gian một cõi riêng.”

Hầu như có thể thấy chất lãng mạng trong các thơ Du Tử Lê phần nhiều hòa hợp với các tính chất khác như hiện thực, tượng trưng, siêu thực v.v...

- Tính cách hiện thực: Khi nói thơ Du Tử Lê đôi lúc dùng chữ “sần sượng” chính là tính cách hiện thực đã biểu lộ: Tỷ như trong bài “Bình minh nhân loại mới” (Thơ Tình Du Tử Lê 1984, tr.29):

“Hãy hình dung hộ tôi

“Tóc người trôi đầy biển

“Xác trẻ vữa như vôi

“Những tiệc người của cá...”

Hoặc như trong bài “Chào buổi sáng” (Thơ Tình Du Tử

Lê / Love Poems;” (Nhân Chứng, California, 1984): “Đừng nhìn tôi...

“Bởi vì tia nhìn của bạn

“Chỉ khiến tôi thêm rõ

“Màu da tôi quá vàng

“Tròng mắt tôi quá đen

“Và những vết thương thầm kín

“Trong tâm hồn tôi

“Lại một lần thêm chảy mủ.”...

- Tính cách lãng mạn chung với hiện thực: như trong bài “Khi trở lại làm việc tại Collins Radio,” cũng trong

“Thơ Tình Du Tử Lê,” tr.20:

“Tôi ngồi nghe máu lao xao

“Những hương mưa cũ lối dào dạt cây

“Tôi ngồi nghe gió đâu đây

“Nhớ em tháng Chạp buồn ngây phố chiều

“Tôi ngồi lưng mỏi thân xiêu

“Nhủ tôi cơm áo còn nhiều đắng cay.”...

- Tính cách tượng trưng Tính cách này được hai tác giả Bùi Bảo Trúc và Chu Văn Hùng đề cập tới nhưng chỉ có bài viết của Bùi Bảo Trúc là phân tích có chứng dẫn bằng những đề thơ như: “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển” và “Đêm, nhớ trăng Sàigòn”. Nhưng đọc kỹ bài “Khi tôi chết...” ta thấy ý thơ và lời thơ đầy tính chất hiện thực, không hề có hình ảnh mơ hồ, tranh tối tranh sáng, cũng không nặng về nhạc tính và cuối cùng là những xác quyết bao gồm luôn cả lý luận cho nỗi xúc cảm. Có thể bạn Bùi Bảo Trúc đã bắt mạch trúng tính cánh tượng trưng trong bài “Đêm, nhớ trăng Sàigòn” mặc dầu nhiều biểu tượng trong thơ vẫn phảng phất chất lãng mạn. Trong tập thơ “ Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu” (Tủ sách Văn học Nhân Chứng, Calif. 1989,) ngay từ một số bài thơ mở đầu đã có rất nhiều tính cách tượng trưng. Như “Bài Nhân gian thứ nhất”:

“đôi mắt người hồ như biển đông.”

“mái tóc người hồ như rừng cây.”

 “tôi có người hồ như vết thương.”

“tôi có người hồ như tấm gương.”

“......... hồ như tiếng chim”...

Hay “Bài nắng mưa thứ nhất”:

“này yêu dấu thiệt không hồn luống tuổi

“gió hai hàng cây lá đuổi theo nhau

“em ơ lại trông chừng tôi góc phố

“những ngọn đèn xanh đỏ đã bao lâu.”

“này yêu dấu thiệt không bờ tóc thả

“tội chim trời còn lạc lối chiêm bao

“rừng thổi mãi mối tình ai nhiệt đới

“thịt xương tôi trong xích đạo kẻ nào?”...

Hoặc “Bài nắng mưa kế tiếp”:

“bỗng chai sượng thấy hình ai ở đó

“lược gương xưa thức dậy mối nghi ngờ

“ta mất tích giữa đường ngôi thứ nhất

“rẽ bên nào cũng chỉ lấp chôn nhau

Và:

“nói rất nhỏ nghĩ thầm em sẽ hiểu

“đi với về cùng một nghĩa như nhau.”

- Tính cách ấn tượng.

Được đề cập thoáng qua bởi các tác giả nêu trên, nên tôi sẽ chỉ lướt qua tính cách này, vì trước hết khuynh hướng ấn tượng áp dụng rõ và nhiều trong lãnh vực hội họa hơn là văn chương. Theo định nghĩa ấn tượng “một thể loại nhấn mạnh tới các ấn chỉ về những trạng huống tinh thần và cảm nhận, ta dễ thấy tính chất này bàng bạc phảng phất giữa các tính chất trội yếu khác.”

- Tính cách siêu thực. Do sự hỗn hợp giữa một thiểu số

khởi đi từ phong trào dã thú với đa số theo siêu thực chính danh, tính chất của siêu thực là giải thoát tâm linh bằng cách khai thác các sâu kín nhất của tâm hồn, tìm về cái sức mạnh con người nguyên sơ, khinh mạn và chống báng các thực hiện của trí tuệ. Theo Bùi Bảo Trúc với hai tập thơ “Đi Với Ve,à Cũng Một Nghĩa Như Nhau,” (Nhân Chứng, Calif., 1991;) và “Chấm Dứt Luân Hồi: Em Bước Ra,” (Nhân Chứng, Calif., 1993,) Du Tử Lê đã ngả sang khuynh hướng siêu thực, khẳng định này của nhà văn Bùi Bảo Trúc khá xác đáng và những câu thơ mang nét siêu thực không hiếm trong hai tập thơ này.

Lược trình về khía cạnh siêu thực trong thơ Du Tử Lê tôi cảm thấy thú vị khi đọc các nhận xét và phê phán của hai giáo sư Trần Văn Thành tức Nhà văn Trần Thu Miên và Nguyễn Văn Tuấn. G.S Trần Văn Thành viết trong bài “Hành trình sáng tạo của Du Tử Lê” đã phân tích câu thơ “Đi với về, cũng một nghĩa như nhau” như là chính hành trình sáng tạo thơ Du Tử Lê từ chỗ chối bỏ bản ngã để rồi trở về với chính mình. Câu thơ đó, theo ông có thể hiểu như :

“Một tuyên ngôn về ý nghĩa và định mệnh đời sống”.

Hoặc:

“Là sự khẳng định về cảm nghiệm cô đơn...”

Và khi Du Tử Lê trở về được “với chính bản thể mình “Du Tử Lê đã diễn tả sự cô đơn một cách rất siêu thực.” G.S Nguyễn Văn Tuấn cũng giao hưởng với nhận xét của G.S Trần Văn Thành dưới một dạng thức khác hơn, gần với tuyên ngôn của siêu thực Tây Phương hơn, khi ông viết: “Hành trình thơ của Du Tử Lê là Một Cuộc Chinh Phục Trí Tuệ Tự Do để cuối cùng đạt tới cái chính mình.” Trong một vài trích dẫn khác, ông nhận định thơ Du Tử Lê “có độ siêu hình cao” (K.Khúc của Lê) - hoặc Du Tử Lê viết “những vần thơ có tính cách thoát ly thực tại để đi đến cõi siêu hình (“Hãy bảo tôi”, “Dòng suối trăm năm”). Cuối cùng ông viết:

“Những câu thơ / hát như vừa mộng vừa thực ấy, như lạc vào cõi hư vô siêu hình đã làm nên một phong cách rất Du Tử Lê.” (Bán nguyệt san Ngày nay, bđd.) Thành thật cám ơn G.S Nguyễn Văn Tuấn đã, “khủng bố” (Valery, dẫn theo Bùi Bảo Trúc) ra được cụm từ “Một Phong Cách Rất Du Tử Lê” mà tôi mượn để làm tiêu đề cho phần này.

KẾT LUẬN.

Để chấm dứt bài lựa lọc và kiểm điểm khá dài về những tác giả đã viết về Du Tử Lê, người và thơ, tôi nghĩ hầu hết những điều đáng tìm kiếm, đáng vạch ra, đều đã được đề cập tới, nhiều và quá đầy đủ. Thành thử ở đây tôi chỉ xin nói thêm chút ít về một vài khía cạnh tế nhị, khó phân định nơi Du Tử Lê. Du Tử Lê theo đạo nào hoặc ngả về đạo nào? Qua những bài thơ viết về Thánh Nữ, thấy những danh từ và điển tích chàng dùng tự nhiên và chính xác như một người bổn đạo, ta có thể cho chàng thuộc Thiên Chúa giáo. Ngược lại khi đọc những bài viết cho một người yêu dưới danh xưng “Bồ Tát”; ta lại thấy chàng dường như biết nhiều và biết đúng Phật thuyết, ở nhiều nơi khác, Du Tử Lê sống với bằng hữu và tha nhân với một tấm lòng đầy nhân nghĩa hệt như một người quân tử của đạo Khổng, và sau hết thiếu gì thơ Du Tử Lê có cái bát ngát an nhiên, không so đo, tranh đua hẹp hòi, cái khao khát “quy kỳ căn” của Lão Trang! Lại cũng đúng với cái “bản chất dân tộc” của Du Tử Lê, chàng đã chỉ phản ảnh cái văn hóa của ông cha từ lâu đời cộng với sự du nhập của Thiên Chúa Giáo nhiều thế kỷ nay để trở thành một nhà văn hóa nhân bản đích thực. Để chứng minh cho khẳng định trên, xin đọc bài tứ tuyệt sau:

“Thiên đàng địa ngục hai hay một

“Ta với em là không với không

“Chân đi tiếng động vô hình tích

“Cũng về trong một cửa quên chung”.

Câu một thuộc giáo lý Ky Tô, câu hai rõ ra Phật thuyết, còn hai câu chót tự nhiên như tiếng gió thổi, lá bay, như giờ phút này đang qua đi trong cái thanh tịnh của Đạo học. Cũng như Du Tử Lê thường nghĩ thơ của mình không thích hợp cho một đối chiếu nào với các trào lưu Tây Phương. Sự thực không phải vậy, chỉ cần trích ra một bài trong nhiều bài, đủ cho thấy thơ Du Tử Lê nhiều khi ngay trong một bài thật ngắn bao gồm luôn nhiều khuynh hướng thơ Tây Phương. Tỷ như trong bài “Em thụ thai niềm hiu quạnh tôi” trong tập “Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà / Your Sented Garden, My Nostalgia”:

“Chuyến xe chở nốt bình minh cũ (Tượng trưng.)

 “Mặt khác thời gian: những miếng trời (Siêu thực.)

“Cây dang tay đỡ bầu mưa sữa (Dã thú.)

“Em thụ thai: (Hiện thực + Tượng trưng) Niềm hiu

quạnh tôi (Trữ tình.)

(Sđd., trang 82.)

Ở một phần trên, tôi có viết từ đau khổ tột độ trong tình yêu, Du Tử Lê đã vươn lên cái thanh khí của trời cao và dường như tới ngưỡng cửa của huyền nhiệm. Điều nhận xét có vẻ quá đáng này may mắn thay lại được sự cộng hưởng của Linh mục Thạch Sơn-Nguyễn Huy Tường, (TG&TP, tập III, tr.120.) Chỉ những vị tu hành gần tới đắc đạo mới tìm ra chân lý trong huyền nhiệm và các nhà văn nghệ sĩ thì phải được chịu ơn Thiên Khải. Tỷ như đại nhạc gia Beethoven nhờ ơn Thiên Khải mà có những hợp xướng khúc tuyệt diệu, nhất là bản Christmas Joy.

Cố thi hào Vũ Hoàng Chương, như nhiều người khác không tránh được đụng chạm với những phần tử phức tạp bất hảo trong xã hội đã gây cho ông nhiều buồn phiền, ông dùng thơ để giải tỏa và đứng ở một quan điểm cao ngạo và siêu thoát:

“Nói chi thua được với đời

“Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu

“Tâm hương đốt nén linh sầu

“Nhớ quê là thế ta cầu đó thôi...”

Nhưng ở Du Tử Lê, người thơ dung dị, hiền lành và nhũn nhặn này, chàng cũng dùng thơ để bày tỏ những ai oán do cái nhìn cổ lỗ của một số đạo đức thiệt và không ít đạo đức giả về những mối tình ngang trái của chàng. Ta hãy nghe thi sĩ than van trong “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu”:

“Sông núi cũ rủ tôi về với đất

“Bốn mươi năm ngơ ngác làm người

“Trên thân xác đã mọc đầy móng vuốt

“thì có gì sai, đúng với ai đây?”

May mắn ở xã hội VN. Có nhiều ngàn năm văn hóa còn có nhiều thức giả giải oan và đồng tình với Du Tử Lê, ngoài Khánh Trường, tôi xin trích dẫn Nguyên Sa: “Đúng thế. Có gì sai đúng với ai đây? Du Tử Lê đã tìm ra nó. Đã tìm ra nó ở bên ngoài những phán xét của nhân gian, bên ngoài chân lý, vô luân lý và phi luân lý. Đã tìm ra nó. Sự sống. Cũng như anh đã tìm ra trái tim cho thơ.” (Sđd. trang 157.)

Nhận định trên đây của Nguyên Sa theo tôi, có tính cách xác quyết. Nó cũng phù hợp với một nhận định khác mà tôi dùng để kết thúc bài này. Đó là Tạ Tỵ: “Thơ Du Tử Lê là một sợi giây nối dài từ VN, quê hương yêu mến qua nước Mỹ. Nói đến thơ Du Tử Lê là nói đến khám phá trong mỗi từ, mỗi ý. Khen hay chê đã vượt khỏi mức của một tài hoa phong phú, trong một con người đa dạng” (sđd.)

Garden Grove, 5-15-00

Lê Vương Ngọc



MẠCH NHA,

MỖI LẦN DU TỬ LÊ XUẤT HIỆN,

TÔI THẮP MỘT NÉN HUƠNG CHO HẠNH.

- Hạnh! Mày đang ở đâu? Hôm nay Du Tử Lê lại xuất hiện đấy!

- Thế nào?

- Mail. Chàng muốn tao viết gì đó về chàng.

- Mày đủ ca-líp sao?

- Tất nhiên là không.

- Mày có kỷ niệm với ổng sao?

- Không có bao nhiêu, ngoài chuyện dính dáng đến mày, cho tao nói không?

- Tao thì ăn nhập gì đến văn chương!

- Ơ, cái con này, thế mày tưởng văn chương là gì?

- Nhưng tao không liên quan gì đến oâng ấy cả!

- Có chứ!

- Gì?

- Mày quên rồi!

***

Chiều tà. Hai đứa con gái rê chân trong sân trường của những ngày cuối năm học chẳng còn bao bóng người, của lá bồ đề lướt mướt nước mưa, của cát nặng im lìm trong hố chuyền, của bóng xìu lặng lẽ trong góc lưới, của thư viện vốn tăm tối giờ tắt hẳn ánh nê-ông nguội, của những băng ghế đá nối nhau trống không, của bãi xe chỉ còn loe ngoe dăm ba chiếc. Giữa không khí buồn buồn, văng vắng, lành lạnh, nằng nặng, tôi tối, tương phản với sức sống đôi mươi ấy, tôi choàng tay qua eo Hạnh ủy mị: “Lạnh quá!”, và kinh ngạc bị Hạnh hất ra chứ không để yên hay ôm lại như nhiều lần. Ngỡ ngàng nhìn. Hạnh đỏ mặt. Trước ánh mắt tôi gắt gao truy đuổi, Hạnh lí nhí thú tội:

- Tao cho Nó rồi.

- Cái gì?

- Ờ, tại vì...

- Tại vì cái gì? Tại vì cái gì chứ!

- Thơ.

Hạnh cho đứt nó của Hạnh chỉ vì mấy câu thơ. Nó đi theo xin Hạnh bốn năm trời ròng rã bằng bao nhiêu của đút lót nặng ký, bao gồm hoa phượng vĩ hái tì tì từ chùm nở trước mùa chưa kịp chín đỏ, tháng tư, đến chùm muộn hiếm sau mùa dẫu nẫu nuột vẫn gượng nương níu, tháng chạp. Cao hứng, nó bán mạng, leo tít cành cao nhất cây, hái cho bằng được hoa đầu ngọn, mặt đã xanh lè vì sợ, miệng vẫn bai bải: Forget Me Not!

Còn nữa làm chi, những bài giải toán, lý, hoá hắc búa, nó chép tay chi li mực xanh mực đỏ, gạch đít, xuống hàng, mũi tên, ngoặc đơn, ngoặc kép. Và, trái vải thiều to nhất chùm má nó chừa cho thằng con trai út, viên kẹo chocolat Mon Chéri bọc rượu chị nó gửi về từ Pháp chia đều cho cả nhà mỗi người đúng một viên, nó phóng ngay lên hông-đa, đêm hôm khuya khoắt còn cố giựt chuông cửa, kéo Hạnh ra, bắt nhắm mắt để chính tay nó lột lớp giấy bọc, bắt mở miệng để nó đút nguyên viên vào, bắt ngậm miệng cho nó nhìn Hạnh sung sướng, và biết bao dịch vụ lớn nhỏ khác... Tất cả đều xôi hỏng bỏng không. Bây giờ, hỡi ôi, thơ gì? Thơ gì thế hả? Tôi cong cớn. Giận Hạnh phản bội lời hứa danh dự treo giá ngàn vàng ít nhất cho tới ngày ra trường, nhưng, lạ thay, tôi thuộc lòng ngay mấy câu thơ lựu đạn mà chẳng cần phải nghe đọc lại lần thứ hai. Cơn giận tôi chưa kịp nguôi ngoai thì Hạnh đột ngột hôn mê vô căn cớ, một buổi chiều, ngay trên chỗ Hạnh vẫn đêm đêm trở mình những giấc mơ con gái. Những giấc mơ mà Hạnh đã tin cẩn kể cho tôi nghe, không bỏ qua mấy điều “kỳ quá.”Máu thịt tôi vẫn xôn xao khó tả cùng loài chim bói cá trên cọc nhọn trăm năm, chưa kịp thành thật khai báo với Hạnh rằng chính tôi cũng đứ đừ đư dù chỉ nghe đọc lại từ miệng một đứa con gái, huống hồ chi Hạnh, thì Hạnh đã vội vã nhắm mắt, một buổi sáng, trước khi tôi kịp vào gặp, trên chiếc giường drap ố, bệnh viện Chợ Quán.

Mười hai năm sau, tôi gặp tác giả bài thơ mà ngày ấy, tôi cứ tưởng của ịnóỂ làm cho Hạnh, nên ghen tỵ, sao Hạnh được thằng con trai yêu mình làm thơ ngầu thế! Thời ấy, tôi chỉ nhận được những câu chán ốm người, kiểu “Lưu là luyến / Niệm là vương / Niệm - Lưu hai chữ vấn vương trong lòng”. Ốm người.

***

- Ê nhỏ, mai tao gặp thủ phạm nụ hôn đầu đời của mày.

- Khanh? Nó đến Paris sao?

- Không phải Khanh. Nó cũng chỉ là nạn nhân thôi. Thủ

phạm là nhà thơ kia. - A! Đừng bao giờ em hỏi vì sao ta yêu nhau!

- Đúng rồi!

- Ổng... sao ta?

- Mai mới gặp.

- Chắc dễ sợ lắm.

- Vì sao môi anh nóng, vì sao tay anh lạnh, vì sao thân anh run, vì sao chân không vững, vì sao và vì sao... Trời ơi!

- Ủa, đâu có hai chữ trời ơi chỗ đó!

- Hai chữ đó của tao chêm vô.

- Sao mày thêm tầm bậy làm hỏng thơ người ta!

- Mày ngu quá, làm thơ, làm nhạc, làm bếp, hay làm... bất cứ cái gì chính là cất lên một tiếng ơi. Cái tiếng ơi đó được ới lại bằng hai chữ Trời Ơi là đủ hết đời rồi đó. Đủ, hết một đời. Hiểu chưa, nhỏ?

***

- Sao, ổng sao? Nói đi! Kể tao nghe đi!

- Ổng hả? Thế này này: ... /... /... ,,-... , ... / ? ! /... ,... ,... -

... , ... /... /... /... ////... ?. ?...?!!!!!!!!!!!!!!!!!!.../

- ( )

Ngắt im lặng rất dài của Hạnh, tôi hỏi:

- Sao mày buồn vậy?

- Phải chi hồi đó người phà thơ vào cổ tao không phải là thằng Khanh!

- Chứ mày muốn thằng nào?

- Còn hỏi!

- Trời! Mày điên! Là ổng hả, mày chết liền chứ ở đó mà

được yên thân như với thằng Khanh. - Nhưng tao chết rồi! Lạnh ngắt mười mấy năm rồi! Mấy con vi trùng khốn nạn nó đã chui vào cắn nát bét màng não tao! Mày tính coi, chết vì một người viết những lời máu lửa (cho mình, hay không định viết cho mình nhưng mình cứ cho là người ấy viết cho riêng mình đi, để mặc sức hồn nhiên hưởng phúc) có sướng hơn chết vào tay lũ vi trùng lãng quẻ kia không? Tôi thắp thêm một nén hương cho Hạnh sau câu nói ấy.

***

Nhà thơ thủ phạm, Như vậy đó. Rủ rỉ rù rì đàn bà con gái chúng tôi với nhau có ông, và thơ ông - tất nhiên - làm đề tài, lập đi lập lại, bao nhiêu lần vẫn rộn rã như bánh kẹo ấu thời, mê hăng như gái trai mới lớn, ngay cả, khi Hạnh của tôi đã ra người thiên cổ. Tôi nói, ngay cả khi Hạnh của tôi đã ra người thiên cổ, bởi vì, đúng thế, cho tới bây giờ, hai đứa tôi vẫn tiếp tục trò chuyện với nhau. Ví dụ một đối thoại:

- Bài thơ ấy còn một đoạn nữa, khắn vào tao.

- ?

- Hãy cho anh được thở

Bằng ngực em rủ buồn

Hãy cho anh được ôm

Em, ngang bằng nỗi chết

- Sao bây giờ mày mới đọc tao nghe đoạn này?

- Vì sau khi chết rồi, tao mới biết có đoạn thơ này. Hồi thằng Khanh đọc để tán tỉnh tao thì nó cũng không biết hoặc đã cố tình bỏ hẳn đi.

- Chết rồi mới biết có đoạn thơ này là thế nào?

- Thoát trần rồi, nhìn được thấu đáo. Chết có cái sướng

ấy. Khi nào chết, mày sẽ biết. Mày sẽ thấy được những gì mày hằng khát khao thấu hiểu. Ví dụ như là, đáy tim người. Mày sẽ thấy những gì không thể nào thấu thị bằng mắt thịt.

- Chết sướng vậy sao?

- Ờ, sướng vậy đó.

- Vậy tao cũng muốn chết.

- !

- Để nhìn đáy tim Người.

- Hi hi... chưa được.

- Tại sao?

- Chưa tới giờ của mày.

- Có người xếp giờ cho mình chết hả?

- Đúng vậy.

- Vậy tao muốn đổi giờ. Tao phản đối chuyện người khác

sắp đặt tao giờ này giờ nọ. - Thôi đi, bồ ơi, đừng có tưng.

- Tao nói thật. Muốn nhìn thấy quá, ngay bây giờ, đáy tim Người.

- Con điên này! Không biết thú đợi chờ là gì hay sao? Bộ muốn chết là chết ngang xương hả? Trở về vị trí đi! Không được đốt giai đoạn. Không được chen lấn. Sống trật tự, chết cũng phải trật tự.

Mắng tôi xa xả oang oang không chưa đủ, Hạnh sai khiến con Migraine đến đấm thùi thụi vào mặt, vào đầu tôi suốt mấy ngày liền, cho chừa cái tật Đi Vội Về Sau (*). Nhà thơ thủ phạm, bây giờ tự xưng cậu học trò trên sáu mươi tuổi đang chờ giờ điểm danh cuối cùng, ông biết không, bạn tôi, Nguyễn Mỹ Hạnh, xinh đẹp lắm. Hoa khôi trường Sư Phạm thuở ấy. Nhưng, xinh cái mắt, đẹp cái môi không thôi, hẳn đã chẳng đủ để ra đời một bài hát chưa được Tùng Giang công bố làm cho riêng Hạnh khi sinh thời, và một bài tùy bút Trịnh Công Sơn khóc Hạnh trên mặt báo khi xa đời. Từ Hạnh toát ra thứ hương sắc mãnh liệt, thể như biết trước sẽ đoản mệnh nên ngày còn, phát tán tận cùng.

Nếu như Hạnh và ông gặp gỡ nhau ở đời này, tôi tin sẽ có, ít nhất, một bài thơ khủng khiếp để thêm vào kho tàng của Lê, đồ sộ, giàu tình, vẫn sẽ không bao giờ là đủ, ít nhất là cho ông, và cho Hạnh.

Ngày ông đến Paris, lúc ông tươi cười nắm bàn tay tôi trong hành lang trước khi chúng ta bước vào bên trong thính phòng, ông không để ý, tôi đã làm một hành vi kỳ khôi. Hạnh đứng sát bên tôi, nhìn ông không chớp mắt, và tôi có quay qua nói vội với bạn tôi một câu. Tôi nói:

- Tao có duyên hơn mày.

Paris, thêm một nén hương cho Hạnh, tháng 12.2006

Mạch Nha

(*) Đi Vội Về Sau: chữ của Phạm Duy



NGUYỄN ĐỨC TÙNG,

DU TỬ LÊ, MẸ VÀ TRƯỜNG CA.

Thơ Du Tử Lê thường làm tôi nhớ mẹ. Nhớ một ngày cuối năm tôi đưa mẹ tôi ra bến xe đò liên tỉnh miền Đông, mua vé cho bà về quê ngoài Trung ăn Tết. Mẹ tôi bất ngờ, bà hỏi nhỏ, sao đứa con trai út của bà, đứa con trai duy nhất của bà, sau khi anh tôi mất, từ lâu, như một người lính trên chiến trường, không giữ bà ở lại? Tôi quay mặt đi, cằn nhằn: Tết này con học hành công việc bận lắm, mẹ cứ về trước lo cúng giỗ. Ra giêng con sẽ về thôi. Tôi đã nói dối mẹ tôi lần đó. Biết bao lần tôi đã nói dối mẹ? Tôi biết tôi sẽ không ăn tết ở Việt Nam. Một nơi nào đó, nhưng không phải Việt nam. Có thể là trên biển Đông. Hay là không có một cái Tết nào cho tôi cả.

Mẹ mặc chiếc áo nâu sẫm bằng hàng satin, chiếc quần

Mỹ Á màu đen, hơi bạc màu, nhưng còn mới, những thứ bà vẫn để dành mặc mỗi khi ra ngoài. Tôi nhớ thời nhỏ mặc dù gia đình tôi không đến nỗi nghèo, bà vẫn có tính cần kiệm, vào mỗi năm vào ngày khai trường chỉ sắm cho các con mỗi đứa một bộ quần áo, riêng mình thì mặc thứ vải thô tiện dụng cho công việc vườn tược đồng áng. Xe chuyển bánh, bà kịp thò đầu ra ngoài đưa chiếc nón ra vẫy, vành nón lá hắt xiêu xiêu ánh mặt trời chiều che khuất một phần hàng chữ màu đỏ trên thành xe mà lớp sơn xanh lá mạ tróc vảy nhiều choã: xin đừng thò đầu và tay ra ngoài.

Sau này, ở xa đất nước hàng ngàn dặm, đôi khi giữa những giờ làm việc căng thẳng, trong buổi trưa chợp mắt, mệt nhoài, tôi thường mơ thấy mẹ tôi, chiếc áo ngắn màu nâu bằng vải satin và chiếc nón của bà bay phấp phới. Bên kia biển Đông. Tôi chưa từng có ý kể với ai điều riêng tư này. Cho đến khi tôi đọc Du Tử Lê vào năm 1989 và trường ca của anh: Trường khúc Mẹ vể biển Đông, phụ tập của một tập thơ. Anh là một trong những người đầu tiên nói với tôi rằng, một người đàn ông trưởng thành có thể khóc không phải chỉ trong bóng tối, và anh ta có thể kể cho người khác nghe về những bí ẩn của đời sống mình, có thể nói về mẹ như một đứa con trai nhỏ bé.

Vì nói cho cùng có một người nào trên đời này lại có thể thoát khỏi, bước ra khỏi, chiếc bóng của mẹ mình? 

Mẹ nằm thế chỗ cho con

Thịt xương cõi khác. Biển vàng sau lưng

Du Tử Lê mất cha từ năm anh lên ba tuổi. Hình ảnh nào của ông còn in lại trong tâm trí non dại của anh? Sự thiếu vắng người cha trong gia đình đã ảnh hưởng đến anh ra sao? Người đàn bà góa bụa sẽ dồn tình thương yêu đối với chồng lên các con của mình, nhất là con trai. Ngược lại, những đứa trẻ cũng đi tìm nhiều hơn ở người mẹ sự đùm bọc chở che. Quan hệ mẹ con, cùng với các quan hệ khác như cha con, anh chị em, bà con và bè bạn, tạo nên sợi dây nối kết vững bền, là rễ của cây, chúng càng mạnh mẽ, ăn sâu và đất, cây càng lớn, đâm cành trổ nhánh, ra hoa. Những biến đổi bất thường trong các quan hệ này sẽ dẫn đến những biến đổi khác ở đứa trẻ, tuổi mới lớn, tuổi bắt đầu trưởng thành. Một người mẹ quá nghiêm khắc với con, ít biểu lộ tình thương, sẽ mang lại sự giận dữ lặng lẽ ngấm ngầm, chỉ chờ dịp là hiện ra, một người mẹ quá thương yêu hoặc nuông chiều con, nhưng thiếu kỷ luật, sẽ tạo ra sự phóng túng, sự vô minh đối với các giới hạn, ở đứa trẻ.

Tôi tự hỏi do đâu mà Du Tử Lê chiêm nghiệm được điều này:

Hãy để một người đàn bà chưa một lần sanh nở

Biết được thế nào là sanh nở

Hãy để những đứa trẻ

Thiếu cả mẹ lẫn cha

Lớn lên

Sẽ tin cậy sự dịu dàng từ bàn tay kẻ khác

Đứa trẻ lớn lên trong một môi trường vừa thương yêu vừa nghiêm khắc mau chóng học được sự tin cậy ở người khác và sự bao dung đối với trần gian. Những đứa trẻ cùng lớn lên trong một gia đình cùng cha cùng mẹ có thể khác nhau vì bản thân mối quan hệ của chúng đối với cha mẹ cũng hoàn toàn riêng rẽ. Sự gắn bó của anh chị em trong gia đình và sự đối nghịch giữa họ cũng phần nào phản ảnh mối quan hệ của từng cá nhân đối với cha, nhất là mẹ mình. Tôi có cảm tưởng Du Tử Lê là người được mẹ anh thương yêu nhất nhà. Có phải không, hay chẳng qua chỉ vì tôi cũng là con trai út như anh?

Trường khúc mẹ về biển Đông hình như là trường ca duy nhất của Du Tử Lê, và hình như là trường ca duy nhất viết về mẹ trong nền thơ Việt Nam. Nhiều người bắt đầu biết đến nó, nhưng có lẽ ít người hơn để ý rằng anh là một trong những nhà thơ thường nhắc đến mẹ nhiều trong văn chương của mình. Hãy nghe đứa con trai nhắc lại:

Mẹ tôi chẳng bao giờ biết tới văn chương

Chẳng bao giờ bà cần biết tới

Bà chỉ có mỗi điều lo lắng

Là áo cơm, mồ mả

Anh nói về mẹ của anh hay mẹ của tôi? Hay mẹ của

những người khác nữa? Những người đàn ông Việt Nam, chỉ biết tới văn chương, hay chỉ biết tới chiến tranh, cách mạng, hay chỉ biết tới những điều lớn lao huyền ảo khác?

Ôi nếu một người đàn bà cả đời chỉ thờ chồng nuôi con

Miếng ngon không ăn

Mảnh vải đẹp không mặc

Mà vẫn phải xuống âm ty cho quỷ thần tra khảo

Thì biết còn ai lên niết bàn

Biết còn ai về lại biển Đông ?

Có lẽ đây là lời tụng ca đẹp nhất của một người con trai dành cho mẹ mình. Du Tử Lê cũng dành nhiều tâm tưởng cho kỉ niệm tuổi thơ, trong đó hình bóng của mẹ nghiêng xuống như sự dịu ngọt của sữa, như mùi thơm của hoa hoàng lan, như khói bếp lam chiều. Sao anh cứ nhớ về mẹ anh nhiều như thế, anh Du Tử Lê? Và ngoài ra, biết bao lần tôi cũng nghĩ về anh trai của tôi, đã mất, tương tự như thế này :

Con về mẹ ngỡ trong mơ

Chiếc xe ai đó vừa qua nhận còi

Có lẽ vì anh cô đơn quá, vì cõi người vừa chật hẹp vừa mênh mông, hay vì những người phụ nữ trong đời mình khi anh lớn lên lần lượt bỏ anh mà đi. Mỗi người một cách. Mối tình đầu tiên năm 18 tuổi, hay là sớm hơn. Mối tình kế tiếp, mối tình ở giữa, mối tình gần cuối, mối tình suốt đời. Nhưng có mối tình nào mà không suốt đời?

 Chim có trời với đất rất thênh thang

Tôi chẳng có một chốn nào để ở

Hay vì chúng ta khi nào cũng thương cảm và ngưỡng mộ trước sự hy sinh của người mẹ, vô bờ, vốn là đức tính muôn đời không đổi của người phụ nữ. Tôi tin rằng sự hy sinh dành cho con của mẹ là một thứ gene di truyền mạnh khủng khiếp, mạnh nhất trong các di tử di truyền của loài người, thuần như đất, bền như kim cương. Du Tử Lê biết cách nói về điều đó, cũng giản dị mà chấn động lương tâm.

Lòng già sớm bạc cơn mong

Sáng vun chân mộ, chiều trông nhang tàn

Bao nhiêu người phụ nữ đi qua, hàng chục năm sau nghĩ lại, là bấy nhiêu lần tôi lầm lỗi. Đến một tuổi nào đó, trưởng thành hơn, mặc dù chẳng bao giờ hoàn toàn trưởng thành, người đàn ông tìm cách thu xếp lại tâm hồn mình. Muốn như thế, họ phải thương thảo với quá khứ. Làm cách nào? Họ không biết. Không ai dạy họ cả. Không có một cuốn sách nào dành cho tất cả mọi người. Họ dần dần, bằng cách vật lộn với các câu hỏi siêu hình mỗi ngày, nhận ra rằng sự bắt đầu có lẽ ở chỗ học cách tha thứ cho người khác. Nhưng thường khi, mặc dù không phải bao giờ cũng vậy, người đàn ông thấy mình có lỗi hơn, vì vậy nếu câu hỏi đẩy đến tận cùng, anh nhận ra muốn tha lỗi cho người khác trước hết là phải biết tự tha lỗi cho mình.

Nhiều khi anh không làm được điều đó. Anh gõ cửa phòng mẹ.

Xương tàn một dúm chưa yên

Cố lay lắt sống để đền lỗi con

Khi chúng ta cần mẹ, biết tìm bà ở đâu: có khi là ở một

nơi không ai mong đợi. Tôi tìm ra nhà quàn dễ dàng hơn tôi tưởng

Nơi đó không lâu

Tôi đã tới thăm một người bạn bị cháy.

mười năm sau cái chết của Ngạc

lần thứ hai tôi tìm tới một nhà quàn

tôi tới lần này, không phải để nhìn xác con hay xác bạn

mà để tìm xác chết mẹ tôi.

Cái chết của mẹ là sự thật đau đớn không ai có thể chấp

nhận nó dễ dàng.

Ta hãy nghe một nhà thơ khác nói về cái chết.

When death comes

Like a hungry bear in autumn

Khi cái chết đến bất thần

Như con gấu đói đến gần mùa thu

Mùa thu rừng núi Canada đẹp, hùng vĩ. Thỉnh thoảng tôi cùng bạn bè đi cắm trại và hiking trong rừng sâu. Len lỏi giữa các chân núi, những cánh rừng đỏ như những đám cháy, rừng bách hương và rừng phong. Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Đi một mình, bất ngờ gặp một con gấu đơn độc, khi mùa hè phong phú thức ăn và mật ong đã qua, là nỗi ác mộng kinh hoàng của bất cứ người lữ hành nào. Mới thấy hết sức mạnh của câu thơ trên của Mary Oliver. Mới thấy hết tác động thoạt đầu của cái chết lên tâm hồn Du Tử Lê. Mặc dầu, cái chết vì tuổi già có thể đến thanh thản cho người lớn tuổi, bao giờ cũng là nỗi bất ngờ cho người thân. Nhưng con người có một bản năng sinh tồn khác, đó là các phản ứng tâm lý liên tiếp để cân bằng.

Thoạt đầu, anh ảo ảnh

Từ Nam ra Bắc

Từ Bắc vô Nam

Cảnh tượng nào

Cũng ấp đầy xác chết

Cho đến khi anh đứng lên được, bình tĩnh lại, chịu chấp nhận cái chết của người mẹ, chịu tiếp tử thần trong nhà mình như một người khách. Và anh bắt đầu nhớ đến mẹ anh từ tuổi ấu thơ

Trí nhớ tôi là ngôi nhà nằm ven sông Đáy

Ngôi nhà có rất nhiều cửa sổ

Có cánh cửa ngó xuống nỗi lầm than của mấy đời chạy

giặc

những ngôi mộ xới nhanh

dấu đi những xác người chết trẻ

xác chị, xác anh

Nho Quan, mồng ba Tết

Anh bắt đầu nhận ra sự hy sinh của bà chính là sứ mạng mà bà nhận lấy trên cõi trần gian như một sứ thần đến từ cõi khác.

Nhưng anh học được cách đi lại con đường bình thường, hành xử bình thường, tập thản nhiên như bất kỳ một người đàn ông nào khác.

Mẹ tôi nằm trong chiếc áo quan màu dưa úa

Các chị tôi nhắm mắt chọn cho dù giá tiền khá đắt.

Những ngọn nến được thắp trên hai bàn thờ

Tôi nghĩ rằng lúc đó hoặc là anh đã khóc hết nước mắt hoặc là chưa nhỏ một giọt nước mắt nào cho mẹ anh. Tôi nghĩ rằng mọi người đàn ông đều có thể như thế khi đứng trước sự mất mát lớn lao này.

Về mặt thi pháp, trường ca Mẹ về biển Đông có thể nói là đã góp phần tạo nên một bước ngoặt trong thơ Việt Nam. Ở đây Du Tử Lê đã chọn một mạch ngôn ngữ khác, xa rời cách viết tượng trưng và lãng mạn thường thấy trong những bài thơ đầu tiên của anh, và cũng vượt qua bút pháp biểu hiện. Ngôn ngữ của bài thơ là một thứ ngôn ngữ hiện thực: anh dùng những hình ảnh thường gặp hàng ngày, giản dị, tự nhiên gần với lời nói.

Vòi nước từ chiếc bồn trước cửa tòa nhà chính

Phun hoài như thế chẳng biết đã bao năm

Giọng điệu của nhà thơ vì vậy có vẻ thản nhiên, thậm chí lạnh lùng (distant ).

Mẹ tôi nằm trong chiếc quan tài màu dưa úa.

Các chị tôi nhắm mắt chọn cho dù giá tiền khá đắt

Những ngọn nến được thắp trên hai bàn thờ

(Vốn là hai chiếc bàn bỏ không)

Chính giọng điệu lãnh đạm này đã đưa Du Tử Lê ra khỏi

bút pháp hiện thực thông thường. Đây là cách trình bày thường thấy ở các nhà thơ haiku nổi tiếng của Nhật Bản. Bí quyết của haiku là tạo nên các hình ảnh chân thực của thế giới, như tự nó vốn như thế, không thêm bớt, không sửa đổi, không bộc lộ cái tôi của tác giả. Mặc dù trong trường ca Mẹ, Du Tử Lê dùng nhiều lần chữ “tôi”, đó là một cái tôi quan sát, không phải là một cái tôi tham gia vào các diễn tiến của câu chuyện, hoàn toàn khác với cái tôi lãng mạn, thường gặp như ở Thơ mới của Việt Nam.

Sự quan sát của anh trong bài thơ này thật tinh tế, có một chút tỉ mỉ rất cố tình. Anh từ tốn sắp xếp các sự vật theo một trật tự như tự nó vốn thế

Có người nhắc nhở tôi đi tìm ông giám đốc nhà quàn

Để khiêng xác mẹ tôi từ giường lăn, thả vào áo quan

Bằng hữu nêm cứng căn phòng

Tràn ngoài hành lang

Sự tương phản giữa một bên là sự xúc động nội tâm của

một người đàn ông mất mẹ, lệ chảy bên trong, và một bên là dòng chảy lạnh lùng của các sự kiện và các vật thể, vốn không biết tới xúc cảm, đã tạo ra hiệu ứng nghệ thuật .

Tuy nhiên Du Tử Lê viết không gò bó, không tự ép mình

trong một khuynh hướng nào: bút pháp của anh biến hóa tự nhiên. Anh sẵn sàng biểu hiện mình ra khi cần 

Có người từng đến thăm mẹ tôi cách đây hơn hai năm

Có người chưa hề biết mặt ngang mũi dọc của bà

Tôi nắm tay đôi người

Muốn quì, lạy họ

Giữa các đoạn thơ tự do không vần, mạch đi phóng túng, thỉnh thoảng anh chen vào những khổ thơ ngắn viết kiểu cổ điển theo bút pháp thông thường của anh

Một linh hồn gần thế kỉ long đong

Ngay lúc sống đã tựa như thiên cổ

Tôi ở cùng tháng một mưa giông

Bàn tay nhỏ chơ vơ khoắng khua thời bú sữa

Đây là những đoạn tâm tình, làm cho âm điệu toàn bài biến đổi, là những nốt lặng cần thiết trong âm nhạc, làm cho người đọc chùng lại, nghĩ ngợi, xa vắng.

Nhưng đôi khi những khổ thơ ngắn, có vần, lại có hiệu ứng làm tăng lên tốc độ của bài thơ, như dòng nước lúc chảy qua chỗ hẹp, dốc, như suối réo rắt.

Tháng năm buồn đi qua

Đôi vai nào chẳng mỏi

Trái tim nào không chật

Khi ắp đầy xác khô

Hết chồng rồi tới con

Hết con giờ tới cháu

Ngữ pháp của Du Tử Lê ở ngôi thứ nhất, thì hiện tại, để mô tả sự diễn tiến trong một ngày, một giờ, một đoạn đời. Để bao phủ được nhiều sự kiện, anh phải dùng đến kĩ thuật của phim ảnh, chụp từ nhiều góc độ khác nhau như người nghệ sĩ nhiếp ảnh lia ống kính. Một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài ba bao giờ cũng biết chờ đợi và chọn khoảnh khắc vàng để bấm máy: anh ta không tác động lên các sự kiện, nhưng là người hiểu hơn ai hết các sự kiện sắp xảy ra. Không định trước, chuyến bay muộn đem tôi trở lại San Jose

Ngày thứ mười một, sau cái chết của mẹ tôi

Giọt lệ bốc hơi; bay khỏi nắm đất

Chỗ tôi ngồi, vạt cỏ đã xanh non

Không ai hỏi:

-Dưới huyệt sâu, mẹ tôi nằm, có lạnh?

Như dương gian mưa, gió đã đi, về

Tôi có cảm giác là ranh giới giữa thực và ảo, giữa thơ tự do và thơ có vần, đã bị Du Tử Lê vượt qua trong đoạn thơ này.

Sự nhào nặn giữa hiện tại và quá khứ làm cho bản trường

ca ngoài tính hiện thực còn mang tính hoài niệm, nhưng là một hoài niệm đầy suy nghĩ.

Trí nhớ tôi là ngôi nhà mặt tiền con đường Phan Bội Châu, Hội An

Bước dừng chân di cư thứ nhất

Lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng là lịch sử của những di dân ngay trong lòng đất nước mình. Nhưng đó là một lịch sử đầy những mất mát không biết rõ ngọn nguồn.

Mẹ tôi ngồi ca cẩm về người anh thứ hai của tôi

Đột nhiên mất tích

Trường ca Mẹ là lời tự tình của một người đàn ông xa xứ, là bản tiểu sử tâm hồn, là lịch sử một quốc gia được kí gửi lên bia mộ của một người đàn bà. Đó là một người phụ nữ lúc nào cũng nghĩ đến những người đã mất, và cái chết đối với bà không phải là sự đau đớn, mà như là nơi lưu giữ những giá trị tinh thần của nòi giống tổ tiên, kế tiếp nhau truyền đi mãi.

Riêng mẹ tôi

Tính đến ngày chết

Thì sự giàu có của bà

Chỉ là những ngôi mộ

Người đọc tinh ý sẽ nhận ra trong cái phong cách irony của mình, Du Tử Lê đã dồn vào đó biết bao suy nghiệm về dân tộc. Trường ca “Trường khúc Mẹ về Biển Đông” dài khoảng trên dưới một ngàn câu thơ, hầu hết viết ở thể tự do, gồm bốn

phần:

a. Khúc thứ nhất: Ngôi nhà trắng, chiếc quan tài và những

cây phong ở đường Beach. b. Khúc thứ hai: Những cánh cửa sổ, hồi chuông và, buổi sáng.

c. Khúc thứ ba: Những bông bird-flower, nắm đất và, sự

trở lại. d. Khúc thứ tư: Chuyến bay muộn, ký ức và mẹ ở xa. Khúc thứ nhất nói về lần đầu đến viếng mẹ anh ở nhà quàn.

Khúc thứ hai là những hoài niệm về tuổi thơ và mẹ.

Khúc thứ ba viết về ngày hạ huyệt.

Khúc thứ tư: chuyến bay trở lại thăm mẹ anh mười một ngày sau cái chết của bà. Các lần trở lại này, trong đời thật, cũng là những lần trở lại về mặt nội tâm. Mỗi lần như thế anh lại có cái nhìn khác hơn, mới hơn, sâu hơn. Và đối với hiện thực.

Lần đầu anh tới:

Tôi thèm ly cà phê, lời chào hỏi

Khu nhà trắng đẫm sương

Đưa anh trở lại:

Ngôi nhà có rất nhiều cửa sổ

Có chiếc ngó xuống tám mươi năm làm người u ám

Đến lúc anh trở lại lần nữa:

Ai đó dúi vào tay tôi một cành huệ trắng

Người con gái nói: vứt xuống

Và trở lại lần nữa, như anh thăm viếng chính tâm hồn

mình:

Chỗ tôi ngồi cỏ mọc đã xanh um

Trong MVBĐ, Du Tử Lê dùng một cấu trúc mở, đôi khi với các tình tiết đan chéo. Tuy vậy nhìn chung, trừ khúc thứ hai, các phần khác diễn tiến theo chiều dọc thời gian, từ trước ra sau, hoặc từ cận cảnh đến lùi lại.

Các chủ đề cũng được lồng vào nhau:

- Tình mẹ con

- Mẹ như một nhân vật nữ

- Cái chết

- Tuổi thơ

- Đất nước và chiến tranh

- Đời sống hiện tại của tác giả

- Gia đình, bạn bè, tình yêu, quan hệ xã hội

- Thân phận

Tác giả gần như hoàn toàn kiểm soát được giọng của mình: anh ít khi để cho nước mắt lăn đi trên gò má. Đó là một giọng kỳ lạ: vừa nghẹn ngào vừa tỉnh táo, vừa xúc động vừa lãnh đạm. Được như thế là nhờ tác giả biết chọn góc nhìn (point of view), có khi từ bên trong nội tâm, có khi từ bên ngoài. Các hình ảnh tập trung, dồn hết về một phía, không hay xen lẫn các phase thời gian. Đây rõ ràng là một bút pháp mô tả ( narrative). Nhiều nhà thơ Việt Nam khi viết có trường hợp nhầm lẫn ở điểm này: họ không chọn trước bút pháp, và thường để cho bút pháp trữ tình vượt lên, mặc dù đó không phải là dự định ban đầu của họ. Nhưng sự mô tả của Du tử Lê không phải là sự mô tả thuần túy thế giới bên ngoài: cái anh nhắm tới là một thế giới bên trong. Nói cho cùng bản lĩnh của anh vẫn là của một nhà thơ trữ tình. Có lẽ nhờ thế, trường ca MVBĐ phảng phất khuynh hướng của chủ nghĩa hình tượng (imagism ). Cho đến nay, ở hải ngoại, trừ một hai ngoại lệ, như của Cao Đông Khánh, Thường Quán, Trần Nghi Hoàng, Đỗ Quyên, Mẹ về biển Đông là một trường ca hiếm hoi. Không

những thế, đó là một thành công về nghệ thuật. Thành công này bắt nguồn từ nỗi rung cảm sâu xa, dễ được chia sẻ bởi người đọc, nhởng quan trọng nhất là những rung động và suy tưởng được nói lên một cách giản dị, tự nhiên, bằng một giọng nói đầy rẫy nội lực. Cái chết của mẹ anh thật ra là giọt nước làm đầy ly, một cái ly đựng đầy những cảm hứng nghệ thuật mà Du Tử Lê tích lũy từ năm này qua năm khác, dồn nén lại, hay như anh nói:

Như nhà buôn tích lũy hàng hóa

Tôi tích lũy vết thương

Tích lũy thời gian

Tích lũy những chặng đường

Cho đến khi những tích lũy này nở rộ thành:

Khi tôi tới những bông birdflower nở ối

Lãm bảo

Hãy cám ơn sự chết.

Thì anh đã nói xong lời cám ơn sự chết. Lời cám ơn mẹ.

Tất cả chúng ta đều muốn được nói như anh, đối với mẹ của

mình.

NĐT.

Trích đoạn ( trường khúc MVBĐ, Du Tử Lê ):

+Khi tôi tới, những bông bird-flower ngửa mặt nở ối cỏ trông xa như mấy vụng nước biển hình vuông và méo những thân cây có lá to, tựa lá bồ đề không lớn

xòe theo chiều rộng

đoàn xe ngừng lại

tôi cầm chiếc gậy gỗ bước xuống

bầu trời thấp nhưng trong vắt

nghĩa địa dành cho người Việt Nam được quây lại

bằng một lớp tường vôi trắng, có dậm song sắt

tôi thấy hàng chữ “nghĩa trang Việt Nam”

+Khi tôi đến

những chiếc máy hút dầu vẫn gật gù

kiên nhẫn chào tôi buổi sang

buổi sáng muôn năm

buổi sang chúng tôi tiễn mẹ đi

tiễn mẹ đi để không bao giờ trở lại

không trở lại để thấy những chiếc máy hút dầu chào

hoài. Chào hoài. Buổi sáng

ooo

Khi tôi ỹeán, những bông bird flower ngửa mặt nở ối

khu nghĩa trang kẹp giữa hai con lạch

anh tôi nói con lạch có nước quanh năm

nhờ thế, đất sẽ nhuần nhị

riêng xác mẹ tôi thì không ai nói được nhuần nhị?

chỉ biết mẹ tôi nằm rất sâu

rất sâu trong lòng đất

buổi chiều ngồi nhìn trời đất

đất thật gần

nhưng trời lại rất xa

trời hay đất thì cũng bất thân như nhau

tôi muốn chửi thề trời đất

chửi thề ngọn cỏ

chửi thề buổi chiều

oo0oo

+Mẹ tôi cố tình làm cho mình tiều tụy hơn

Quanh năm bà chỉ mặc áo dài đen

vấn tóc, chụp thêm chiếc khăn nâu

chít mỏ quạ

lúc nào cũng xụp xụp như đôi mắt húp

đêm đêm mẹ tôi thường khấn vái xì xụp

trước bàn thờ chồng con

làm như thể bà thấy mình có lỗi

không chỉ với chúng tôi

mà với cả những người vắng mặt

những đêm đông ở Hà Nội

mẹ tôi đốt lò than

bà gấp đôi tấm chăn bông

đắp hết cho tôi

bà ru tôi ngủ bằng giọng kể thì thầm

tiếng ru buồn của một người đàn bà Việt Nam góa buạ

nhiều khi

nửa đêm tỉnh dậy

tôi còn nghe bà ru

như ru chính nỗi lầm than của đời bà ghẻ lạnh

oo0oo

Trí nhớ tôi là căn nhà ở đường Triệu Việt Vương

+Trí nhớ tôi là ngôi nhà trông ra bến Bạch Đằng

Đà Nẵng

Ngôi nhà có rất nhiều cửa sổ

Có cánh cửa ngó xuống nỗi buồn hiu của mẹ tôi

Bó gối nhìn bày con lớn lên

giữa lúc sự phân chia đất nước biến bà thành kẻ vô

dụng

những biến chuyển bên ngoài dự tính của người

bà là người không thể nào ngồi yên một chỗ

vậy mà lần lữa thành hơn hai mươi năm

hơn hai mươi năm

bà chỉ còn những chỗ ngồi để&nhắc mãi chồng con

hơn hai mươi năm, mẹ tôi chỉ sống bằng nỗi nhớ mồ

mả không người hương khói

bà chờ những người hương khói

bà chờ những bữa cơm

ly rượu thuốc

những đứa cháu thêm

những đứa con vắng mặt

hơn hai mươi năm ngựa thồ thôi bương bả

hơn hai mươi năm sống lẫn lộn giữa bóng ma, thịt

xương và khuất vắng

+Tôi và bóng tôi

rất đáng buồn

vì đã không có điều gì để nói

oo0oo

mẹ tôi nằm như thế

bây giờ là thứ bảy

mười một ngày đi qua

trên thân xác già nua

tám mươi lăm năm tần tảo

tám mươi lăm năm không mót nổi một giờ vui

tám mươi lăm năm chưa bao giờ mẹ tôi tự hỏi

cớ sao phải làm người

cớ sao đời sống bà lại vô cùng vất vả

tháng năm buồn đi qua

đôi vai nào chẳng mỏi

trái tim nào không khô

khi ắp đầy xác chết

hết chồng rồi tới con

hết con lại tới cháu

(Trích chương 7, tác phẩm “Với Du Tử Lê, đời sống trở nên thơ mộng hơn,” của Nguyễn Đức Tùng, Tự Lực xuất bản và phát hành, California, Feb. 07.)



NGUYÊN SA,

TỪ CHIỀU DỌC THI CA VIỆT NAM

TỚI THƠ DU TỬ LÊ.

(Bài nói chuyện nhân buổi giới thiệu thi phẩm “Đi với về, cũng một nghĩa như nhau,” tại miền nam California, ngày 5 tháng 10 – 1991.)

L úc gần đây, chúng tôi thường gặp bạn bè, hỏi thăm nhau. Hỏi chuyện xa chuyện gần. Có một số bạn bè khi gặp tôi hay hỏi: “Ông có mạnh khỏe không? Ăn có ngon không? Ngủ có được không?” Và tôi trả lời: “Ăn ngon.” Bạn tôi nói: “Ăn ngon là gút rồi. Thế là tốt rồi!” Một số bạn khác cho tôi một số tiêu chuẩn để đánh giá sức khỏe.

Bạn tôi hỏi:

- Cậu có nhậu không?

Tôi trả lời:

- Xưa nay không nhậu mấy khi. Thỉnh thoảng có uống một chút bia. Bạn tôi mừng rỡ nói:

- Thế thì được. Không sao. Chưa sao.

Một ông bạn trẻ của tôi là ông Lê Ngọc Ngoạn, người in thơ Du Tử Lê, sáng nào cũng điện thoại cho tôi. Ông hỏi: 

- Bố đấy à?

- Ờ. Tao đây.

- Bố chưa đi à?

- Ờ. Chưa đi.

- Còn “súng đạn” bố thế nào? Ra sao?

- Ờ, thì cũng còn.

Ông muốn đi sâu vào chi tiết về những khả năng “quân cụ” đó. Tôi tưởng có mấy tiêu chuẩn định giá tức là: Khả năng ăn. Khả năng uống. Và khả năng “tác xạ.” Nhưng cách đây gần bốn năm, tôi tìm thấy một tiêu chuẩn định giá sức khỏe hay hơn ba phương pháp vừa nói. Khi đó, tôi bị giải phẫu. Cuộc giải phẫu được thúc đẩy mạnh mẽ nhờ hai bác sĩ: Nguyễn Mạnh (có mặt ở đây,) và Trần Anh Dũng (không có mặt.) Giải phẫu xong, tôi sống trong ba tuần lễ không ăn uống, vì bị đánh giá căn bệnh ung thư cổ. Bác sĩ bắt tôi ký giấy: Câm không kiện. Liệt không kiện. Và, chết không kiện. Tôi ký ngay. Khi trở về nhà, phải đeo một uống cao su ở mũi để thức ăn chảy xuống...Thì làm sao ngon được! Bằng mũi thì không uống rượu được. Lại vấn đề “tác xạ” không đặt ra nữa. May qua, lúc đó tôi đọc một bài thơ tôi thích. Và tôi tiếp tục đọc nhiều bài thơ khác.

Suốt thời gian dưỡng bệnh, tôi khám phá ra rằng: Đọc thơ còn thấy hay là còn khỏe. Ngày xưa tôi có gặp bậc lão thành, nhà văn Phan Trần Chúc, cụ nói rằng “Hễ mà đọc thơ hay của bất cứ ai mà không thấy hay, kẻ không may mắn không phải là nhà thơ, tức là mình mà thôi.”

Ông nhấn mạnh, đọc thơ còn hay là còn may mắn. Bây giờ tôi còn thấy thêm: Đọc thơ thấy hay là còn khỏe.” Bài tôi đọc đầu tiên trong thời gian đó là một bài thơ của Du Tử Lê. Sau khi đọc xong bài thơ đó độ năm tuần sau, tôi đến thăm anh Du Tử Lê ở nhà in Number One Printing. Không gặp. Anh thường xuyên không có mặt tại tòa soạn. Sau đó, tôi ra xe hơi. Bị bất tỉnh. May quá, chỉ vài giây thôi, tôi tỉnh lại. Tôi tới thăm Du Tử Lê, định để nói, tôi đọc bài thơ của anh. Tôi rất bằng lòng. Và tôi tiếp tục đọc thơ của các bạn khác, trong đó, có thơ Du Tử Lê. Bài thơ của Du Tử Lê tôi đọc, còn nhớ như sau:

“Tôi trở lại đáy khuya ngồi với bóng.

“Những chiếc bàn trật khấc nỗi cô đơn.

“Em nên biết cuộc đời tôi đã hết.

“Có thương nhau lo hộ nhúm xương tàn.”

Bài thơ tám chữ. Du Tử Lê vẫn có lối làm thơ tám chữ, thỉnh thoảnh bớt một chữ trong câu bốn, để 32 chữ còn 31 chữ. Lối thơ bốn câu này, tôi rất thích. Ngày xưa bậc đàn anh Vũ Hoàng Chương đã cho chúng ta tác phẩm quý giá “Nhị thập bát tú,” đoạn 4 câu, 7 chữ. Bạn Lê mang lại một loạt những bài thơ 8 chữ, 4 câu, bớt đi 1 chữ thì được 31 chữ. “Tam thập nhất tú.” Bài thơ tôi vừa đọc hầu quý vị, trích trong cuốn “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu.” Cuốn thơ có hai phần. Phần thứ nhất là Những Bài Nhân Gian tuyệt tác. Phần thứ hai hay cũng không kém. Tôi có phần thích hơn là những bài 4 câu trong dòng thơ “Nhị thập bát tú” của anh Vũ Hoàng Chương.

Tôi trở lại đáy khuya ngồi với bóng... rất quen thuộc của chúng ta. Một mình với bóng thì chỉ có một mình thôi. Không thể có hai người.

Những chiếc bàn trật khấc... Bàn, hai cái mộng phải đóng vào nhau. Bàn nó trật khấc! Anh muốn nói chuyện thơ; em lại hỏi anh paycheck về chưa? Trật khấc. Anh muốn ngồi thiền thì em lại đòi đi ăn phở: Trật khấc. Anh chỉ muốn làm việc xã hội vừa phải, dành thì giờ cho thi ca nhiều hơn; thì em lại muốn anh bấm thẻ triền miên: Trật khấc.

Trật khấc thì phải cô đơn. Cái bàn trật khấc nó không cô

đơn. Nhưng nó so le. Không dính vào nhau nữa. Hai người trật khấc nhau, ít ra nhà thơ phải cô đơn. Ý nghĩa của câu thơ đơn giản, nhưng mà với tư cách một người quen thuộc ít nhiều với kỹ thuật thi ca, tôi nhìn thấy trong đó có nương náu cả một lịch sử thi ca. Cả một bất biến dài được cô đọng lại.

Thi ca của chúng ta có hai phần: Có một phần ảnh. Có một phần vật. Có cái ảnh nổi. Và có khi vật chìm luôn. Giữa vật và ảnh có một chữ nối liền, người ta gọi là “liên tự.” Có khi liên tự không có.

Thơ Du Tử Lê có sự kết tinh chữ nghĩa dài lâu đó. Chắc hẳn quý vị quan tâm đến thi ca, không ai không biết hai câu thơ lục bát của Huy Cận mô tả:

“Lòng anh mở với quạt này

“Trăm con chim mộng về bay đầu giường.”

Lòng anh mở ra, giống như cái quạt mở rộng. Nhà thơ đã cất bỏ liên tự. Giống như ông không dùng là “lớn hơn,” “nhỏ hơn.” Cụ Nguyễn Du có dùng:

“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

“Thua” là liên tự. “Nhường” là liên tự.

Nhưng mà Huy Cận muốn đổi thay lục bát: Lòng anh mở ra cũng giống như chiếc quạt mở rộng, thì ông đã đổi lại: Lòng anh mở với quạt này. Một kỹ thuật bắt nguồn từ Nguyễn Du.

Cái quạt được mở ra phe phẩy. Mỗi nan quạt giống như một con chim bay ở trên đầu giường. Cho đến khi sinh ra một trăm con chim bay đầu giường. Hai câu thơ làm tôi suy nghĩ khi còn trẻ. Tôi nghĩ mãi:

“Quái! Ông này không biết lấy đâu chim ra nhiều thế?

Bay lung tung...”

Về sau tôi mới tìm ra cái vật mà ông mô tả là cái quạt. Vì cái quạt nó quạt giống như con chim bay. Cái vật của ông chìm. Cái vật của ông là cái quạt nó chìm. Cái quạt nó phe phẩy giống như một trăm con chim mộng về bay đầu giường. Kỹ thuật làm chìm mất đi một vế. Chìm mất đi liên tự. Làm chìm vật mô tả Du Tử Lê dùng rất tinh tế. Không để lại dấu vết. Người không để ý không thể biết. Chỉ thấy hay. Không biết tại sao hay? Đó là “những chiếc bàn trật khấc nỗi cô đơn.” Anh và em không hiểu nhau, một người một xó. Chúng ta cô đơn giống như chiếc bàn kia. Không có mộng gắn vào nhau. Nỗi trật khắc cô đơn. Từ kỹ thuật dùng ảnh bắt nguồn từ Nguyễn Du, xuyên qua Huy Cận, tới đó, Du Tử Lê từ cõi mộng trở về thực tại với ngôn ngữ trực tiếp, nói lên đau đớn không thể chịu đựng được. Ngôn ngữ đó là: “Em nên biết cuộc đời anh đã hết / Có thương nhau lo hộ nhúm xương tàn” (Thơ Du Tử Lê, trong “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu.”)

Hôm nay, được tiếp nối trong cuốn sách mới có tựa đề “Đi với về, cũng một nghĩa như nhau,” tôi tin tưởng, tôi hy vọng cuốn sách đó cũng sẽ làm quý vị thỏa mãn. Riêng phần tôi, tôi sẽ mang cuốn sách đó làm hành trang trong hành trang không phải để đi ra hoang đảo, mà trở về quê hương trong thời gian ngắn, khi hoàn cảnh cho phép. Tôi nghĩ là một thời gian không lâu.

Quê hương chúng ta giống như những nước bị cai trị bởi chế độ độc tài khác, đã được giải thoát. Chúng ta sẽ được giải thoát. Chúng ta được giải thoát chậm hơn là bởi vì chúng ta bị phạt. Những nước nào trước kia đánh nhau nhiều và lâu với nước Mỹ, bây giờ được tự do chậm hơn. Đó là ba nước Bắc Hàn, Trung Hoa và Việt Nam. Nhưng mà sự tự do chậm đó sẽ tới. Bị phạt một hai năm chứ không bị phạt lâu đâu.

Khi đó, tôi sẽ trở về với quê hương. Các bạn bè của chúng ta ở quê hương sẽ hỏi tôi. Tôi có chuẩn bị câu trả lời. Các bạn tôi sẽ hỏi:

-Hồi đó sao ông đi mau quá vậy? Sao ông không gọi chúng

tôi?

Tôi sẽ nói:

- Tôi xin lỗi.

Bạn bè sẽ hỏi tôi:

- Ông ở hải ngoại ông lo làm ăn quá, ông chẳng nghĩ gì đến anh em!

Tôi sẽ nói:

- Tôi nhận lỗi.

Bạn bè tôi sẽ hỏi:

- Nhưng còn thi ca ở hải ngoại? Ông làm được trò trống gì

không? Văn hóa Việt Nam ở hải ngoại thì sao? Tôi sẽ vui vẻ trả lời:

- Tôi hãnh diện. Tôi có những tác giả. Có những anh em. Có những tác phẩm giá trị. Trong hành trang mang về, tôi sẽ tặng bạn tôi: “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu,” cùng “Đi với về, cũng một nghĩa như nhau”.

NGUYÊN SA,

(Nguồn: Tuần báo Tay Phải, số đề ngày 10 tháng 10- 1991)



REV. THẠCH SƠN - NGUYỄN HUY TƯỞNG

THƠ DU TỬ LÊ VÀ TÔN GIÁO

(Bài nói chuyện về thơ Du Tử Lê tại KC Club, Garland, Texas, Nov., 22-1997)

Nhà thơ là kỹ sư tâm hồn. Trong cõi nhân sinh, Nhà thơ thường là những kẻ mộng du, nhưng đồng thời cũng là nhà thần bí theo đúng nghĩa của từ này. Vì hơn ai hết, Nhà thơ vượt ra khỏi thế giới tầm thường của chúng ta, để đi vào một thế giới trong đó mộng và thực đồng hóa với nhau, và cõi nhân sinh cũng như cõi ta bà hình như là một. Trong rừng thợ thơ hiện nay, Du Tử Lê là cây cổ thụ, nhưng ông không phải là thợ thơ, mà là kỹ sư ngôn ngữ, có chỗ đứng cao. Ông thực sự đã đem lòng mình ra phơi bày cho thiên hạ trong những cảm hứng, và dòng thơ chỉ có những thi sĩ mới viết lên được.

Những dòng thơ chỉ là thơ khi nói lên, và thúc nhắc người đọc đi vào thế giới tâm hồn của thi nhân. Cả người đọc lẫn thi nhân cùng chung một tần số của thông cảm, mộng mơ và hiểu nhau trong sứ điệp tình yêu.

Người đọc thơ cũng như người thưởng ngoạn thường có

cái nhìn khác nhau. Đối với một người tôn giáo, cái nhìn đó cũng méo mó nghề nghiệp, và thường chỉ để ý những gì liên quan đến mình và niềm vui của mình. Ngôn ngữ của Du Tử Lê về tôn giáo, nói riêng về Đạo Chúa rất chuẩn. Nếu người ta không biết ông không phải là người tin Chúa, sẽ cho ông là người đạo dòng. Những ngôn ngữ về tôn giáo ông dùng là những câu kinh chỉ có người có đạo dòng mới hiểu được ý nghĩa của chúng, và hiểu tận tình.

Có thể ông có quen một người có tôn giáo tin vào Chúa;

và người đó phải là bạn thân của anh, đến nỗi những từ về tôn giáo hình như đã đến với ông tự nhiên như hơi thở. Chúng ta có nhiều Nhà thơ Thiên Chúa Giáo. Nhưng Du Tử Lê đã dùng những từ tôn giáo bình dân nhất, nhưng cũng nên thơ nhất, vì nó mang theo những ý nghĩa tự nhiên và bình dân.

Thí dụ trong bài thơ dưới đây, ông viết:

tôi tầm gửi trên nỗi sầu nhân thế

trái cây nào em hái được không vui?

giây tội lỗi quấn quanh cành địa ngục

thăm thẳm em: đầy nỗi niềm tôi.

(Trích tập Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, trang 17)

Đây là ý niệm tôn giáo về trái cấm Evà đã ăn trong vườn địa đàng, và đã làm cho cả nhân loại đau khổ. Nhưng người yêu của Du Tử Lê đã không dám hái trái cấm của tội lỗi. Bởi vì nàng là Thánh Nữ của đời ông. Chính vì nàng muốn được phục sinh như Nhà thơ đã viết:

ở chỗ nhân gian không thể hiểu

tôi xin người sớm phục sinh tôi.

(Sđd., trang 16.)

Quan niệm phục sinh là quan niệm hoàn toàn Kitô giáo. Theo đó, con người ta sẽ sống lại sau cơn chết thế gian này và khi Chúa trở lại trong ngày thế mạt. Nhà thơ không ngần ngại xin được sớm phục sinh để cùng người yêu dấu chung hưởng hạnh phúc. Trong bài Thơ ở tro than, Nhà thơ viết:

đời muôn cửa tôi chọn về địa ngục

thiên đàng em bỏ lại đã hoang tàn

ai nắng gió trên cảnh đời kẻ đó?

mà tôi ngồi điếng lặng giữa tro than.

(Sđd., trang 26)

Khái niệm thiên đàng và địa ngục có từ Kinh Thánh Kitô

giáo. Thiên đàng chính là nơi có tình yêu thương; trong khi địa ngục chính là nơi dành cho những người không yêu thương, hay không được yêu thương. Họ đã từ chối thiên đàng khi không chấp nhận yêu thương trong cuộc đời mình. Trong cõi nhân gian không thể hiểu, nhiều lần Nhà thơ hỏi Chúa; hỏi trăng sao về ý nghĩa cuộc đời, và trong nỗi thất vọng có thể vì tình yêu đi xa, nên ông đã không ngại ngùng viết:

hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay

tôi buồn như phố cũ như tay

bàn chân từng ngón ngưng không thở

lạc mất đường đi tạnh dấu bày

hỏi Chúa đi, Ngài sẽ trả lời

trong tay Thánh Nữ có đời tôi.

(Sđd., trang 71)

Thánh Nữ đó đã trở thành từ mẫu như người mẹ hiền mang sữa ngọc nuôi con, sữa của tình yêu và cay đắng. Nhưng là sữa để nuôi sống cuộc đời.

ôi Thánh Nữ đi bên lề nắng gió

đã chẳng cùng, thôi! hỏi tới nhau chi

ta đọa lạc ngay phút vừa mở mắt

em có là từ mẫu của riêng ta?

Trong một phút giây nào đó, Nhà thơ đã quay về với tôn giáo như là một nơi giải thoát. Tuy nhiên, sự giải thoát đến từ một người chịu đóng đinh trên thập tự, và ông khẩn khoản:

trên tay Chúa dấu đinh người bị đóng

cuối đời tôi than củi đã thành tro

em chẻ nhỏ khối tình tôi lỡ gửi

nhóm nổi không (?) một ngọn lửa oan cừu.

Người em của Thi sĩ là người em trinh khiết trong mối tình trong sáng như pha lê. Một mối tình không hề mong đáp trả: đừng nhìn tôi nữa em vô nhiễm

ruộng máu tôi còn nguyên. Luống tươi

có đâu cứu chộc mà em đợi

đi hết đời dư vẫn ngậm ngùi

(Sđd., trang 109)

Ruộng máu là Haceldamam. Trong Kinh Thánh thửa ruộng do món tiền bán Chúa của Giuda mua lại của người thợ gốm. Nhưng ruộng máu trong thơ Du Tử Lê chính là cuộc đời ông nhiều thống khổ, mà cái da diết lớn lao là mối tình của em vô nhiễm. Cũng trong bài đó, bàng bạc những từ ngữ tôn giáo:

đừng nhìn tôi nữa em vô nhiễm

lồng lộng chân trời một vết son

với tôi đã đủ, sau hồng thủy

nguồn cội tôi tìm trong tóc em

(Sđd., trang 109)

Sau cơn hồng thủy chỉ còn gia đình Noe sống sót, trong đó có chúng ta. Sau cơn hồng thủy nhân loại đã có một liên hệ hòa bình với thượng đế. Liên hệ cho phép họ nhìn cầu vồng của hy vọng một thế giới thực sự vô nhiễm, không tội lỗi của hận thù khi con người là sói dữ của con người. Chỗ khác ông viết:

đừng nhìn tôi nữa em vô nhiễm

bánh thánh là em. Tôi đã ăn

đêm đêm ngồi nhớ đôi vai thẹn

rung dộng vì tôi? Hay trối trăn?

(Sđd., trang 110)

Bài thơ Hồn ẩn mật đã gửi người trước đó có rất nhiều từ ngữ tôn giáo:

em vô nhiễm. Ngón chân ngoài Cựu Ước

trong lòng tôi chiều dạt Phúc Âm buồn

nhân danh em: xin những cặp tình nhân

trên mặt đất sẽ không còn ly biệt.

em vô nhiễm. Tóc bay đầy Tân Ước

tôi xin người cho những kẻ xa nhau

có lại thương yêu - hồn mới, nhiệm mầu

như em đã dìu tôi vào bí tích

em vô nhiễm. Môi trần gian thảm kịch

tôi hôm nay trở lại kẻ tân tòng

mộng như gương. Lòng như giấy trắng, trong

xin vẽ xuống giấc mơ nào đẹp nhất

em vô nhiễm. Bị đinh đời đóng suốt

bởi chọn tôi, một kẻ giống Giuđa

tôi bán mình, nhưng không bán thiên thu

hồn ẩn mật đã gửi người trước đó

em vô nhiễm. Biển. Đêm. Trăng tiểu thuyết

mắt thi ca son trẻ. Tim Mỵ Nương

tôi quỳ đây. Trân trọng. Rất Thánh Đường

xin chịu lễ trước người như bánh thánh.

(Sđd., trang 114)

Trong bài thơ vừa qua, chúng ta đọc được nhiều từ ngữ tôn giáo như: cựu ước, tân ước, phúc âm, bí tích, tân tòng, Giuđa, chịu lễ, và bánh thánh.

Những từ ngữ này rất nên thơ và tự nhiên trong dòng thơ của Thi sĩ làm cho chúng ta nhớ lại một Nhà thơ Thiên Chúa Giáo là Hàn Mặc Tử. Thi sĩ là người gần với huyền nhiệm, và họ đã có những ngôn ngữ mà trong cõi nhân gian không thể hiểu. Nhưng vì họ đã lên cao, nên họ đã cùng hướng về một chân lý, trong đó, mọi người đều thấy rằng:

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu / tôi với người chung một trái tim. Nhân sinh quan của Du Tử Lê chính là tình yêu:

cho tôi hát cùng em bài hát cũ

bài ngợi ca Thiên Chúa ở trên trời

để tôi về cầu nguyện với Ngôi Hai

cho ta sống một ngày như mấy kiếp

cho tôi viết cùng em trang sách ước

bằng một tên (chung gọi cả hai người)

em cấm phòng để cứu rỗi cho tôi

và hành khổ cho đời sau ý nghĩa

(Trích trong tập Đi với về, cũng một nghĩa như nhau,

trang 22)

Thi sĩ thường có trực giác bén nhậy, cho ông thấy căn bản

của cuộc đời chính là tình yêu. Vì tình yêu người ta có thể hy sinh tất cả. Hy sinh luôn cả tình yêu:

Thư vạn dặm mà hương lừng giấy mới

em vì tôi từ chối chọn thiên đàng

em vì tôi thập tự giá xin mang

đi suốt kiếp với Tin Mừng sáng dội

(Sđd., trang 27)

Trong cõi nhân sinh của Du Tử Lê tình yêu là nữ hoàng, là thánh nữ, là bảo ngọc, trân châu, và chỉ con người thi sĩ mới dám sống và chết cho tình yêu ấy. Đọc thơ ông người ta có cảm tưởng ông ca tụng tình yêu, vì có thể trong cuộc đời, ông thành công trong phương diện tình yêu. Tuy nhiên đây là thứ tình yêu của thi sĩ: tình yêu tuyệt đối, luôn đẹp; và thơ tình yêu không cần ngôn ngữ để diễn tả; cũng không cần những dòng thơ để nói lên, vì trong con người thi sĩ đã có tình yêu xác thịt; có những rung động, chất ngất rất người, mang nhiều đặc tính của thần bí và

huyền nhiệm.

Trong thơ của Du Tử Lê khi nói về tôn giáo, ông cũng nói tới tình yêu theo ý nghĩa tôn giáo. Thứ tình yêu mà tiếng xarx của Thánh Kinh muốn diễn tả. Thứ tình yêu cụ thể rất người, mà thiên chúa tình yêu muốn tỏ cho con người, đã không ngần ngại mang lấy một thân xác để thánh hóa và cho nó một vẻ đẹp tuyệt đối. Ngôn ngữ thơ của Du Tử Lê không phạm thánh, cũng không xúc phạm đến các đấng tối cao trong các tôn giáo, điều này cho thấy tâm hồn Thi sĩ là tâm hồn Việt Nam đích thực trong tinh thần bao dung, và chấp nhận tất cả của người Việt Nam luôn hiếu khách, hòa bình với mọi dân tộc và ý thức hệ. Theo Trần Bát Nhã: “...Những bài thơ mượn cửa ngõ thần linh để tỏ tình cho ta thấy tôn giáo đối với ông như một cái cớ, một chiếc cầu liền nhịp để ông và những “Thánh Nữ,” những “Bồ Tát,” hiểu theo một nghĩa nào đó, trở thành một thứ đạo yêu, vượt trên những tầm thường nhân gian, với nhiều điều rất lạ, nhưng chưa hề phạm thánh.” 

bằng tin kính của tông đồ thứ nhất

 tôi xấp mình đón đợi bước em qua 

đêm thồ ngựa tìm đường lên Núi Sọ

gặp hồn mình treo cổ giữa truông ma

bằng tin kính của tông đồ khổ lụy

nhận tôi đi, em ạ, chớ quay đầu

(Phúc âm ngoại giáo)

cây Thánh giá có một đầu rất nhẹ

Chúa không kêu ai vác hộ bao giờ

em quay mặt khước tình tên ngoại giáo

đâu biết rằng Chúa khổ biết bao nhiêu

(Thập tự nàng)

Cũng theo Trần Bát Nhã: “Du Tử Lê đã mang nghệ thuật vào tôn giáo, thoát khỏi lối suy nghĩ thông thường, thói quen sợ sệt, ám ảnh phạm tội, lòng tôn kính thiêng liêng xa vời, nếp tư duy cũ kỹ, giáo điều gia truyền...” Trong thơ ông, tôn giáo thật đáng yêu. Và khi người ta yêu nhau thì đó cũng là một thứ tôn giáo. Tôn giáo của con người. Tôn giáo rất người, và rất trang trọng như Chúa ở cùng người. “Chúa thật gần gũi, bình thường, nhưng cũng thật đáng tin cẩn, hãy tin ở Chúa, hãy hỏi Chúa khi không còn biết tin ai:

Hỏi Chúa đi, rồi em sẽ hay

Hỏi Chúa đi, Chúa sẽ trả lời

...............................................

“Du Tử Lê nghĩ về Chúa một cách chân thành không mặc cảm.” Có người đã nhân danh tôn giáo mà lên án con người. Tôn giáo đích thực không phải thế. Tôn giáo đích thực làm con người gần nhau, và nếu có thứ tôn giáo nào làm người ta xa nhau là do con người tôn giáo chứ không do tôn giáo. Cũng trong ý nghĩ đó mà thi sĩ viết:

em quay mặt khước tình tên ngoại giáo

đâu biết rằng Chúa khổ biết bao nhiêu.

Để kết luận tôi xin mượn lời Linh Mục Nam Hải: “Mai mốt khi chết đi, nếu tôi được lên thiên đàng mà Du Tử Lê đọa địa ngục, thì tôi sẽ năn nỉ Thượng đế xin cho Du Tử Lê được lên thiên đàng cùng với tôi. Lý do tôi sẽ nêu ra để trình Thượng đế là, nơi trần thế, Du Tử Lê là người làm thơ rất hay. Đầy một người như Du Tử Lê xuống địa ngục thì quá mức tội nghiệp cho Thi sĩ.” Nhưng tôi vững tin rằng các thi sĩ phần lớn lên thiên đàng; vì chỉ có Thi sĩ mới thấy, mới trực giác, mới cảm và rung động với cõi vô cùng của thần bí và linh thiêng.

Garland, tháng 11-1997

Kỷ niệm 27 năm chịu thánh chức

Rev. THẠCH SƠN - NGUYỄN HUY TƯỞNG.



NGUYỄN LINH QUANG,

NHỮNG MẢNH RỜI, TÔI-RIÊNG.

Đầu ngày, mở máy, nhận được e-mail của người bạn thân gửi từ bên kia bờ Đại Tây Dương, kèm theo bích chương “Du Tử Lê, 50 Năm Trên Ngọn Tình Sầu — Houston — 18.11.2007”. Ảnh chụp dáng người gầy, đứng nghiêng, tay chống dù, nhìn ra biển-chốn bao la. Vậy là chú Lê làm thơ đã năm mươi năm, từ trước khi tôi sinh ra, và tiếp tục công việc của mình trong khi tôi lớn lên, biết yêu, tập tành tính-thói, vào đời, rời Việt Nam đi Pháp, và xa xứ vừa đúng hai mươi năm. Bao nhiêu dòng chữ đã được viết ra, thơ, trường, thi, tuỳ bút, hồi ký& Bao nhiêu tâm tình đã trút xuống, tuôn tràn, chảy trào giữa ngàn ngàn trang giấy, rồi bốc bay theo giai điệu của hàng trăm bản nhạc tháp thêm cánh vào hồn thơ. Đó là một con người muốn gom hết tất cả mọi điều mọi sự vào tâm hồn mình, dù hình hài da thịt bao bọc nó lại khá khiêm nhường, nhỏ nhắn. Đó là một con người có sức hút mãnh liệt, dù chỉ với dáng, điệu khoan hoà, giọng, lời từ tốn. Đó là một con người cô đơn vô-cùng-tận. Viết cho chú. Viết về chú. Tôi cũng đã viết như thế, lúc này lúc khác, với từng ý rời, vụn như những mảnh puzzle khúc khắc, hay những tờ nhật ký ngoáy vội trên chuyến métro quên cả ghi ngày ghi tháng. Gom những-mảnh-nghĩ ấy vào đây, những mong khi ghép lại với nhau, chúng sẽ tạo được chân dung một người tôi thường nhớ về, nhớ đến, chân dung chú Lê nhìn bằng con mắt thật của chính tôi, hay, đúng hơn, chính là chân dung tự hoạ của cõi riêng-tôi, với đường nét sắc màu nhuộm đậm hơi hướm thơ văn từ chú?

Viện Cớ

... Tôi đọc lại bài thơ thêm một lần nữa. Có câu cứ níu lấy mắt, không muốn cho dời sang trang khác: Chân đi xa, chưa bước khỏi bóng mình Ừ, như vậy thật! Hoạ chăng chỉ có Peter Pan một lần ham chơi làm mất bóng, phải nhờ cô bé Wendy khâu lại vào chân. Hoạ chăng chỉ có anh chàng cao bồi lãng tử Lucky Luke bắn nhanh hơn cái bóng của chính mình. Hay, cổ tích hơn, là chiếc bóng loà nhoà in vách của người thiếu phụ năm xưa dỗ con mà đành chịu nỗi oan khiên cùng chồng. Còn thì, bóng cứ đổ dài dưới đèn, dưới trăng, hay bóng thu tròn lại quanh chân giờ chính ngọ, vẫn là nó, đen điu, nhẫn nại, theo ta từng bước một, suốt cả cuộc đời. Tôi yêu hình ảnh mà câu thơ vẽ ra, yêu cả cái tựa đề của bài: “Chim soải cánh, rớt tiếng về Nam Hải”, và quyết định sẽ hát nó lên.

Không biết ngâm thơ, tôi tìm cách đem nhạc điệu quyện vào lời để hát. Bài thơ có thể đọc được bằng mắt, bằng tiếng nói, bằng các nốt nhạc. Âm thanh và ngôn từ, đâu có gì xa lạ với nhau, phải không? Tôi hát lên bốn khổ thơ, có tim, mắt, vai, tóc, có nỗi xót xa của “Rừng thở miết nỗi tàn phai dã thú”, của “Tình lửa ngọn nghìn sau thôi cháy đỏ”, có sự tiếc nuối ngẩn ngơ khi “Năm mươi tuổi, hốt ngộ rằng mất mát, Bỗng làm nên bao sợi bạc quanh đầu”. Nhưng tất cả những điều ấy, người thơ vẫn cứ phải làm bộ che dấu đi, thường tình viện cớ nước mắt rơi chỉ vì hạt bụi vô tình bay vào. Con người sao lại phải nhân danh, viện cớ để làm điều này điều nọ, để che đậy những cảm xúc thật, yếu đuối hoặc giả trá của mình? Vì thế, tôi muốn gọi to tên: “Viện cớ”. Bài hát, với những đoạn buồn, cung thứ, trúc trắc đầy ám ảnh kịch tính, được viết xong vào giữa năm 1992.

Bẵng đi vài năm, một ý nhạc tươi hơn quay về, tôi để cho những sợi tóc chiều hôm thiếu mụn khói quê nhà một khoảng trưởng lênh đênh sáng trên nền tối mờ mịt của “Viện cớ” và quyết định gửi bài hát hoàn tất - như một lời cảm ơn, một món quà tặng, một sự chia xẻ - đến người đã viết xuống những lời thơ. Bài hát, như thế, trở thành chiếc cầu nối liền mối liên lạc thâm tình giữa chú Lê và tôi, từ đó. Diễm hỏi tôi:

 - Đọc văn Du Tử Lê chưa?

Tôi nhớ khi ấy, chân ướt chân ráo đến Paris, thơ Du Tử Lê có đọc, có nghe hát, nhưng văn của ông viết, thì chưa. Diễm kéo tôi đến tủ sách của thư viện, lôi ra một cuốn cũ mèm, bìa long, có dán choàng băng keo bên ngoài.

- Nè, đem về nhà mà nghiền ngẫm, Diễm thích văn của Du Tử Lê lắm, nên gặp ai cũng muốn giới thiệu. Rồi Diễm rời tôi và Du Tử Lê, ra ôm đàn, ôm nhạc Trịnh Công Sơn vào lòng và rủ mọi người cùng hát. Diễm mình hạc xương mai (*), Diễm gầy như liễu trong thơ cổ (**) hay Diễm của xứ hoa đào thấp thoáng tà áo tím, êm, nhẹ, chỉ cho tôi xem một mặt khác của ca khúc Trịnh Công Sơn, của văn chương Du Tử Lê. Và tôi hiểu, thế giới này vẫn luôn luôn có người muốn khám phá và biết chiêm ngưỡng cái đẹp tiềm ẩn nơi người khác. Dịu dàng thôi, mà rất diễm. Thụy

Tôi nghe loáng thoáng ở băng ghế sau, Em nói với cô

Hạnh Tuyền:

- Có nhiều người tên Thuỵ quá cô nhỉ...

Chú Lê có nghe thấy không, hay đang mải thả hồn ngắm đèn và người đang trôi ngược trên đại lộ Champs-Elysées? Thành, nếu nghe thấy, chắc chắn, sẽ như nút contact được bật, ào ngay ra: Hãy nói về cuộc đời, khi tôi không còn nữa, sẽ lấy được những gì về bên kia thế giới, ngoài trống vắng mà thôi, Thụy ơi, và tình ơi... (***) như vẫn thường khi, trong những buổi hát cho nhau nghe, hoặc vài lần trình diễn trên sân khấu. Còn như, nếu tôi không đọc thơ, không hát và được phép gọi: Thụy-của-tôi? Thuỵ-của-tôi không phải là Thụy ngoài đời công thành danh toại, hạnh phúc bên chồng con, rạng rỡ với bạn bè, cũng không phải là Thụy với lưỡi dao và mũi nhọn để cắt đứt cuộc tình đầu. Thụy-của-tôi mãi luôn luôn là một cô bé hàng xóm của tuổi mới lớn, đầy mộng mơ với những tình cảm vừa chớm, thơm ngọt như viên kẹo đường, áo trắng, váy xanh và tóc ngắn. Thụy-của-tôi, thật, không chỉ cách một mặt hồ, mà dường như lúc nào, cũng cách tôi cả một đại dương mênh mông, lúc Thái Bình Dương, khi Đại Tây Dương, xa ngút mắt...

Chú Lê viết bài thơ với những mô tả tỉ mỉ về biến chứng của căn bệnh bướu cổ. Nhạc sĩ Anh Bằng cùng nhiều ca sĩ tên tuổi đã đem lời và giai điệu gửi đi khắp nơi. Thuỵ trở thành một cái tên chung cho các cuộc tình tan vỡ, như những Duyên, Mai, Thuý, Ngọ, Nguyệt, Lan... trước đó. Còn, hình như tôi chưa bao giờ được hỏi: “Vì sao ta yêu nhau?” Vì Thụy-của-tôi, ở những lần gặp lại giữa chặng đường ba mươi năm dài dặc, vẫn thế, pha lê trong suốt với nụ cười của con bé Đinh Tiên Hoàng giữa những ngày cuối năm 75, giữa tiếng chuông nhà thờ đổ dồn trong cái lạnh cắt da cắt thịt của một mùa đông Sài Gòn mù sương và rét buốt lạ thường. Nhón Gót

Trên một tờ báo Xuân, tôi đọc được những câu thơ bị chẻ đôi, gãy gập:

Chào tinh khiết! -Giữa chiều/ tôi/ xế bóng

Như tấm lòng thao thiết cũng gieo neo.

Người nhón gót: nghe mưa về đáy vực

Buồn tôi sâu, hút, tựa nhớ, thương, nào.

Ánh sáng và bóng tối, cao và thấp, âm và dương, quyến luyến và chia lìa. Tôi và Em. Bài thơ được viết vào tháng giêng 2000. Đối với một số người, đó là sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới, khi con số 20 tròn trịa đứng trước mỗi năm đã thay thế cho con số 19 thiếu, lẻ. Với những người khác, đây chính là những giờ khắc sau chót của một thế kỷ, khoảng thời gian để ai nấy chờ đợi hồi chuông báo nửa đêm 31.12.2000 rạng ngày 01.01.2001. Ở cái buổi giao thời ấy, Du Tử Lê khẽ khàng thả vầng trăng thứ nhất cho ai đó, xa cách cả một đại dương địa lý. Buông từng lời chào ở đầu mỗi khổ thơ: chào tinh khiết, chào thơ ấu, chào Quán Thế, chào kỷ niệm, chào định mệnh, ông muốn gửi đến người đọc một bài thơ tình, một bài thơ thiền, một bài thơ tự sự, một bài thơ với nỗi ám ảnh về cái chết. Nhưng tất cả đều đọng lại ở một hình ảnh thật nhỏ nhoi mà cao vợi: người nhón gót. Vói, vươn lên cao, để rồi: thả xuống, cúi xuống, rơi xuống vực sâu của chính mình, tăm tối. Ý nhạc tuôn ra ngay từ những câu thơ đầu đầy tương phản, nhưng khi bản nhạc viết xong, chưa thật ưng ý, tôi đưa cho Trần Lê Khang xem. Khang giúp tôi điều chỉnh lại phần cuối bài hát và hứa sẽ soạn hoà âm cho tây ban cầm. Tôi muốn giữ lại hình ảnh “Nhón gót” tuyệt đẹp để làm tựa đề và nhờ vợ chồng Kim Tuấn-Bạch Thảo trình bày bài hát này. Tuấn-Thảo nắm rất vững nhạc lý và tự soạn bè cho giọng nữ cao và nam trung. Khi nghe “Nhón gót” đã thu vào CD, thính giả sẽ thấy có sự hoà quyện không thể tách rời giữa tiếng guitare khi đệm khi độc tấu với dòng soprano trong suốt và giọng baryton vững chãi trên nền một nhạc khúc với đoạn trưởng, đoạn thứ, đoạn slow rock lãng đãng, ngậm ngùi, đoạn boston khoan hoà, tự tại. Bài hát là một công trình chung của bốn người đi tìm dựng lại cõi riêng của một người: cõi thơ của người thơ Du Tử Lê.

Gửi Yêu Dấu

Không hiểu tại sao, tôi lại chỉ có duyên viết nhạc khúc từ những bài thơ rời của chú Lê đọc được trên các tạp chí văn học. Nhiều bài thơ, chú đề tặng cho tôi và bạn bè, trân trọng lắm, nhưng tôi không tìm được giai điệu thích hợp để phổ vào. Có phải nhạc đến với thơ cũng do ngẫu hứng, và ta không thể o ép những ý, tứ, thanh, âm lại với nhau để tạo nên một tác phẩm ưng ý?

Giữa năm 2002, tôi muốn mượn lời bài “Thơ Tình Gửi Yêu Dấu, Đầu Thiên Niên Kỷ, Mới” để gửi đến Em điều muốn nói:

Người cho tôi mùi hương

Và, mặt trời giữa ngực,

Môi: thơm biển Hoa Nghiêm,

Trái tim: rừng Bát Nhã.

Và hai năm sau, Em đã cùng Đăng Siêu và Lê Hoài Anh

hát lên lời chung khi ca khúc lần đầu tiên được trình bày trước chú Lê, cô Hạnh Tuyền và thính giả: Người cho tôi đám đông:

-Thấy chúng ta là một.

Trong dáng ngồi Quán Âm

Tôi kiết già nỗi nhớ.

Đã có một cõi chung, điểm giao thoa giữa những tình

riêng của từng khu vườn ẩn mật. Em, tôi, mọi người đang đứng ngồi trên dưới sân khấu kia, hẳn phải có một cõi chung: niềm yêu thơ Du Tử Lê. Phải không Em? Tấn và Vinh

... Sau hai mươi lăm năm, chúng tôi trở về đứng lại trên sân trường cũ, bước vào ngồi xuống băng ghế đã từng ngồi, khoanh tay ngoan trên bàn, và nhìn thấy tóc đứa bạn thân bên cạnh sợi đen chen sợi bạc. Tôi gọi đó là hạnh-phúcthương- đau, một thứ hạnh phúc nhận biết, sờ nắn được với cái nắm tay, choàng vai gặp mặt và nỗi nghẹn ngào bất lực trước khoảng thời gian, không gian đã đánh mất. Quá khứ nhập vào hiện tại với dáng ngồi hôm nay, với thân ngọc lan vẫn đứng sững ngoài cửa lớp. Nhưng còn rất nhiều chỗ trống, còn dáng con sẻ nhỏ xù lông nằm tắm trong vũng nước mưa đọng cuối hiên, còn mái tóc dài đã cắt, còn đôi mắt vui đã mỏi, còn những chia xa không bao giờ tái ngộ được nữa. Tấn và Vinh, những thằng bạn của ba năm cuối cấp trung học, những thằng bạn của gần ba mươi năm chia lìa trên ba miền đại lục, nhìn nhau trưởng thành, mà vui, mà đau. Chúng tôi cười tiếng cười của lũ học trò trên bốn mươi tuổi, đầy tự tin nhưng đã mất đi quá nhiều nét trong trẻo, hồn nhiên. Sân chơi đã mở rộng ra giữa trường đời, nhưng bạn chơi thân tình, thâm giao, không dễ tìm được nữa. Rồi Tấn quay về Bắc Mỹ, Vinh ở lại Sài Gòn. Sau chuyến bay dài, tôi đến nhà, mở thùng thư đầy ắp, nâng trên tay món quà quý đầu năm: lời tự sự của những cậu học trò trên sáu mươi tuổi. Như duyên kỳ ngộ, bài viết khơi sâu, đổ đầy thêm những cảm xúc còn đang chan hoà trong tôi. Thêm hai mươi, hai mươi lăm năm nữa, chúng tôi sẽ còn bao nhiêu đứa để họp lại với nhau, để kể, để hát, để đàn, và uống? Tôi mở trang sách, đọc to cho tôi nghe, và tưởng tượng quanh đây đang có thầy Lê Nguyên Đại, có Vinh, có Tấn và tất cả bạn bè của lớp cũ, mới đó mà rồi cũng xa. Kỷ niệm học trò của chú, học trò hàng Vôi, học trò Chu Văn An, và kỷ niệm của chúng tôi, học trò Taberd, học trò Võ Trường Toản, học trò Trưng Vương, ngỡ khác nhau xa lắm, nhưng thật sự, đều thơm nồng bình minh ấu thơ như nắng đầu ngày đổ tràn lên áo trắng.

Chú Lê

Chị Đặng Mai Lan, chiếc lá mong manh, và chú, nỗi muộn phiền ngũ sắc, đã thay nhau giới thiệu đến mọi người những ịCa khúc của LêỂ. Có Mộng Trang nhớ ai buồn ngất trên vai áo, có Tố Lan hãy hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay, có Mộng Hương kim chỉ khíu tình, có Xuân Thành hát về loài chim bói cá, Hải Sơn nhắc con dế buồn tự tử giữa đêm sương, đã tái sinh thành con dế nghe kinh gióng hồi chuông phổ độ cùng Đăng Siêu. Có Em và Hạnh thầm thì đâu đó. Chú cười vui với cô Tuyền giữa đám đông hay chú ngồi nghiêng một góc, bên khói thuốc, cạnh đám đông, nhìn ra lô nhô nhà cửa Paris một chiều hè nhiều nắng, vẫn là một: con người cô đơn vô-cùng-tận.

Hình như tôi chưa bao giờ thuộc từ đầu đến cuối một bài thơ nào của chú Lê. Nhưng có lần, nằm dài bên biển, dạt ngang một trận bóng mây, nhìn từng vệt nước chém văng trên cát mịn, tôi thảng thốt: Mưa ở đâu về? như vết thương Vậy đó, tôi yêu thơ Du Tử Lê, và hiểu nhiều lời nhắn gọi của chú: 

Vì thế

Hôm nay,

Chúng ta, những kẻ tật nguyền, cần nhau

Như những giọt lệ,

Những trái tim, tìm nhau.

Nguyễn Linh Quang

CHOISY-LE-ROI 10.2007

(*) Trích trong liên-tiểu-khúc “Đoá Hoa Vô Thường” của

nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

(**) Thơ Nguyên Sa

(***) “Khúc Thụy Du”, tình ca Anh Bằng, phổ từ thơ Du Tử Lê

Những đoạn in nghiêng còn lại trong bài trích từ thơ, văn và chữ dùng của nhà thơ Du Tử Lê



NGUYỄN MẠNH TRINH,

DU TỬ LÊ,

“QUA MÔI EM: TÔI THỞ BIẾT BAO ĐỜI!?.”

Đọc thơ, có lúc cũng cần những chất xúc tác bên ngoài. Trời mưa, thơ ủ nóng da thịt. Trời gió, thơ làm se những phân vuông đời sống để có một lúc, những sợi thần kinh sẽ rung lên những tần số vút cao. Thơ, đôi khi dường của không gian, thời gian mờ mịt, không là của trần gian này. Chẳng có ai nhốt được gió, được mây vào những khuôn nhỏ hẹp. Thơ thuần cảm tính và ghét lý luận. Trong suy nghĩ ấy, tôi đọc thơ Du Tử Lê… Dù chuyện lớn hay nhỏ, cũng là cái duyên, tôi tin như vậy. Trời đất này là để đọc thơ, nhất là những câu thơ mênh mang như thời tiết bây giờ. Mấy ngày hôm nay: trời mưa và gió…

Buổi sáng sớm đi làm, mang theo tập thơ vào sở định đọc, chữ nghĩa phù thủy ám ảnh ngay từ lúc bật máy điện toán làm việc. Những e-mail nhận, gửi, những dự trù trong ngày, những lệ thường quen thuộc bỗng dưng thay đổi. Tất cả lung linh mờ ảo và trôi tuột trong óc.. Rồi cả ngày, mấy ngôn ngữ ấy cứ quẩn quanh trong óc. Những câu thơ dòm ngó thời khắc. Những ngôn ngữ ám ảnh giác quan. Thơ không tả mưa tả gió, mà, cái cảm về gió mưa sao cứ trực diện trong tâm…

Thời tiết này, có phải là cho thơ hiển lộng hay không? Lâu quá không làm được một câu thơ nào, thế mà bây giờ chỉ thấp thoáng câu thơ của người khác trong óc ... rồi chan hòa những cảm giác trống không. Thơ tự nhiên biến mất dạng trong cái đối nghịch sẵn có của đời sống! Thế mà thi ca vẫn hiện hữu. Hôm nay. Trong thơ Du Tử Lê. Nhìn xuống sân , thấy những hạt mưa, tự nhiên nghĩ đến nắng. Lạ quá- có một cái gì khác thường trong buổi sáng hôm nay. Những câu thơ, gợi lại nỗi niềm nào xa xôi. Có và không như chỉ là một. Nó đối chiếu với nhau, có khi mâu thuẫn, có khi đối nghịch nhưng vẫn hài hòa cùng nhau. Tôi, như một lúc quán tưởng. Có phải vì đọc thơ họ Du chăng?

“đừng tìm nhau nữa: trong kinh kệ

“con chữ khôn cùng: những hóa thân

“đừng chờ nhau nữa : trong hơi thở:

“ta đã chung:

“- cùng một chữ không.”

Thực ra, tôi nghĩ chỉ có thơ, và độc nhất có thơ mà thôi. Tôi thấy những từ ngữ như thơ thiền, thơ đạo, thơ triết…có một ý nghĩa nào thừa thãi. Thơ, đủ rồi. Bởi , một chữ bao hàm tất cả. Làm thơ với một chủ đích, sẽ khó thành công. Chẳng thà, cứ theo dòng cảm xúc, thế mà hay. Đừng nhốt ngôn ngữ vào khuôn hẹp. Cứ để “ tôi tự do phơi phới một đời” như câu thơ Thanh Tâm Tuyền viết. Chẳng cần cố tâm nhồi nhét - trời đất, âm dương, ngày đêm, mưa nắng, đen trắng, tốt xấu, thiện ác… Tự nhiên rồi thơ sẽ có đủ. Giở tập thơ “Qua môi em: Tôi thở biết bao đời!?.” ra mà xem thử…Có phải đủ để vuông tròn thành một thế giới riêng không?

“ Tôi vẫn đuổi theo tôi, từng phút một

“ (những con người đi , đến tự hư vô.)

“ tôi vẫn đuổi theo em từng phút một

“ (mà em, sao tôi chả gặp bao giờ!)”

Phải, làm sao mà gặp được cái vô cùng. Có khi, em không phải là một người, một hình dáng, mà là một đích đến không bao giờ gặp. Sống là đi trong một hành trình đeo đuổi theo từng phút từng giây để đến sự trống vắng hư vô. Tôi chợt nhớ lại câu thơ Nguyên Sa ngày nào :

“Buổi sáng tinh khôi, lúc năm giờ, thủy triều rút đi mang theo cả bãi biển.

“Tôi nghe thấy tiếng kêu cứu của những hạt cát

“Tôi rượt đuổi hụt hơi

“Mà không làm được gì !”

Tôi sẽ không viết về sự cách tân của thơ Du Tử Lê.

Cũng như, tôi sẽ không đề cập đến những ngôn ngữ trong

thi tập này mà tôi gọi là “ ngữ ngôn phù thủy”. Và tôi cũng sẽ không nói về những lối ngắt câu, dùng những ký hiệu / hay +, hoặc những nhan đề thơ có phong vị rất “Du Tử Lê”… Bởi những điều ấy đã có người viết về và đã có những nhận xét chính xác và sâu sắc. Thơ lục bát đã có tự ngàn xưa và tạo thành những khuôn khổ khiến cho người làm thơ phải chùn bước. Trong cái khuôn khá nhỏ hẹp ấy, làm sao mà hiển lộng được tuyệt chiêu để ý tưởng vượt lên và mượt mà những cỏ non tâm thức. Bài “Mừng, Em Thêm, Mất ( Như Còn).” Thơ là những chuỗi ngôn ngữ và ý tưởng sắp hàng cạnh nhau nối liền đến vô tận. Trong cái mênh mang thực tại có nỗi bâng khuâng của nơi chốn nào mà thực tế và mộng mơ nhòa nhạt với nhau và không phân chia được. Hình ảnh cũng chỉ là phác sơ vài đường nét nhưng chan chứa một đất trời, một tượng hình cõi sống. Thơ không phải là điệp khúc của mừng vui mà chính là lập lại hân hoan của bước trở về kỷ niệm.

“ mừng! em, thêm, năm ,tháng, ngày;

thêm, thân giả tạm, tâm dầy hạt kinh(?!?)

mừng! thêm, lênh đênh thác, ghềnh

thác không ký ức, ghềnh nằm ung dung(!?!)

mừng! em, thêm, sông, thêm, rừng:

sông không bờ bến, rừng không gió, về

mừng! thêm, xa lạ cái ta?

(như da, thịt mới đi qua cuộc tình.)

mừng! em, thêm, mất (như còn;)

mất không tên gọi, còn không bóng, lời.

mừng! thêm… năm, tháng… đủ rồi!

buồn/ vui trong một gương soi chia/ lìa.

mừng! em thân/ tâm ra đi

tốt thôi! kỷ niệm cũng là máu, xương.

mừng! như người đã lên đường,

tôi qua đời vẫn vô cùng biết ơn!

(ơn em, trang kinh thân, tâm) “

Thơ Du Tử Lê với tôi có nhiều tần số cộng hưởng. Ở cái cảm riêng tư, có không gian riêng, cảnh thổ riêng. Thơ không triết lý nhưng vẫn mở ra những cánh cửa lý luận. Triết, thiền, không còn là danh từ chỉ định nữa mà biến thành động từ. Và thơ, ở thể tĩnh nhưng lại “động” vô cùng. Đời sống đối chiếu hai mặt, và, thơ cũng thế. Có một lúc nào, như buổi sáng soi vào gương để thấy nhân dáng mình trong thơ. Hình như, con người không một ai từ bỏ được cá tính mình. Như giai nhân, phải phấn son gương lược điểm trang. Hay, tráng sĩ phải hào hùng trăng treo vó ngựa. Thơ Du Tử Lê dù tràn đầy thiền tính nhưng vẫn là nhịp đập rộn rã của trái tim đầy cảm lụy.

“tôi chẳng thể nói gì thêm, yêu dấu

khi tâm hồn cũng nặng, khẩm sớm mai

biển hạnh ngộ, sóng xô, dồn kiếp, khác

chiều sa di cởi áo: tạ ơn đời

“tôi chẳng thể nói gì thêm, yêu dấu

khi đêm tìm đêm / lạnh / ngón tay, riêng- -

cây tháng tám, gửi lá người: tinh khiết

cho môi tôi: một tối ướt hương, bền

“tôi chẳng thể nói gì thêm, yêu dấu

khi thương yêu thấu, vượt khỏi chân trời

con đường sẽ giữ giùm ân, nghĩa gắt

gối chăn rồi đẫm, đẫm khát khao, tôi…”

Mỗi một người làm thơ đều có những dông bão riêng từ những đoạn đường song song thi ca và đời sống. Thơ phản ánh trung thực suy tư. Tâm ổn định, thơ thanh thoát. Tâm sôi nổi, thơ cũng dồn theo một nhịp. Với Du Tử Lê, thơ đang đi trên một hành trình tìm kiếm cái vĩnh cửu cho ngôn ngữ.  “Qua môi em: tôi thở biết bao đời!?.” chỉ là một chặng. Tôi nghĩ ông sẽ đi xa hơn nữa, sâu thẳm hơn nữa, cao rộng hơn nữa. Như cái tiến trình đã vượt, như những thác ghềnh đã qua của thơ ông…Trước và sau Du Tử Lê, có được bao nhiêu người đã trải qua như thế với tâm sự ngất ngất đỉnh trời?

Nguyễn Mạnh Trinh.

(Nhật báo Người Việt, Chủ Nhật, ngày 21-11-04)



NGUYỄN NGỌC BẢO,

NĂM MƯƠI NĂM ẤY BÂY GIỜ LÀ ĐÂY!

(CUỘC MẠN ĐÀM VỚI NHÀTHƠDUTỬ LÊ NHÂNTHỜI ĐIỂM

ĐÁNH DẤU 50 NĂM SÁNG TÁC THI CA CỦA ÔNG.)

Ngày 18 tháng 11 năm 2007 sắp đến, hội Văn Hóa Khoa Học Việt Nam (VHKHVN) sẽ tổ chức một chương trình vinh danh nhà thơ Du Tử Lê nhân thời điểm đánh dấu 50 năm kể từ ngày ông dùng bút hiệu Du Tử Lê cho một bài thơ đăng trên tạp chí Mai xuất bản tại Sài Gòn, khi ông mới 15 tuổi. Buổi vinh danh nhà thơ sẽ được tổ chức trọng thể tại hý viện Stafford Performing Arts tại Stafford, thành phố kế cận Houston, thuộc tiểu bang Texas, và bao gồm một chương trình nhạc thính phòng với các ca khúc được phổ từ thơ Du Tử Lê. Các ca sĩ xuất hiện trong chương trình là những nghệ sĩ tên tuổi của cộng đồng người Việt hải ngoại. Nhân sự kiện này, kỹ sư Nguyễn Ngọc Bảo, sáng lập viên và hiện là cố vấn hội VHKHVN, đã có cuộc mạn đàm với nhà thơ về cõi thơ của ông và cuộc đời ông trong quãng thời gian 50 năm qua.

***

Nguyễn Ngọc Bảo (NNB): Thưa anh Du Tử Lê, năm nay đánh dấu thời điểm 50 năm anh sống trọn vẹn với chữ nghĩa. Xin anh cho biết cho đến hôm nay, anh có bao nhiêu tác phẩm được xuất bản? Bao nhiêu là thơ và bao nhiêu là văn xuôi?

Du Tử Lê (DTL): Thưa anh Nguyễn Ngọc Bảo, tính tới hôm nay, tôi có tất cả 46 tác phẩm đã được in thành sách. Trong số đó, non một nửa là thơ. Phần còn lại là truyện, tùy bút...

NNB: Giả thử được khởi sự lại thời điểm 50 năm về trước, khi còn là cậu bé 15 tuổi sắp sửa gửi đăng báo bài thơ đầu tiên với bút hiệu Du Tử Lê, anh sẽ quyết định hướng đi nào cho anh? Vẫn nhất định trở thành một nhà thơ, hay sẽ theo đuổi một sự nghiệp khác?

DTL: Thưa anh, chắc chắn tôi chọn một hướng đi khác,

cho đời mình. Tôi muốn làm một công việc gì đó, thiết thực, hữu ích cụ thể cho mọi người, như những việc làm của các anh, chị trong Hội VHKHVN. Thí dụ, tôi được trở thành một tài xế xe tải 18 bánh, lái xuyên bang chẳng hạn. NNB: Chẳng lẽ làm một tài xế xe tải xuyên bang lại thú vị hơn làm một nhà thơ?

DTL: Theo những tài xế xe tải thì, dọc đường có nhiều chuyện thú vị lắm, thưa anh. Tuy nhiên, nếu trở lại được từ đầu, tôi vẫn muốn được làm một việc gì khác, hữu ích cụ thể.

NNB: Ngay từ thuở có bài thơ đăng báo đầu tiên, anh có tin rằng anh sẽ trở thành một trong những thi sĩ hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại không, thưa anh Du Tử Lê?

DTL: Thưa anh không. Lý do, sau khi được đăng bài thơ

đầu tiên với bút hiệu Du Tử Lê, nhiều khi cả năm sau, tôi không có bài thơ nào được đăng báo. Họ luôn luôn trả lời tôi “nhận được, cám ơn.” Thời của tôi, ở miền Nam Việt Nam, muốn được đăng một bài trên tạp chí, rất khó khăn, nếu không có sự quen biết, hoặc không có người đỡ đầu...

NNB: Thông thường, trong giai đoạn đầu tiên của sự

nghiệp văn chương, một nhà thơ thường chịu ảnh hưởng từ một hay vài ba nhà thơ nổi tiếng của thế hệ đàn anh. Trường hợp anh, anh có chịu ảnh hưởng của nhà thơ nào không? Nếu có, thì đó là những ai?

DTL: Tôi tìm vào văn chương rất sớm. Có thể bởi tôi quá cô đơn. Quá nhút nhát! Tôi không có bạn vì mặc cảm sáu ngón tay... Tôi đọc tất cả những gì có trong tủ sách gia đình. Về thơ, lúc đầu tôi rất thích thơ Nguyễn Bính, rồi, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... Nhưng tôi thích nhất và tôi nghĩ, nhiều phần, tôi chịu ảnh hưởng thơ Huy Cận, nhất là thơ năm chữ.

NNB: Tuy nhiên, ngay từ những năm đầu làm thơ, anh đã vượt ra khỏi ảnh hưởng của những nhà thơ vừa kể để tạo thành một cõi thơ riêng biệt cho mình, một cõi thơ Du Tử Lê. Nếu không làm được điều này, có lẽ anh không thể trở thành một trong những nhà thơ lớn như hôm nay?

DTL: Vâng, thưa anh Bảo. Khi lớn thêm một chút, tôi

thấy tuy các tác giả tiền chiến, có những đặc điểm khác nhau, nhưng họ vẫn có một mẫu số chung: Đó là thời đại của họ. Ngay từ khi còn rất bé, tôi đã thấy tôi không được sống trong cái không khí thanh bình, êm ả. Thời của tôi là thời chiến tranh, chạy loạn, chạy giặc, tản cư, di cư, chia lìa, chết chóc... Tôi nghĩ thơ của tôi phải có được cái nhịp đập của trái tim, của thời đại tôi sống. Tôi muốn nói, mỗi thời đại có những suy nghĩ, những ngôn ngữ, và cách diễn tả riêng. Từ đó, nó cũng tự đi tìm lấy cho nó những hình thức khác.

NNB: Năm 1985, trong một bài tiểu luận về thơ Du Tử Lê, nhà văn Mai Thảo đã viết “thời gian gần đây Du Tử Lê làm thơ hay, có nhiều thơ hay.” Rồi sau đó, ông ví von thơ Du Tử Lê ở thời điểm ấy như một thứ rượu nho thượng hạng được hạ thổ đúng tháng, đúng ngày. Trên nguyên tắc, ngay từ trước năm 75, anh đã là một nhà thơ lớn, được trao giải Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn Thơ, vào năm 1973. Vì vậy. thưa anh, tại sao mãi đến năm 1985ø, tức 12 năm sau khi anh được giải, ông Mai Thảo mới ví von thơ Du Tử Lê vừa được hạ thổ đúng tháng đúng ngày, đã loại trừ được cái xóc cái gắt để chỉ còn lại cái đầm của rượu?

DTL: Vâng anh Bảo. Tôi cũng không biết tại sao. Mặc dù, thời nhà văn Mai Thảo trông nom tạp chí Sáng Tạo, tôi cho, ông là người chủ trương làm mới văn chương. Tôi xin kể một chuyện mà, tôi cũng đã từng nói ở nhiều nơi, từng viết xuống và in ra, khi nhà văn Mai Thảo còn sống. Câu chuyện đó, có thể tóm tắt như thế này: Giai phẩm Văn, số Xuân năm 1967, ở Saigòn, tôi có đưa cho anh Trần Phong Giao, một bài lục bát ngắn, nhan đề “Bài cuối 66.” (66 = năm 1966.) Báo ra, một tuần sau, tôi tới tòa soạn lấy tiền nhuận bút. Tình cờ, gặp nhà văn Mai Thảo cũng vừa tới. Tôi nhớ, gặp tôi, ông nói ngay:  “Tôi vừa đọc bài lục bát mới của Du Tử Lê. Lục bát gì kỳ vậy!” Ông không đồng ý khi tôi dùng dấy phẩy (phết) để ngắt lại nhịp đi của lục bát. Cụ thể là hai câu chót, trong bài thơ đó. Nguyên văn của nó, như sau: “phố cao, gió nổi, bóng mờ - - đêm lu, trời nặng, tôi gù lưng, đi.” Là người có làm thơ, anh Bảo biết rằng, lục bát của chúng ta, xây dựng trên nhịp chẵn là 2/2/2 cho câu Sáu và 2/2/2/2 cho câu Tám (hoặc đôi khi cũng có thể là nhịp đều 3/3 cho câu Sáu, 4/4 cho câu Tám).

Do đó, với hai câu thơ tôi vừa đọc, nếu chia nhịp, thì nó sẽ là: 2/2/2 cho câu Sáu và 2/2/3/1 cho câu Tám. Việc làm đó của tôi, tôi nhấn mạnh, cách đây đã trên 40 năm, chứ không phải gần đây! Khi ấy, sự cố tình ngắt lại nhịp đi của lục bát, của tôi, nó là cái gì khó cho mọi người chấp nhận, ngay cả người luôn chủ trương đứng về phía cái mới... Rất may cho tôi, đầu thập niên 90, nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh cho tôi mượn cuốn “Nghĩ về thơ” của Nguyễn Hưng Quốc. (Tác phẩm này do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 1991, đã tái bản, sau đó.) Trong tập sách này, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, ghi nhận chủ tâm đổi mới nhịp lục bát của tôi. Khi trích dẫn một số câu lục bát của tôi, Nguyễn Hưng Quốc có trích dẫn hai câu tôi mới đọc. Và ông ta kết luận, đại ý, lục bát sau Du Tử Lê, là một lục bát khác. Nỗ lực ấy, không thể phủ nhận.

NNB: Nhắc đến chuyện anh đổi mới nhịp thơ, nhà thơ Đỗ Quý Toàn đã từng nhận định rằng “Du Tử Lê là một nhà thơ hiếm hoi, kỳ tài ở chỗ luôn làm mới được thơ của chính ông ấy.” Theo anh, vì lý do nào ông Đỗ Quý Toàn đã nhận định như vậy? Phải chăng chỉ ở nhịp lục bát như anh vừa trình bầy?

DTL: Để trả lời đầy đủ câu hỏi này, tôi nghĩ sẽ mất rất nhiều thì giờ của quý độc giả. Vì, nhà thơ Đỗ Quý Toàn có những lý giải khá cận kẽ, và trích dẫn nhiều câu thơ của tôi, trước khi đi tới kết luận. Và, ông không chú trọng nhiều đến thể lục bát, mà ở cấu trúc, cùng ngôn ngữ nơi các thể thơ khác của tôi. Do đấy, tôi xin đề nghị vài phương cách giản tiện hơn, đó là: Thứ nhất, xin quý vị mua và xem phần phát biểu mới nhất (ngày 29 tháng 9-07, vừa qua,) của nhà thơ Đỗ Quý Toàn trong cuốn video “Du Tử Lê / 50 Năm” do Hội VHKHVN thực hiện và phát hành. Thứ hai, quý vị có thể vô thư viện, hoặc hỏi các tiệm sách, cuốn “Tìm thơ trong tiếng nói” của nhà thơ Đỗ Quý Toàn, do nhà Thanh Văn xuất bản tại Hoa Kỳ, năm 1992. Hoặc nữa, quý vị cũng có thể mua tuyển tập nhiều tác giả, cùng nhan đề “Du Tử Lê / Năm mươi năm,” cũng do Hội VHKHVN xuất bản và, sẽ chính thức phát hành lúc 2 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 18 tháng 11 tới đây, tại hí viện Stafford Performing Arts Centre. Trong tuyển tập nhiều tác giả này, như tôi biết, Hội VHKHVN cũng sẽ đăng tải bài nói chuyện, phân tích của nhà thơ Đỗ Quý Toàn về thơ của tôi, tại Đại học Montreal, hồi tháng 4 năm 1994, ở Canada.

NNB: Cho đến hôm nay, anh có nghĩ là các lối cách tân thơ của anh được nhiều người làm thơ tán thành và áp dụng không?

DTL: May mắn cho tôi, sau này, nhiều người đã hưởng ứng, ngay cả trong nước. Thậm chí cả các ký giả viết báo nữa. Nhất là khi tôi chủ trương chẻ chữ để thêm nghĩa, thí dụ “chia, ly” “tàn, tạ,” “thất, lạc”... Mặc dù, trước đây, tôi từng bị chửi trên báo là “vô học,” là “không biết xử dụng dấu phết, khi tôi in một tập tùy bút, nhan đề: “Tôi, ấu thơ và, mẹ!””

NNB: Anh có lo ngại một ngày kia, sẽ có một Du Tử Lê khác vượt qua anh khiến anh bị lu mờ và ít được nhắc nhở nữa không?

DTL: Thưa anh, không. Tôi nghĩ tôi đã miễn nhiễm với sự sợ hãi đó. Bởi vì không phải mai này mới có những “Du Tử Lê khác.” Mà, hiện tại cũng như quá khứ, tôi đã được gặp, đã đối điện với rất nhiều Du Tử Lê khác. Nói một điều, có thể không thuận tai anh Bảo, nhưng tôi vẫn xin được nói: Tôi quan niệm đời sống là dòng sông chảy, trôi không ngưng nghỉ. Tôi rất mong, những ngày còn sống, sẽ thấy được “một Du Tử Lê” mới, làm lu mờ hoặc khiến không ai còn nhắc tới Du Tử Lê cũ, là tôi, nữa.

NNB: Thưa anh Du Tử Lê, là một nhà thơ thành danh

ngay từ khi còn rất trẻ, chắc chắn anh đã tận hưởng những vinh quang đến từ ngòi bút, từ tài hoa của anh. Trong số những vinh quang ấy, đối với anh, đâu là vinh quang rực rỡ nhất? Phải chăng đó là giải Văn Chương Toàn Quốc trong bộ môn Thơ mà anh nhận lãnh năm 1972?

DTL: Vâng. Nhưng điều đó, chỉ đúng cho giai đoạn trước

năm 1975 mà thôi, thưa anh Bảo. Với tôi, thì cái rực rỡ, sung sướng hay hạnh phúc nhất, là những phút mà tôi may mắn sẽ được có vào ngày Chủ Nhật, 18 tháng 11 tới đây, do Hội

VHKHVN, cũng như các thân hữu và độc giả đem lại...

NNB: Thưa anh, trong tác phẩm biên khảo của ông

Nguyễn Đức Tùng mang tựa đề “Với Du Tử Lê, đời sống trở nên thơ mộng hơn” (do nhà sách Tự Lực xuâùt bản và phát hành trong năm nay), tác giả đã chia thơ Du Tử Lê theo từng đề tài và có những bài tiểu luận về những đề tài này như thơ viết cho quê hương, thơ viết về mẹ, thơ cho bằng hữu, thơ thiền tính, và dĩ nhiên thơ tình. Tuy nhiên, tác giả đã viết rõ “Du Tử Lê là người vắt kiệt đời mình để làm thơ tình.” Theo anh, vì sao ông Nguyễn Đức Tùng nhận định như vậy, vì số lượng thơ tình anh đã sáng tác vượt trội hẳn những bài thơ viết về đề tài khác, hay vì những bài thơ tình ấy đặc sắc hơn?

DTL: Tôi nghĩ, có lẽ vì cả hai lý do mà anh Bảo vừa nêu

ra. Thêm nữa, thơ tình bao giờ cũng dễ đọc và, dễ đáp ứng số đông, hơn những loại thơ khác.

NNB: Theo kinh nghiệm của anh, phải chăng một nhà thơ chỉ có thể sáng tác được những bài thơ tình thật hay nếu trong lòng họ lúc bấy giờ đang có một tình yêu lớn, nhất là thứ tình yêu có bóng dáng của bất an, của trắc trở?

DTL: Vâng. Thưa anh, đúng vậy.

NNB: Trong tác phẩm “Với Du Tử Lê, đời sống trở nên thơ mộng hơn” vừa nhắc đến, có một chương thật thú vị. Đó là chương khá dài mang tựa đề “Người Kể Chuyện Tình.” Trong chương này, ông Nguyễn Đức Tùng có một hành động khá liều lĩnh là liệt kê những nhân dáng cũ trong đời anh và những bài thơ bất hủ của anh liên hệ đến những nhân dáng ấy. Chẳng hạn như Huyền Châu với “67, Khúc Thêm Cho Huyền Châu” tức “Trên Ngọn Tình Sầu,” Huỳnh Thụy Châu với “Khúc Thụy Du,” Nguyễn Lan Anh với “Kiếp Sau Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau,” Thục Ngạn với “Đêm, Nhớ Trăng Sai Gòn,” một nghệ sĩ tên tuổi khác với “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu,” Thúy Ngọc với “Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi,” v.v. và v.v. Thưa anh, phải chăng nếu không có những người phụ nữ này, thì sự nghiệp thi ca của Du Tử Lê đã không được như hôm nay, kể cả lượng lẫn phẩm? Giả tỉ như những người này đang lắng nghe cuộc mạn đàm của chúng ta, anh có điều gì muốn nói với họ không, thưa anh?

DTL: Vâng. Đúng thế. Nếu có ai trong số những người mà anh Bảo vừa đề cập, đang lắng nghe, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn và, cùng lúc lời xin lỗi!”

NNB: Không hiểu khi đọc chương này, chị Hạnh Tuyền, tức Du Tử Lê phu nhân, có mang tâm trạng “Lửa tâm càng dập càng nồng” như Hoạn Thư trong Truyện Kiều không, thưa anh?

DTL: Tôi nghĩ là... có thưa anh. Nhưng gần đây, tôi có cảm tưởng Hạnh Tuyền quan tâm tới sự nghiệp của tôi, nhiều hơn bất cứ một điều gì khác. NNB: Xin hỏi thêm anh một câu nữa về đề tài này. Trong “Với Du Tử Lê, đời sống trở nên thơ mộng hơn,” ông Nguyễn Đức Tùng khai danh tính những phụ nữ đã từng lưu dấu trong đời anh, và dĩ nhiên trong thơ anh. Tuy nhiên, có một người mà ông Tùng không nêu đích danh mà chỉ nhắc đến bằng cụm từ “một nghệ sĩ lẫy lừng tên tuổi”. Thưa anh, vì lý do nào mà ông Tùng tế nhị không nêu tên nữ nghệ sĩ này? Thêm nữa, có nhiều thân hữu của anh đã nhận định rằng trong những năm gần đây, dường như hình ảnh người nữ này vẫn thấp thoáng đi ra đi vào trong cõi thơ anh?

DTL: Thưa anh Bảo, câu hỏi về sự không nêu danh người nữ nghệ sĩ kia, xin anh Bảo hỏi thẳng anh Nguyễn Đức Tùng. Còn câu hỏi kế tiếp, tôi nghĩ, có thể, anh Tùng cho rằng, chưa phải lúc để công bố. Hoặc cũng có thể vì một lý do nào khác, mà tác giả Nguyễn Đức Tùng không hoặc chưa muốn nói ra... Về phần thứ hai của câu hỏi, tôi có thể khẳng định ngay là, không hề, thưa anh Bảo. Có thể những thân hữu đó, của tôi nhầm lẫn với một hình ảnh nào khác chăng...

NNB: Thưa anh Du Tử Lê, trong hơn 10 năm qua, anh đã được nhiều trường đại học tại Hoa Kỳ mời nói chuyện về văn chương Việt Nam nói chung và thi ca nói riêng. Trong những buổi nói chuyện này, đã có sinh viên nào hỏi anh về sự khác biệt cơ bản giữa thi ca VN và thi ca Hoa Kỳ không? Nếu có, anh đã trả lời họ ra sao?

DTL: Thưa anh có. Tôi trả lời họ rằng, đời sống Mỹ là

một đời sống hạnh phúc, thanh bình, dư thừa mọi thứ... Vì thế, thơ của các thi sĩ Mỹ hầu hết rất êm ả, ít dằn, xóc. Họ thường nói về thiên nhiên - - Như buổi sáng hay buổi chiều dạo bờ biển, với họ, cũng đã có thể thành một bài thơ. Trong khi thơ Việt Nam ngược lại. Đời sống của người việt Nam, nhất là thế hệ tôi, đầy bất trắc, đầy tai ương. Không một ai có thể nói trước điều gì, về ngày mai của mình! NNB: Và có ai hỏi anh là thơ Du Tử Lê đặc biệt ở những điểm nào không?

DTL: Thưa anh không. Nhưng có một chuyện mà tôi xin kể lại ở đây, như một sự kiện tiêu biểu cho tinh thần học hỏi của sinh viên Mỹ. Đó chuyện năm 1999, tôi có hai lần được mời nói chuyện tại đại học Berkeley. Lần thứ hai, có một sinh viên Mỹ, cô đang là ứng viên tiến sĩ Vật Lý; nhưng ghi tên theo học một lớp về văn chương Việt Nam. Cô phải dịch một đoạn văn trong truyện ngắn “Đời ta” của tôi, sang tiếng Mỹ. Câu thứ nhất, cô hỏi tôi rằng, cô nghĩ người bạn đời hiện tại của tôi, không phải là nhân vật nữ, trong truyện “Đời ta”? Tôi đáp, đúng vậy. Câu kế tiếp, cô hỏi ngay, rất thẳng thắn rằng, tương lai, nếu tôi có dịp gặp lại người đàn bà trong truyện, thì tôi có ... “sex” với người đàn bà đó? Tôi bật cười, thay câu trả lời. Anh Bảo biết mà, sinh viên Mỹ họ rất tự nhiên. Muốn hỏi là hỏi. Họ chẳng thấy có gì không ổn trong tất cả những câu hỏi của họ.

NNB: Thưa anh Du Tử Lê, có lẽ anh là nhà thơ Việt Nam duy nhất có thơ được dịch sang Anh ngữ để dùng làm tài liệu giảng dậy tại một số trường đại học Âu Mỹ như Berkeley, UCLA tại Hoa Kỳ, và Cambridge tại Anh quốc. Anh có tin rằng thơ anh sẽ được dùng để giảng dậy tại trường đại học Văn Khoa ở Việt Nam trong tương lai không?

DTL: Tôi tin là có, khi Việt Nam tự đem được mình ra khỏi mặc cảm Nam / Bắc, thể chế chính trị... Để chỉ còn một thứ chung, vĩnh cửu, là Văn Học và Nghệ Thuật. NNB: Giả tỉ trong một vài năm tới, trường đại học Văn Khoa Việt Nam chọn một bài thơ của anh, chỉ một bài thôi, để giảng dậy. Thưa anh Du Tử Lê, trong trường hợp này, anh muốn họ chọn bài nào, và vì lý do nào anh chọn bài này?

DTL: Trường hợp đó, nếu xẩy ra và, giả tỷ được tự chọn thì, tôi sẽ chọn bài “Vỡ lòng cho một người con gái Mỹ.” Tôi viết bài này vào cuối năm 1969, trong thời gian theo học một khóa tu nghiệp ngắn về Báo chí, tại Hoa Kỳ. Nội dung bài đó, đại ý nói, tôi ước mơ cái ngày mà người bạn gái của tôi viếng thăm quê hương tôi - - Là ngày mà tất cả những hố bom, hố mìn trên đất nước Việt Nam, đã được san bằng, được lấp đi, cho rất nhiều hoa nở... Và, người bạn gái Mỹ của tôi, sẽ chọn quê hương tôi, làm nơi định cư vĩnh viễn của cô... Trớ trêu thay, hiện tại, tôi lại chính là người lưu vong, sống trên đất nước của cô ấy! Nên hiểu theo một nghĩa nào đó, thì tôi vẫn ước ao đất nước mình thay đổi, để chính tôi và có thể rất nhiều ruột thịt của chúng ta, tương lai, có thể trở lại sống trong quê hương của mình...

NNB: Trong số tất cả những nhà thơ của Việt Nam từ cổ đến kim, có thể nói mà không sợ nhầm lẫn rằng anh là nhà thơ có nhiều thơ được soạn thành ca khúc nhiều nhất. Theo tôi được biết thì có hàng trăm nhạc sĩ, ở cả quốc nội lẫn hải ngoại, đã phổ nhạc thơ anh. Theo anh, điều gì ở thơ anh đã khiến nhiều nhạc sĩ phải lòng như vậy? Vì ý thơ, tứ thơ, vì cảm xúc gửi gấm trong thơ, hay vì thơ anh đã gói ghém sẵn âm hưởng, tiết điệu thích hợp cho một ca khúc?

DTL: Thưa anh tôi thực sự không rõ. Chưa kể, thơ tôi

vốn trúc trắc. Tôi hay dùng những âm trắc để mở đầu cho một hay, nhiều câu thơ của mình. Tôi thí dụ một câu thơ có 7 chữ là “ở chỗ nhân gian không thể hiểu.” Trong 7 chữ này, hết 4 chữ là âm trắc. Ngay hai chữ đầu câu, đã trúc trắc, trục trặc rồi! Chưa kể dấu hỏi và, dấu ngã. Nhiều nhạc sĩ cho biết, đã nhiều hỏi, ngã mà lại còn đi liền nhau, gây khó khăn không ít cho họ. Nếu nhạc sĩ không “bản lĩnh” thì, khi ca sĩ khi hát, dù có... lẹo lưỡi, méo miệng đến đâu, nó vẫn thành chữ... khác. Một thí dụ khác nữa, như câu thơ: “hãy nói về cuộc đời...” - - Có 5 chữ thôi mà, hết 3 chữ là âm trắc. Lại mở đầu câu thơ bằng một chữ có dấu... ngã!....

NNB: Nhắc đến thơ phổ nhạc, tôi nhớ có lần họa sĩ kiêm nhà thơ Tạ Tỵ phát biểu đại khái rằng ông không chấp nhận được những bài thơ phổ nhạc vì thơ và nhạc là hai ngành riêng biệt; và như vậy, khi được phổ nhạc thì thơ đã mất đi ít nhiều tính chất thơ cũng như cảm xúc gói ghém trong thơ. Anh nghĩ sao về nhận định này?

DTL: Họa sĩ và cũng là nhà thơ Tạ Tỵ có lý, khi ông nói như vậy. Tuy nhiên, cá nhân tôi, cũng không phủ nhận, nếu giữa thơ và nhạc là một hôn phối tốt đẹp thì, âm nhạc đã chắp thêm (tôi nhấn mạnh: thêm,) cánh cho thơ bay xa hơn. Vì âm nhạc đến với người nghe bằng rung cảm trực tiếp của trái tim. Trong khi thi ca đến với người đọc bằng khối óc, kinh nghiệm và cả kiến thức, trình độ nữa.

NNB: Trong số những ca khúc soạn từ thơ anh, có lẽ

“Trên Ngọn Tình Sầu” do nhạc sĩ Từ Công Phụng soạn là ca khúc được biết đến và được yêu mến nhiều hơn cả. Hội VHKHVN chọn chủ đề “Du Tử Lê, 50 Năm Trên Ngọn Tình Sầu” một phần cũng vì lý do này. Tôi được biết tại Việt Nam, nhân thời điểm kỷ niệm nửa thế kỷ âm nhạc vào năm 1996, hội Âm Nhạc Việt Nam đã công bố những nhạc phẩm hay nhất trong 50 năm theo sự chọn lựa của quần chúng. Trong số này có “Trên Ngọn Tình Sầu”. Xin anh cho biết lai lịch bài thơ đã được Từ Công Phụng dùng để soạn nên ca khúc bất hủ này.

DTL: Thưa anh Bảo, theo tài liệu tôi có, thì, đó là năm

1993, chứ không phải 1996. Bài thơ ấy, nguyên bản, có tên là “67, khúc thêm cho Huyền Châu.” 67 tức là năm 1967. Tôi in lại bài thơ đó, trong tập thơ “Tay gõ cửa đời,” xuất bản năm 1967. Hai năm sau, một người bạn của tôi, anh Nguyễn Thiệp chơi thân với nhạc sĩ Từ Công Phụng, chỉ cho nhạc sĩ Từ Công Phụng bài thơ ấy. Theo anh Nguyễn Thiệp, thì đó là một bài thơ hay. Anh Phụng đọc. Xong, soạn thành ca khúc. Mãi về sau, tôi mới được biết “ngọn nguồn” này. Khi phổ xong, anh Phụng mang bản thảo ra café La Pagode, nơi tôi hay ngồi, hát cho tôi nghe; và đề nghị tôi chọn một cái tên khác, cho bản nhạc. Anh Phụng nói, nếu để nguyên nhan đề thì, nó có vẻ cá nhân quá, riêng biệt quá. Sẽ khó được đón nhận. Tôi đồng ý và đề nghị đổi lại là “Trên ngọn tình sầu.” Tôi đâu ngờ, khi ra đời, ca khúc này lại có được cho nó cái định mệnh tốt lành đến như thế. Tiếc một điều anh Nguyễn Thiệp, người “mối lái” cho cuộc hôn phối giữa thơ tôi và nhạc anh Phụng, đã bị bắn chết từ năm 1978, khi anh vượt ngục ở một trại tù ở miền Nam! Anh Nguyễn Thiệp có một hai người con hiện ở Mỹ. Tôi hy vọng các cháu, nghe / đọc được những gì chúng ta đang nói đây.

NNB: Thưa anh, hỏi thật anh một điều, có rất nhiều nhạc

sĩ phổ thơ anh rất hay, rất tới, như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Từ Công Phụng, Trần Duy Đức, Đăng Khánh, Hoàng Quốc Bảo, v.v. là những nhạc sĩ có các ca khúc phổ thơ Du Tử Lê sẽ được trình diễn trong chương trình “Du Tử Lê, 50 Năm Trên Ngọn Tình Sầu” ngày 18 tháng 11 sắp đến tại Houston. Tuy nhiên, thưa anh Du Tử Lê, trong số những nhạc sĩ từng phổ thơ Du Tử Lê, có vị nào đã giết chết thơ anh một cách “thô bạo” không?

DTL: Cũng có khá nhiều người, thưa anh Bảo. Tuy nhiên, ngay cả trường hợp ấy, tôi cũng vui, vì họ đã tìm tới với thơ của tôi.

NNB: Có nhiều bạn trẻ đang làm thơ và mong mỏi sau

này sẽ trở thành một nhà thơ lớn, lớn như Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, Đỗ Quý Toàn, những nhà thơ còn tại thế hôm nay. Bằng vào kinh nghiệm 50 năm làm thơ, anh có lời khuyên nào dành cho những bạn trẻ này không?

DTL: Tôi rất ngại ngần trước những câu hỏi như thế này.

Nhưng, thưa anh, nếu buộc phải nói, thì tôi xin thưa rằng: Chúng ta đều có thể đốt giai đoạn ở rất nhiều lãnh vực. Từ học hành, làm giầu cho tới chức tước, địa vị xã hội... Riêng lãnh vực văn học, nghệ thuật (trừ một vài trường hợp ngoại lệ, như Beethoven...) thì không. Là những người bình thường, chúng ta không thể đốt giai đoạn. Đừng nhảy cóc, đừng “skip” bằng những thủ đoạn như lớn lối chê bai, chửi rủa, xỏ xiên, xổ toẹt... những người đã thành danh, đã định hình. Bạn sẽ ân hận, nếu đánh giá thấp đám đông thầm lặng. Văn học, nghệ thuật cũng đòi hỏi sự lao tác cật lực nơi các tác giả, như những người làm công việc khác...

NNB: Thưa anh DTL, anh có đọc chuyện kiếm hiệp của

Kim Dung không? DTL: Vâng. Có. Rất mê.

NNB: Có lẽ anh còn nhớ đoạn Trương Tam Phong truyền

Thái Cực Kiếm cho Trương Vô Kỵ. Khi theo dõi Trương Tam Phong biểu diễn lần đầu, Vô Kỵ nhớ phân nửa. Đến khi sư tổ biểu diễn lần thứ hai, Vô Kỵ quên cả. Nhưng đó chính là mấu chốt để lãnh hội kiếm pháp cao minh này. Phải chăng người mới làm thơ cũng nên bắt chước Trương Vô Kỵ học Thái Cực Kiếm, thưa anh Du Tử Lê?

DTL: Ồ, anh Bảo. Thí dụ anh đưa ra, quá hay!

NNB: Thưa anh Du Tử Lê, trong nửa thế kỷ làm thơ và

làm người, chắc chắn anh đã học được những bài học giá trị, cho đời mình và cho cả đời người. Trong những bài học này, đâu là bài học lớn nhất, có giá trị nhất mà anh cảm nghiệm được?

DTL: Thưa anh Bảo, sau nhiều năm, và nhất là bước

vào tuổi già, tôi nghiệm thấy, bài học một tôi cho là lớn nhất của đời tôi là: Kiên nhẫn, tự tin và, tử tế với tất cả mọi người.

NNB: Tôi được biết là khoảng một năm về trước, anh bị vướng phải một căn bệnh khá hiểm nghèo. Anh có thể kể cho biết đó là căn bệnh gì không?

DTL: Tôi bị ung thư ruột già.

NNB: Anh có cảm tưởng gì ngay sau khi biết mình bị căn

bệnh này?

DTL: Tôi bình thản. Gần như không chút xúc động. Chỉ bởi vì, tôi hằng tự nhủ, tôi được sống đến ngày hôm nay, là đã quá phước đức, quá may mắn rồi; nếu so với các bạn cùng trang lứa, cùng giai đoạn. Nhưng nhà tôi thì gần như muốn ngất xỉu, tại chỗ!

NNB: Từ ngày biết tin mình bị bệnh đến hôm nay, anh có tiếp tục sáng tác nữa không?

DTL: Tôi vẫn, thưa anh, dù không nhiều. Tôi cho đó là

cách duy nhất để cụ thể hóa sự biết ơn người, biết ơn đời của tôi.

NNB: Và vẫn tiếp tục làm thơ Thiền tính như trong vài

năm gần đây? DTL: Vâng. Với cá nhân tôi, hai tập thơ thiền tính, trong quá khứ, mỏng thôi, nhưng rất đáng kể. Hiện tại, nếu có dịp, tôi sẽ đọc anh Bảo nghe, một vài bài thơ ngắn, tôi viết sau khi biết mình trở lại đời sống, từ cõi chết. Anh sẽ thấy tôi không còn dùng bất cứ một ngôn từ nào liên quan gần xa tới...Thiền... Nhưng...

NNB: Xin anh cho biết những dự định của anh trong tương lai?

DTL: Tôi không có một dự tính nào rõ rệt. Ngoài, ao ước; phải chi, mỗi năm lại có một lần... “50 Năm Trên Ngọn Tình Sầu!”

NNB: Lúc nẫy, anh cho biết nếu được quyền chọn một bài

thơ Du Tử Lê để đặt vào chương trình giảng dậy trong tương lai của đại học Văn Khoa Việt Nam thì anh sẽ chọn bài “Vỡ lòng cho một người con gái Mỹ.” Đây là một bài thơ nói lên lòng yêu quê hương ở anh. Tuy nhiên, là một người “vắt kiệt đời mình để làm thơ tình,” khi phải chọn một bài thơ Tình tiêu biểu cho sự nghiệp 50 năm thi ca, anh sẽ chọn bài nào? Xin anh viết bài thơ ấy ra đây như một món quà tặng những độc giả yêu mến dòng thơ Tình Du Tử Lê trong bao năm qua.

DTL: Trường hợp đó, tôi xin được chọn bài thơ tôi viết từ

năm 1967, nhan đề “67, Khúc thêm cho Huyền Châu” tức “Trên ngọn tình sầu” theo ca khúc. Bài thơ đó, nguyên văn như thế này:

67, KHÚC THÊM CHO HUYỀN CHÂU,

(Trên ngọn tình sầu.)

hạnh phúc tôi từ những ngày nước lớn

trời mưa mau tay vuốt mặt khôn cùng

bày sẻ cũ hom hem chiều ngói xám

trời xanh xao chân nhỏ cũng không về.

cây mộng nở từng ngón tay lá nõn

nôi tương tư cỏ ấm thịt da người.

tôi hắt hiu từ mắt em ngát tạnh

môi thâm khô từ thuở định xin hôn

ngày tháng hạ khi không mà trở rét

em khi không mà trở mặt điêu ngoa.

tay trông ngón hương đưa mùi tóc mạ

ngọn me xa theo ký ức rì rào.

chiều qua đó chân ai còn ríu rít

lời ai say cho trời đất lại gần.

kỷ niệm tôi từ những ngày vỡ tiếng

nhẩn nha gom từng cọng thiết tha rơi

con dế nhỏ lớn lên đầm tiếng hát

khi đêm về ru giọng đớn đau hơn.

cây niên thiếu cũng thui mầm trong sáng

lá oan khiên lả tả mái hiên người.

tôi èo uột từ những ngày cả gió

con dế buồn tự tử giữa đêm sương.

bày sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ,

ngọn me xưa già khọm nhớ thương hờ.

em ở đó, bờ sông còn ấm cát

con sóng tình vỗ mãi một âm quên.

1967

(Trích: Tay Gõ Cửa Đời. Xb. năm 1967.)

NNB: Và câu hỏi cuối cùng, anh có cảm tưởng gì khi

hội VHKHVN tổ chức trọng thể chương trình vinh danh anh ngày 18 tháng 11 sắp đến, thưa anh Du Tử Lê?

DTL: Tôi không có chữ, cũng không biết phải nói sao,

để phản ảnh được, dù chỉ một phần những cảm nhận sâu, lớn trong tôi. Đây là một trong nhiều trường hợp, tôi thấy rõ sự bất lực của ngôn ngữ! Có lẽ anh Bảo cho phép tôi được lập lại cái ý tôi đã phát biểu lúc nẫy, đó là: Điều mà tôi cho là hạnh phúc nhất, rực rỡ nhất đời tôi, không phải là khi tôi nhận được giải thưởng văn chương toàn quốc, bộ môn thơ, dù khi đó, tôi còn rất trẻ. Mà, chính là những gì tôi sẽ nhận được từ Hội VHKHVN, từ các thân hữu, bạn đọc thuộc nhiều thế hệ dành cho tôi, vào buổi chiều ngày 18 tháng 11 tới đây, tại Stafford Performing Arts Centre.

LỜI CUỐI CỦA NNB: Thưa anh Du Tử Lê, trong câu chuyện hôm nay, anh đã nhắc đến “Vỡ lòng cho một người con gái Mỹ,” bài thơ được viết năm 1969 với những lời mời gọi người con gái tên Donna đến với quê hương ta sau khi chiến tranh chấm dứt. Tôi xin được chép một đoạn trong bài thơ ấy ra đây, để gửi tặng những người bạn trẻ hội VHKHVN, mà trong đó, có rất nhiều người được sinh ra trên xứ sở này, xem nơi này là quê hương, và suy nghĩ, hành xử như cô Donna của anh ở 38 năm về trước. Những người trẻ của hội VHKHVN ấy, họ đang nỗ lực làm việc để buổi vinh danh anh ngày 18 tháng 11 sắp đến đạt được kết quả tốt đẹp.

………………………

anh hy vọng ngày đó

những hố bom hố mìn

đã được lấp bằng

cho rất nhiều hoa nở

em sẽ thấy xứ sở anh có phần còn đẹp hơn nước Mỹ

để em sẽ nhận ra

không ở đâu có thể có được

một giống dân hiền lành nhưng quả cảm

một giống dân cần cù nhẫn nại

và dễ mến như dân tộc anh

và biết chừng đâu khi ấy

em sẽ chẳng chọn quê hương anh

như một tổ quốc thứ hai

khởi đầu cho một cuộc định cư vĩnh viễn

…………………………..

Chắc anh cũng đồng ý, những hố bom hố mìn, ở một ý

nghĩa khác, vẫn còn đầy dẫy trên quê hương ta hôm nay. Mong rằng chúng sẽ sớm được lấp bằng “cho rất nhiều hoa nở”.

Riêng anh, tôi chúc anh sẽ vượt qua được căn bệnh hiểm

nghèo. Tôi tin rằng thơ; phải, chính thơ, sẽ góp phần chữa anh lành bệnh, như đã vực anh ra khỏi bao bi lụy của cuộc đời, trong suốt 50 năm qua. Và mong rằng, mai này, anh sẽ có cơ hội trở về quê hương. Đến lúc anh giã từ cõi thơ, giã từ cuộc đời, sẽ không ai phải “mang anh ra biển,” như những lời trong một bài thơ nổi tiếng của anh. Đến lúc ấy, anh sẽ được ngủ giấc an bình trong lòng đất mẹ (mảnh đất đang có rất nhiều hoa nở).

Xin cám ơn anh đã dành cho hội VHKHVN cuộc mạn đàm lý thú này. Nguyễn Ngọc Bảo

10/2007



NGUYỄN VĂN TUẤN,

HÃY HỎI CHÚA ĐI, RỒI EM SẼ HAY.

(Nghe K. khúc của Lê 2)

LNĐ: Dưới đây là bài viết thứ hai của Tiến sĩ, Giáo sư y khoa Nguyễn Văn Tuấn, hiện giảng dạy tại một Đại học Y khoa, ở thành phố Sydney, Australia (đăng tải trên tuần báo saigòn Times, Sydney, số tháng 5-2001.) Trước đó, khi giảng dạy tại một đại học Y khoa ở Ohio, ông cũng đã có bài viết về CD “K. Khúc của Lê 1,” trên bán nguyệt san Ngày Nay, Houston, Texas, số đề ngày 1-1-2000, gây nhiều tiếng vang đáng kể - - Có dễ, vì qua dòng nhạc của các nhạc sĩ, ông còn ghi nhận nhiều bất ngờ khác, về thơ

Du Tử Lê.

Và, bài viết này, cũng vậy. N ói đến Du Tử Lê, người ta nghĩ ngay đến một nhà thơ đã tận tụy với chữ nghĩa Việt hơn bốn mươi năm, không những ở trong nước mà còn kéo dài ra hải ngoại. Thơ của Lê không những đã xuất hiện trên những tờ báo lớn của Mỹ (và thế giới) như Los Angeles Times và New York Times, mà còn được tuyển chọn in trong tuyển tập Thơ thế giới từ xưa đến nay (World Poetry / An Anthology of Verse from Antiquity to Our Time) bên cạnh những nhà thơ lừng danh như Arthur Rimbaud, Paul Verlaine, Octavio Paz, E. E. Cummings, Boris Pasternak, Thế Lữ và Tú Mỡ, v.v.. Thơ của Du Tử Lê còn được tuyển chọn để dạy học trong một số trường đại học ở Mỹ. Vì thế, có thể nói rằng Du Tử Lê đã có công đưa thi ca Việt Nam vào trường quốc tế. Người thưởng thức nghệ thuật chắc sẽ không ngạc nhiên nếu nhà thơ ra mắt những thi phẩm, nhưng chắc họ sẽ tò mò tìm hiểu nếu một nhà thơ lại phát hành CD ca nhạc. Nhưng Du Tử Lê là một nhà thơ tương đối … ngoại lệ, vì trong các nhà thơ Việt Nam, chưa ai có nhiều thơ được phổ thành nhạc như thơ của Lê. Thật vậy, chỉ tính từ thập niên 60 cho đến nay, có hơn 200 bài thơ của Lê đã được chuyển thành ca khúc. Đó là một con số không nhỏ, nếu so với nhiều nhạc sĩ mà suốt đời số lượng sáng tác chỉ nằm ở con số dưới 100. Có thể nói không ngoa là ngoài thơ, Du Tử Lê cũng có phần đóng góp đáng nể trong vườn âm nhạc Việt.

Người yêu nhạc Việt có thể chưa bao thuộc lòng một bài

thơ của Du Tử Lê, hay thậm chí chưa biết tên của tác giả, nhưng họ chắc chắn không xa lạ gì với những bài nhạc quen thuộc như Ơn em, Trên Ngọn Tình Sầu (Từ Công Phụng), Khúc Thụy Du (Anh Bằng), hay Đêm, nhớ trăng Sài Gòn (Phạm Đình Chương), những ca khúc được phổ từ thơ của Du Tử Lê! Nhưng đó là những ca khúc của vài mươi năm trước đây. Gần đây số lượng nhạc sĩ tìm cảm hứng và từ đó phổ thơ [của Lê] thành nhạc càng ngày càng nhiều, và dòng nhạc của họ có ít nhiều khác với những người đi trước. Do đó nhu cầu cho ra mắt một tập hợp những bài hát mới tưởng cũng có ý nghĩa.

Có lẽ xuất phát từ ý nghĩ đó, khoảng một hai năm trước đây, Du Tử Lê đã tuyển chọn một số bài nhạc phổ từ thơ của thi sĩ và đút kết thành CD K. khúc của Lê và video Giữ đời cho nhau (TT Diễm Xưa thực hiện và, phát hành.) Hai tác phẩm đã được giới thưởng ngoạn đón nhận nồng nhiệt. Riêng CD K. khúc của Lê đã được tái bản đến lần thứ ba! Đầu năm nay (2001), Du Tử Lê vừa tuyển chọn thêm một số bài hát và kết cấu thành CD thứ hai mang tên “rất Du Tử Lê”: K. khúc của Lê 2. (Du Tử Lê khêu gợi [hay khiêu khích] người đọc một cách sáng tạo bằng cách viết “k. khúc” thay vì “ca khúc”.) K. khúc của Lê 2 gồm 10 ca khúc do một số nhạc sĩ phổ từ thơ của Du Tử Lê: Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau (Phạm Duy), Cõi mẹ về (Lê Văn Thành), Viện cớ (Nguyễn Linh Quang), Hiến chương yêu (Nguyên Bích), Còn mong người về (Đỗ Vyhạ), Hạnh phúc buồn (Hoàng Thanh Tâm), Lệ buồn nhớ mi (Đăng Khánh), Dòng suối trăm năm (Trần Duy Đức), Xin rửa tội tôi (Nguyên Bích), và Ta tiếc thiên đàng sớm lập xong (Phạm Gia Cổn). Các ca sĩ góp mặt trong CD này gồm Lệ Thu, Thanh Hà, Anh Dũng, Tuấn Ngọc, Anh Khoa, Trần Thái Hòa, Quốc Việt, Đinh Ngọc, và Đăng Siêu. Phần lớn các bài hát do Duy Cường viết hòa âm, và phần còn lại do ba nhạc sĩ Vũ Anh Tuấn, Lê Hoài Anh, và Gia Bảo hòa âm. Người nghe sẽ cảm thấy ngạc nhiên một cách thích thú khi CD được bắt đầu với bài Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau, không phải qua lối diễn tả của Anh Dũng, mà qua lối hòa âm mang âm hưởng nhạc của người thiểu số thuộc Tây nguyên Việt Nam. Nếu tôi nhớ không lầm, đây cũng là điệu hòa âm mà Duy Cường đã viết cho ca khúc Còn Chút Gì Để Nhớ (Phạm Duy) vài năm trước đây.

Cũng như trong K. khúc của Lê, trong CD này, Du Tử Lê

soạn và đọc lời giới thiệu trước mỗi bài hát. Nhưng Du Tử Lê không phải là người đi theo đường mòn hay chỉ lặp lại như lần trước, trong CD này, kèm theo mỗi lời giới thiệu là một đoạn nhạc ngắn làm nhạc nền (background music). Giọng đọc mang âm hưởng “Bắc kỳ” của nhà thơ rất rõ và chậm rãi, nhưng cũng có lúc sang sảng làm cho người nghe có cảm giác như nhà thơ đang khắc khoải một điều gì ở nội tâm. Có thể nói mỗi lời giới thiệu là một tùy bút ngắn của Nhà thơ về thế thái nhân tình có ít nhiều dính dáng đến bài hát để nói chuyện (hay tâm sự) với người nghe. Đối tượng của những bài tùy bút này không hẳn là người nghe, nhưng là một hình nhân mà nhà thơ gọi là “Yêu dấu”. Yêu dấu có thể là một người yêu, người bạn, người nghe, hay thậm chí chính tác giả. Cách dùng này cho nhà thơ bớt cô đơn (vì có một người để trò chuyện), và qua yêu dấu, nhà thơ có thể phân tích và khai thác chính mình. Hãy nghe Du Tử Lê tâm sự: “Yêu dấu rất xa của tôi! Dù lạc quan, ngây ngô cách mấy, tôi cũng không thể tự đánh lừa mình rằng chúng ta chưa hề xa nhau; một khi, mỗi ngày, kỷ niệm vẫn thôi thúc tôi quay lui, tìm kiếm, trở lại chỗ ngồi ta đã có; ngôi nhà ta đã ở; con đường ta đã đi, bãi cỏ trần gian, ta đã thở. Yêu dấu, tôi hiểu, chỉ những kẻ bất hạnh, chỉ những đời tang thương, mới phải ăn xin sự bố thí tình thương hão huyền từ kỷ niệm. Và, bất hạnh hơn nữa, cho tôi, khi kỷ niệm tôi có lại là kỷ niệm trăm tay. Khi hão huyền tôi có, lại là hão huyền nghìn mắt... Kỷ niệm trăm tay, hão huyền nghìn mắt, từng ngày, thôi thúc tôi tìm lại bóng hình, tìm lại tình tôi, như tìm lại khát khao, tìm lại dung nhan chính nó.”

Đó là một cách nói, cách tâm sự độc đáo của Du Tử Lê.

Người viết bài này không phải là một nhạc sĩ, cũng chẳng phải là nhà phê bình nhạc hay thơ văn, mà chỉ là một thính giả, một người – hãy cứ cho là – thích nhạc và văn thơ. Và, theo cảm nhận của tôi, ngoài hai bài Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau của Phạm Duy và Lệ buồn nhớ mi của Đăng Khánh có những giai điệu tương đối phức tạp, tiết tấu của các bài còn lại khá đơn giản, không thay đổi nhiều. Nhưng tất cả mười bài hát trong CD này có cùng một mẫu số chung: giai điệu chậm. Hình như thơ của Du Tử Lê chỉ được phổ thành nhạc bằng những giai điệu chậm rãi như Boston và Slow. Đó là những giai điệu mà tôi cho là thích hợp với thơ của Du Tử Lê, vì trong đó thi sĩ thường diễn tả cái nỗi buồn cố hữu của người Việt Nam, nỗi buồn man mát mà người ta thường thấy trong thơ của Huy Cận.

Vài mươi năm trước đây, Du Tử Lê đã tuyên bố: Cõi tôi, cõi nát, cõi tàn / Cõi hoang mang, vội, cõi bàng hoàng, qua / Cõi vui thân thế cỗi già / Cõi lang thang mượn mái nhà hư không / Cõi xa, cõi lạnh, cõi cùng / Cõi con, muốn bỏ, cõi chồng, vợ, xa. Và, trong K. khúc của Lê 2, thi sĩ nói thêm: Tôi buồn như phiến lá trên cây / Tôi buồn như phố cũ mưa bay. Hay Buồn vui theo chiếc kẹo ở tay người, và Bầy chim thương tích, buồn khăn áo người. Có thể nói, do đó, K. Khúc của Lê 2 là những ca khúc buồn.

Mười ca khúc trong cuốn CD mới này là những bài hát trữ tình. Nhưng cái trữ tình của Lê không phải là những thứ tình ái sướt mướt, vụn vặt, xảy ra vào những mùa thu lá vàng rơi lã chã, hay trong một đêm mưa gió bão bùng, hay thứ tình cảm “cải lương” mà người ta thấy đầy rẫy trong tân nhạc Việt Nam hàng mấy chục năm nay. Người thưởng thức sẽ nghe cái mà nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc gọi là “trữ tình thế sự”:

Tim viện cớ đời cho toàn mặt nạ

Nên trái sầu chín mọng lúc đương xanh

Tình lửa ngọn, nghìn sau thôi cháy đỏ

Củi than nay chỉ đợi phút tro tàn

(Viện cớ)

hay

Ai biết trần gian có thuở nào

Núi sông ai đựng giữa chiêm bao

Dung nhan ai lạnh trong chiều ấm

Ta thấy ta trong lối tuyệt. Mù.

(Ta tiếc thiên đàng sớm lập xong)

hay về những khắc khoải của nội tâm trước tổ quốc còn lầm than; thi sĩ muốn chẻ sông núi làm đôi để thấy nỗi bất hạnh của quê hương:

 Chẻ đôi sông núi: đêm bưng mặt

Mưa quấn khăn vào sâu ấu thơ

chẻ đôi thân thế: mù tăm tích

ta nghĩa trang nào? - chôn, cất nhau?

(Dòng suối trăm năm).

Nhưng hình như trong bài thơ nào của Lê cũng đều có thấp thoáng một bóng dáng của người phụ nữ, có thể là người tình đã từng đem lại hạnh phúc cho thi sĩ, và thi sĩ cũng không tiếc lời thần thánh hóa thành “Thánh nữ” (Trong tay thánh nữ có đời tôi), hay thành Bồ tát (Này em Bồ tát đi trong gió / Hôn em Bồ tát chuông kinh hãi), hay sẵn sàng cám ơn tất cả họ, chẳng hạn như:

Ơn em thơ dại từ trời

Theo ta xuống biển, với đời ta trôi

Theo ta lên núi về miền yêu thương

(Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau)

hay:

Em có buồn riêng đôi sớm mai

Con đường có những đoạn chia phôi

Ngọn cây có những trời giông bão

Ta có nghìn năm đợi một người

(Ta tiếc thiên đàng sớm lập xong)

Người phụ nữ trong K. khúc của Lê 2 còn là hình ảnh của mẹ của thi sĩ. Với thi sĩ, mẹ là tập hợp những ký ức buồn thời ấu thơ, niên thiếu, và là cội nguồn của sáng tác cho tác giả. Hãy nghe Du Tử Lê viết về người mẹ trong bài Cõi mẹ về mà nhạc sĩ Lê Văn Thành đã trích đoạn hai của bài thơ làm thành một bài nhạc:

Em đâu biết tôi có những giấc mơ

Thấy rõ mẹ về

Đắp lại tôi, tấm chăn

Vuốt lại tôi, mái tóc

Đã bao năm mất hút sau lưng

Mà mẹ tôi vẫn không thể tin rằng

mái tóc xanh của con bà đã bạc

Những đường kẻ dọc ngang vầng trán tối

Đôi mắt nay đã mờ

Đôi mắt giờ đã xụp, lở nắng, mưa

Mẹ tôi hỏi sao tóc con lại trắng

Những sợi gân nào lấp ló dưới da nhăn?

Tôi hỏi mẹ lúc rày người có khoẻ

Mẹ tôi cười

Quết trầu đỏ

Đôi lằn môi cắn chỉ

Bà vẫn buồn như thuở bố đi luôn

(Cõi mẹ về)

Những năm ở hải ngoại, ngoài cái chết của bà mẹ, theo tâm sự của Du Tử Lê, thi sĩ còn trải qua một thời kỳ căng thẳng tâm lý do đổ vỡ gia đình và tình cảm. Để chống trả lại với những căng thẳng đó, Du Tử Lê đã tìm đến tôn giáo, và điều này giải thích tại sao trong thơ của Lê trong thập niên 90 thường thấm đẫm hình ảnh của Chúa, của Phật:

Hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay

Tôi buồn như phố cũ mưa bay

Hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay

Tôi về thương nỗi nhớ trên tay

(Hạnh phúc buồn)

Trong các nhà thơ có tiếng ở hải ngoại, Du Tử Lê không thuộc loại nhà thơ viết những bài thơ thuận nhĩ, hay những bài văn vần dễ thuộc lòng. Lê không muốn làm nô lệ trong trí nhớ của người khác, hay làm kẻ tù cho chữ nghĩa của chính mình. Thực vậy, thơ của Du Tử Lê thường là những bài mà trong đó những câu chữ bị ngắt giữa chừng bằng dấu phẩy, dấu chấm, dấu hỏi, thậm chí dấu gạch chéo “/” trong bàn phím máy điện toán:

Chim soải cánh rớt tiếng về Nam hải

Núi phân thân. Từng ngọn. Đứng. Im lìm.

(Viện cớ, phổ từ bài thơ: Chim soải cánh rớt tiếng về Nam

hải)

hay

Dung nhan ai lạnh trong chiều ấm?

Ta thấy ta trong lối tuyệt. Mù.

(Ta tiếc thiên đàng sớm lập xong)

Kỹ thuật ngắt câu/chữ này của Du Tử Lê từng bị chỉ trích nhiều, nhưng theo tôi, những câu thơ ngắt của Lê mang lại cho người đọc một cảm giác đột ngột, hụt hẫng, nhức nhối, và đau thắt. Chẳng hạn cách dùng dấu chấm trong câu “Núi phân thân. Từng ngọn. Đứng. Im lìm.” có tác dụng kịch tính- hóa câu thơ, làm cho nó đi ngược lại với tự nhiên, thắt lại cái đà êm ả bằng một cái “thắng” đột ngột. Nhưng hai chữ cuối cùng (im lìm) đều là hai chữ mang phụ âm vang và nguyên âm bổng, và vì thế nó để lại trong người nghe một tiếng ngân vang. Theo tôi, bài hát này (Viện cớ) được nhạc sĩ Nguyễn Linh Quang soạn rất thành công, vì nó để lại một lắng đọng trong người nghe.

Cách thức ngắt câu dựa vào âm điệu của tiếng Việt còn là một biểu hiện cho nỗ lực cách tân thơ ca của Du Tử Lê. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc cũng thừa nhận công lao của Lê: “Đóng góp của ông, về phương diện này (lục bát) không thể không công nhận.” Dù thi sĩ sáng tạo thời nào cũng có một phương cách riêng để làm mới thơ, nhưng ở Du Tử Lê, ý thức cách mạng này tỏ ra triệt để trong mọi lúc, ở mọi nơi. Không những ngắt câu, mà ngay cả cách in ấn chữ thấp, chữ cao, chữ đậm, chữ thường, cũng nhằm đem lại cho người đọc những bất ngờ thú vị. Có thể mượn câu nói của Chế Lan Viên để nói về Du Tử Lê, “vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước”.

Ngoài những cái ngắt quãng, thơ của Du Tử Lê cũng ... khác thường. “Khác thường” là vì trong thơ của Lê, người ta thấy những bài mà từ ngữ cứ lơ lửng và chập chờn giữa cái thế giới phấn son - gọt đẽo của thơ và cái thế giới tự nhiên của văn xuôi. Điều tôi thích ở Du Tử Lê là thơ của ông không réo rắt bằng sáo ngữ mà người đọc phải rùng rợn da gà, hay gượng ép theo kiểu “cải lương” như người ta thấy nhan nhản trong các nhà thơ ngày nay, mà là những bài thơ gần gũi, thanh thoát. Du Tử Lê viết một cách hồn nhiên, và nếu mới đọc qua người đọc có cảm giác như là một câu trò chuyện hàng ngày: 

“Hà Đông / Nơi mẹ tôi sinh ra, và lớn lên / Rồi theo chồng đi miết.” Có thể nói rằng những bài thơ của Du Tử Lê, dù là thơ lục bát, với những cách ngắt nhịp mới lạ, là những bài nửa văn xuôi, nửa văn vần. Không những bị ngắt quãng một cách cố ý (dĩ nhiên), mà ý tưởng trong thơ của Du Tử Lê cũng thường ngổn ngang, có khi rất khó hiểu (như Nhớ em. Hạt bụi. Đời hư vô. Còn tương tư”), thậm chí đối với một vài người, vô nghĩa:

Chẻ đôi tâm thất: kênh, mương cạn

Hương tóc truy tầm vai thất tung

Tưởng ai oán khuất vừa quay gót

Xương, thịt, đời sau, máu rất buồn

Chẻ đôi con gió: cây ly, biệt

Tim chấn thương cùng môi tháng, năm

Phạt ngang ký ức, rừng thao thiết

Dòng suối trăm năm bỗng mất nguồn

(Dòng suối trăm năm).

Nếu hiểu thơ là cái gì chưa từng được nói, hoặc được nghe (theo Octavio Paz), thì những vần thơ trên đây quả là “thơ”. Trong một bài viết trước, tôi có trích lại một bài thơ trước đây của nhà thơ (Một vừng trăng đã khuyết) cũng mang những ý tưởng lạ lùng ấy: Tôi bổ dọc đầu tôi / thấy một người tháo chạy / thao thiết hạt mưa rơi / đầu nguồn, ai đứng khóc. Những vần thơ có tính thoát ly thực tại để đi đến cõi siêu hình. Trong “Du Tử Lê: Tôi, ấu thơ và, mẹ”, tác giả giải thích:

“Tôi muốn nhân cách hóa “đêm” như một lữ hành luống

tuổi, ‘quấn khăn,’ đi ngược lộ trình quá khứ, tìm, kiếm lại

tuổi thơ mình. Tôi nói, xa hơn, trong thơ, ngoài nhân cách

hóa, người ta còn có thể cụ thể hóa, sinh động hóa … như tôi

cụ thể hóa ‘sông, núi,’ tức nước non, tức quê hương, tức tổ

quốc mình, như một vật có thể sờ mó, mang vác… Và tôi ‘chẻ

đôi’ nó. Để làm gì? Để thấy đất nước mình bất hạnh. Để

thấy tổ quốc ta, còn lầm than, đồng bào ta, còn tuyệt vọng …

Như sự lầm than, tuyệt vọng của con kênh, con lạch khô cạn

nước vậy…” (trang 126).

Tại sao những bài thơ với ý tưởng khó hiểu, nửa văn xuôi, nửa văn vần ấy lại hấp dẫn các nhạc sĩ và người yêu nhạc? Tất nhiên, kỹ năng và khả năng của người nhạc sĩ chuyển hóa từ thơ sang nhạc đóng một vai trò quan trọng để làm thành một bản nhạc hay, đem đến cho người nghe một ấn tượng đẹp. Nhưng một đặc điểm chung của những bài thơ-ca của Lê là chúng được phổ thành nhạc một cách trung thực. Thật vậy, ngoại trừ Nhạc sĩ Phạm Duy, người thường láy lót lời thơ theo dân ca một cách tài tình, các nhạc sĩ khác hầu như dùng nguyên si lời thơ. Vậy mà kết quả vẫn là những bài nhạc dễ gây ấn tượng trong người nghe. Thành ra, ngoài cấu trúc nhạc ra, tôi nghĩ còn có vài lý do khác liên quan đến sự phân phối từ ngữ trong thơ và sự đồng cảm giữa người nghe và thơ của Lê.

Về từ ngữ, hãy lấy bài Dòng suối trăm năm, một bài tôi rất

ưng ý, ra làm ví dụ. Thoạt đầu, đọc bài thơ trước khi nghe Trần Duy Đức phổ thành nhạc, lời đã khó hiểu, tôi lại chẳng thấy cái “chất nhạc” ở đâu! Nhưng đọc đi đọc lại, tôi cảm thấy cách sắp xếp từ ngữ tưởng như là “gồ ghề” ấy của Lê rất ý nhị. Đọc kỹ bốn đoạn thơ chính trong bài (Chẻ đôi sông núi: đêm bưng mặt / Đêm quấn khăn vào sâu ấu thơ / chẻ đôi thân thế: mù tăm tích / Ta nghĩa trang nào? - chôn, cất nhau) theo thanh bằng (b) và trắc (t):

t b b t / b b t

b t b b / b t b

và lặp lại:

t b b t / b b t

b t b b / b t b

Người ta sẽ thấy sự phân phối âm thanh không phải ngẫu nhiên, mà rất có hệ thống, và cách ngắt câu câu trước (b b t) và câu sau (b t b) tạo nên một dãy âm thanh trầm bổng liên tục. Câu thứ hai được kết thúc bằng thanh bằng như để lại âm vang ngân nga, hứa hẹn với người nghe một dãy âm thanh mới. Tính chung bài hát, chỉ 72 chữ mà có đến 42 (hay 58%) chữ là thanh bằng, nhưng chúng được thay đổi một cách tuần tự, làm cho một đoạn nhạc khá êm dịu. Nhưng không yên tĩnh. Chẳng hạn như trong câu Chẻ đôi sông núi, Chẻ đôi tâm thất, và Chẻ đôi con gió, khoảng cách thanh điệu giữa sông và núi, giữa con và gió, và giữa tâm và thất (tất cả đều cách nhau bằng thanh bằng và trắc) tương đối cao, làm cho người nghe vừa tĩnh lại phải động, không được ngừng nghỉ, phải đón chờ một cái gì bất trắc ... Có lẽ vì thế mà bài thơ có một sức lôi cuốn rất cao khi được chuyển thành một ca khúc. Tôi nghĩ rằng bài thơ này đã được Trần Duy Đức nhạc hóa cực kỳ thành công.

Nhưng trong ca khúc Hạnh phúc buồn (mà Hoàng Thanh

Tâm phổ thành nhạc một cách trung thực, hầu như không thay đổi một lời thơ nào), người thưởng thức sẽ nghe càng nhiều thanh bằng (62%) hơn thanh trắc (38%), và cách sắp xếp thanh âm cũng rất hệ thống. Hai đoạn đầu của bài hát là

những câu thơ 7 chữ:

Hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay

Tôi buồn như phố cũ mưa bay

Bàn chân từng ngón ngưng không thở

Lạc mất đường đi tạnh dấu bày

Hỏi nắng đi rồi em sẽ hay

Tôi gầy như phiến lá trên cây

Gió khuya thổi rớt ngàn tâm sự

Thiên đường tôi đây là người hay ai

Mà trong đó, mỗi đoạn, hai câu đầu tuân theo “luật” phân phối 4b + 3t, 5b + 2t; nhưng đến câu 3 và 4 thì số lượng thanh bằng cao hẳn lên, nhất là đoạn 2, câu 4 chỉ toàn thanh bằng. Có lẽ đây là một sự cố ý để cho đoạn nhạc có tính tạm ngừng, trước khi vào đoạn điệp khúc. Thực vậy, đến đoạn điệp khúc, tác giả bắt đầu dùng nhiều chữ có thanh trắc hơn, tiết tấu cũng cao hơn và dồn dập hơn hai đoạn đầu, và câu thơ cũng chuyển từ 7 thành 8 chữ:

Sông chẳng thể không trôi về biển lớn

Người bên bờ buông tóc thả cho mây

Nên suốt kiếp tôi vẫn là đứa trẻ

Buồn, vui theo chiếc kẹo ở tay người

Trong bốn câu với 32 chữ này, có đến 15 chữ (hay 47%) là

thanh trắc (so với 32% trong hai đoạn đầu)! Đến đoạn cuối (Hỏi gió đi rồi em sẽ hay / Tôi chờ em đến thắp đêm vui / Có đêm nhìn xuống bàn tay lạnh / Và chỗ em ngồi đã bỏ không), thanh âm lại quay về luật phân phối của hai đoạn đầu, làm cho người nghe có cảm giác ngừng nghỉ. Nhưng cả hai chữ cuối cùng (lạnh và không) đều là phụ âm vang, làm cho câu hát có tính ngân nga. Vì lời nhạc và lời thơ không khác nhau, cộng với giai điệu đơn giản, và lời thơ hết sức tha thiết, khẩn cầu, người ca sĩ (Quốc Việt) hát bài này trở thành người đọc (không phải ngâm) thơ, một cách đọc thơ độc đáo!

Trong thơ của Du Tử Lê, người đọc thường thấy những cái “tôi”. Cái tôi không quá thân mật, hay tình tứ như cái “anh”, mà cũng không quá khí phách như cái “ta”. Chỉ chân thật, và vừa phải. Trong thơ của Lê những cái “ôi”, “a”, “ơi”, “hỡi”, “ơ hờ” [đã tràn ngập thơ Việt Nam cả thế kỷ qua] hầu như vắng bóng. Tôi cho rằng đây cũng là một đặc điểm làm cho thơ của Du Tử Lê hấp dẫn và hợp thời với thanh niên thuộc hậu thế kỷ 20. Một phần cũng vì ít dùng, hay thậm chí không dùng, sáo ngữ, nên Du Tử Lê là thi sĩ của những cái bình thường xảy ra hàng ngay, và nói những lời nói của những con người bình thường đích thực. Một lần ghé quán cà phê, một lần chờ tàu ở sân bay, một chuyến đi chơi cùng bạn bè … cũng được Lê thi vị hóa thành những bài thơ ngắn, và có khi rất đẹp. Không những Lê nói những điều bình thường, mà cách nói cũng cực kỳ bình dị. Thực vậy, trong thơ của Lê, người ta sẽ không tìm được những gót lãng du, phong trần, em gái hậu phương, phận lạc loài, v.v. mà là những lời thơ như lời nói hàng ngày.

Du Tử Lê cũng không cố tạo ra những câu châm ngôn để đời, mà có thể chỉ là những ý nghĩ rời rạc, vẩn vơ, mờ nhạt, chập chờn, nhưng lại có sức hấp dẫn cao. Chẳng hạn như trong Cõi mẹ về, Lê viết những câu mà thoạt nghe qua như những câu nói hàng ngày: “… Nơi mẹ tôi sinh ra, và lớn lên / Rồi theo chồng đi miết”. Hai chữ “Đi miết” nghe gần gũi làm sao! Và với một bằng, một trắc, nó cũng rất “nhạc”. Hai chữ “Đi miết” nói lên một câu chuyện chia lìa chưa đến hồi kết thúc, và để lại trong tiềm thức người nghe một cảm giác ngân nga ... Một câu thơ cực kỳ văn xuôi mà hóa ra lại có sức kích thích người nghe như “Có nàng áo đỏ đi qua đấy / Hương động ba ngày hương chửa tan” (Nguyễn Bính).

Người ta thường hay ví von rằng thơ tình của Nguyễn

Bính là những câu nói của những chàng nông dân đi chân đất, thơ tình của Xuân Diệu dành cho những chàng trai thị thành. Dùng cách nói đó, tôi đoán ta có thể nói Du Tử Lê là người phát ngôn tình yêu cho những chàng Việt ở hải ngoại, của những chàng trai cực kỳ ga-lăng. Khi em lạnh, tôi biến thành ngọn lửa / Khi em viết, tôi biến thành giấy mực / Khi em ngủ, tôi biến thành chiếc gối / Khi em đọc, tôi biến thành chữ viết / Khi em khóc, tôi biến thành nước mắt… (Hiến chương tình yêu). Tức là, chàng sẽ dùng tất cả khả năng sẵn có của mình để làm cho nàng cảm thấy êm ấm, và an ủi. Những yếu tố và đặc điểm trên đây làm cho người đọc / nghe cảm thấy gần gũi với thơ của Lê. Đó là lý do mà tôi tạm gọi là lý do “Đồng cảm” hay “Thông cảm”. Du Tử Lê từng tâm sự là thi sĩ không có một tuổi thơ hạnh phúc: “Tôi không có một tuổi thơ bình thường, như những đứa trẻ cùng thời, (mà,) cả một thơ ấu, một niên thiếu tôi đã trôi theo nước mắt mẹ tôi. Lộ trình tuổi thơ tôi là ‘Lộ trình nước mắt’… Nói cách khác, trước sau gì, ký ức tôi, cũng vẫn là ký ức của một kẻ tật nguyền. Ký ức của một kẻ khôn thoát khỏi cái lộ trình nước mắt của chính hắn.”

Ai trong chúng ta, những người đã từng lớn lên trong thời chiến tranh ác liệt ở Việt Nam, mà có hạnh phúc tuổi thơ trọn vẹn. Chính vì thế, mà khi Lê viết “Nên suốt kiếp tôi vẫn là đứa trẻ / Buồn vui theo chiếc kẹo ở tay người” (Hạnh phúc buồn), hay “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển / Đư øng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi / Những năm trước bao người ngon miệng cá / Thì sá gì thêm một xác cong queo. (Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển), người nghe cảm thấy như nhà thơ đang nói dùm cho chính mình. Thơ của Lê đã đi vào ngôn ngữ đối thoại hàng ngày. Những câu nói như Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, Đi với về cùng một nghĩa như nhau, hay

Tôi xa người như xa núi sông…đã đi vào quần chúng tự thuở nào mà có khi người nói không biết chúng là những câu thơ! Ở đây, tôi muốn mượn lời của Nhà phê bình Đỗ Minh Tuấn để nói là nếu trong lịch sử trầm luân của nó, văn chương được hòa nhập vào cộng đồng như thế thì thi ca của Du Tử Lê ắt phải đúng là lên ngôi. Du Tử Lê đã trở thành thư ký của một thời đại.

Tóm lại, sự xuất hiện của K. khúc của Lê 2, cùng với tác

phẩm trước đó, K. khúc của Lê, đã đem lại một luồng gió mới cho vườn tân nhạc Việt hải ngoại hiện nay, vì những bài tình ca của Lê vượt ra khỏi cái không gian âm thanh đơn điệu đã và đang được kết tụ bằng những bài hát ảo não, tủn mủn, cốt ru ngủ hơn là đánh thức và thách thức, tâm trí người nghe. Những ai đang tìm nơi lánh khỏi cái thế giới âm thanh ồn ào, chát chúa, và vô duyên sẽ tìm thấy trong những bài tình ca của Du Tử Lê một nơi tỵ nạn an lành, nơi mà họ có thể khẳng định cái trữ tình của mình, của người Việt, với những ngôn từ và nhịp điệu có thần.

Hỏi chúa đi, rồi em sẽ hay…

Nguyễn Văn Tuấn

Sydney, Tháng Năm, 2001.



TOÀN PHONG NGUYỄN XUÂN VINH

ĐAO PHÁP DU TỬ LÊ TRONG THƠ VĂN

(Bài nói chuyện về thơ văn Du Tử Lê tại Hoa Thịnh Đốn ngày

11 tháng 5, 1997)

T ôi là người lúc nào cũng ao ước rằng cộng đồng Việt Nam p hải ngoại của chúng ta mỗi ngày một trù phú trên mọi phương diện, kinh tế, xã hội, cũng như văn hóa, để được các sắc dân khác nhìn chúng ta với sự kính nể, để tiếng nói của chúng ta có ảnh hưởng với chính quyền ở quốc gia chúng ta cư ngụ, và nếu cần thì chúng ta có thể dùng sức mạnh của cộng đồng áp lực để quê hương xưa đỡ lầm than, nhân quyền được tôn trọng, tương lai vận nước dược hanh thông. Vì thế mà mỗi lần được đọc một bài thơ dịch sang Anh ngữ của Du Tử Lê, được tin thơ anh đăng trên New York Times hay Los Angeles Times, hay thấy thơ anh được chuyển dịch sang Pháp ngữ hoặc Anh ngữ để giảng dậy trong chương trình văn học Việt Nam hải ngoại ở các đại học ở Aâu châu, là tôi thấy mừng rộn ràng, trước hết mừng cho Lê khi thấy thơ anh được các nhà văn học ngoại quốc chú ý tới, rồi mừng cho cộng đồng Việt mỗi ngày đạt được một bước tiến hơn lên, vì song song với mọi bộ môn kinh tế, khoa học, kinh doanh đủ mọi ngành chúng ta cũng phải tranh đua với các sắc dân khác về văn học và nghệ thuật.

Đại học Michigan, nơi tôi dây học, là một đại học lớn, tất nhiên có chương trình giảng dậy và nghiên cứu về mọi ngôn ngữ chính; tiếng Á châu đặc biệt có tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa, vân vân... Chính phủ Nhật Bản có lần tặng không vài triệu Mỹ kim để phát triển sự giảng dậy về Nhật học. Vậy mà người Việt mình chỉ tay không mà đã thuyết phục được nhà trường mở chương trình dậy Việt ngữ chính thức, mỗi khóa có hai hoặc ba lớp dậy, đi ngang qua lớp ta nghe thấy sôn sao tiếng Việt nói rộn ràng. Chúng tôi đã giúp Đại Học Michigan tuyển được một cô giáo dậy theo giao kèo ký từng năm một, mà đã kéo dài được 4 năm liền. Nhờ đó mà có những sinh viên Mỹ và một vài sinh viên Việt ghi tên theo học lớp thơ cổ điển Việt Nam do một giáo sư Mỹ bạn tôi giảng dậy, cốt yếu dùng mấy cuốn thơ dịch Việt sang Anh ngữ của giáo sư Huỳnh Sanh Thông. Tôi cũng có lần nhắc nhở ông giới thiệu thơ của các thi sĩ Việt Nam cận dại. Cách đây mấy tuần, tôi được Thư Viện Trung Ương liên lạc và nhở tìm hộ cuốn thơ Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà / Your Scented Garden, My Nostalgia của Du Tử Lê; vì có một sinh viên Mỹ muốn đọc mà không có.

Để nhanh chóng và tránh những phức tạp hành chánh tôi nhận lời mua hộ và gủi tặng luôn. Mấy hôm sau, tôi nhận được thiếp cám ơn của ông Giám Đốc Thư Viện, dại diện cho Hội Đồng Nhiếp Chính Đại Học. Tôi xin trao lại thiếp này cho Du Tử Lê, ghi nhận là sáng tác của anh hiện nay đã nằm trên kệ sách thư viện cao, làm tài liệu nghiên cứu chocác sinh viên văn học Á Đông.

Trong những năm xa xứ, Du Tử Lê không ngừng sáng

tác. Có thể nói thêm là anh đã sáng tạo, khai phá. Tôi yêu thơ của Du Tử Lê, hay đọc thơ anh, vì qua những dòng chữ mà anh cho là dồn dập như những hạt nước, theo tôi là những hạt ngọc, xô đẩy nhau gợi cho tôi nỗi khắc khoải yêu con người, dù đồng hương hay khác giống, nhớ tổ quốc xa vời, mòn mỏi đếm từng ngày xa xứ.

“đêm nghiêng bình rót ly không đáy

mỗi ngụm buồn, vui trớt tháng năm.”

Nhờ đọc thơ của Du Tử Lê mà nhiều khi tôi đã tưởng chừng vượt được ra ngoài không gian để đi nhìn về địa cầu nhỏ bé, nghĩ rằng đâu đó có quê hương mình. Qua những câu:

“núi thi sĩ phá vòng vây ngụy sử

em trưng bày tâm, tượng, bất an sông

mười thế hệ sạch trơn không dấu vết

trái đất buồn: hạt lệ đứng quay lưng.”

ta thấy con người dù nhỏ bé cũng đã vượt lên từng

không xa vời. Tôi thích đọc thơ lục bát, vốn dĩ là do thói quen, thuở nhở đã học thuộc gần hết cuốn truyện Kiều của Nguyễn Du, mà Du Tử Lại ít viết thơ theo thể lục bát. Điều không ngờ là nhà thơ của chúng ta lại đã để rất nhiều tâm trí để có những thử nghiệm đổi mới về thể Lục Bát. Trải những năm tháng qua, ta đã có lục bát trường thiên của Nguyễn Du, tuy đọc lên có nhiều chữ là, chữ rằng, chữ thì, nhưng vẫn tồn tại là áng thơ tuyệt tác, vẫn sống mãi là gia tài văn học của dân gian, xưq kia người Việt lấy 10 người thì có đến 9 người ít ra cũng thuộc vài đoạn. Sau này lại có thơ lục bát của Phạm Thiên Thư trong “Động Hoa Vàng” ta nghe tha thiết, có những hàng thơ quên dục, chim đi, trang kinh hiện hóa thiên đường. Rồi lại có lục bát của Bùi Giáng phong vận nguy nga, thiên nhiên về thiết lập tòa / mười muôn bến nước giang hà Cửu Long. Với Du Tử Lê, lục bát đã thành siêu lục bát.

Ý kiến sáng tạo để đổi mới thể lục bát của Du Tử Lê

thật là độc đáo. Tôi phải thưa trước với quý vị thân hữu là tuy nghiên cứu về khoa học mà về văn học nghệ thuật tôi lại là con người ưa chuộng cổ điển, rất sợ những gì thay đổi một cách táo bạo. Chẳng hạn nếu có người nào cho tôi một bức tranh vẽ theo lập thể, kiểu trường phái Picasso, chắc là tôi không treo ở thư phòng. Có khi tôi lại nghĩ rằng vì không vẽ được những nét hiện thực nên người họa tranh mới quay ra lập thể. Nhưng nếu một hôm nào có người chỉ cho tôi coi một bức tranh cổ kính đẹp tuyệt với và nói rằng đó là tranh của buổi sơ khai của họa sĩ vẽ tranh lập thể đó, thì tất nhiên sự thán phục của tôi sẽ gia tăng gấp bội. Sự đó cũng như là tâm trạng kích động của mình một hôm gặp một con người bình dị, ngồi câu cá ven sông mà có người rỉ tai nói cho hay rằng mới tuần trước con người này đã ký một chi phiếu vài triệu Mỹ kim để tặng một cơ quan từ thiện.

Vì vậy, muốn thật hiểu con người Du Tử Lê, trước hết ta phải đọc thơ lục bát cổ diển của Lê. Trong bài Thấy Bình Minh Trên Sa Mạc Utah, Nhớ Mẹ Già,” Du Tử Lê đã viết:

“gọi ai gió nổi bốn trời

chiếc nhau tôi lạnh phía đời bên kia

mẹ nằm lặng lẽ trong khuya

lắng nghe biển dội lời thì thầm quên.

xương tàn một dúm chưa yên

cố lay lắt sống để đền lỗi con.”

Hỏi ai là người xa xứ còn có mẹ già đợi trông ở vòng nửa trái cầu, đọc những lời thơ này mà lòng lại không ray rứt?

Đọc thơ lục bát của Du Tử Lê, có chút dư âm của những nhà thơ nổi tiếng tiền chiến, nhưng nghe lại rất lạ, một cái gì chỉ có ở trong thơ của Du Tử Lê. Như bài “Cõi Tôi” anh viết mới đây:

“cõi tôi, cõi nát, cõi tàn

cõi hoang mang vội, cõi bàng hoàng, qua

cõi vui thân thể, cỗi già

cõi lang thang, mượn mái nhà hư, không.”

Đã viết được lục bát cổ điển để đưa tình cảm người đọc vào cõi siêu việt, giờ đây Du Tử Lê lại tiếp tục tìm tòi, đưa những ý kiến sáng tạo. Ai cũng biết rằng theo thể lục bát, chữ thứ tư ở câu sáu bắt buộc phải là trắc:

“Trăm năm trong cõi người ta

chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”

Thơ Nguyễn Đình Chiểu:

“Lênh đênh một chiếc thuyền tình

mười hai bến nước đưa mình về đâu?”

Hay thơ Nguyễn Bính:

“Lang thang anh dạm bán thuyền

Có người trả chín quan tiền, lại thôi.”

Hay thơ Bùi Giáng:

“Cõi phù trầm với phù du

một hàng mở gió thiên thu hai hàng.”

Những câu thơ lục bát của Du Tử Lê đã viết, dù không

nhiều cũng dư thừa để anh ngang nhiên ngồi cùng chiếu với những danh tài thơ lục bát thượng thừa. Nhưng anh đã dũng mãnh khai một san đạo khi đề nghị rằng nếu cần diễn tả tâm trạng cho rộn ràng, hay làm cho câu thơ thêm trang trọng thì có thể bỏ âm trắc, như câu anh viết:

“Tôi Lê. Lê. Lê. Lê nào?”

Không những thế anh lại đặt câu 6 này là câu cuối trong bài. Dứt bài thơ một câu ngắn ngủi, lại có âm bằng, tạo cho ta một bâng khuâng, vương vất, trong cái thiếu thốn lại nẩy ra một dư hưởng lê thê, ngập ngừng của du tử. Lê đã vạch ra một con đường rẽ từ thể lục bát, nhưng không phải I cũng đi theo được vì con độc đạo này chưa phải là con đường mòn đã có nhiều chân dẫn lối. Tỷ dụ, tên tôi là Vinh, và tôi có bắt chước Du Tử Lê mà viết lại rằng:

“Tôi Vinh. Vinh. Vinh. Vinh nào?”

thì không phải là thơ mà là tiếng của một người nói lắp. Rồi muốn cố tình để trở thành vần lục bát thì rồi cũng phải đổi chữ thứ tư thành âm trắc, rồi viết thêm một câu 8 chữ

với sáo ngữ chẳng han:

 “Tôi Vinh. Vinh, biết Vinh nào,

Nhìn trăng viễn xứ dạt dào tình thương.”

Đọc lên dù nghe thấy có vần điệu, nhưng câu thơ thật là giả tạo, và cũng vì thế xưa nay không ai gọi tôi là thi sĩ. Như một tráng sĩ đi tiên phong, Du Tử Lê đề nghị dùng gạch chéo / Slash/ như một đao pháp để hoán chuyển chữ trong một câu thơ. Chẳng hạn trong 2 câu:

“còn / rừng / gương / soi cho tôi

bao dung / núi / đợi. Nghiêng vai / sông / chờ.”

có đến 7 gạch chéo để người đọc có thể hiểu và hoán

vị thành: tôi soi gương, hay rừng soi gương, hay rừng còn soi gương, hay gương soi rừng... Lối hoán vị này đã cởi những trói buộc cho thơ. Sau này, ở thế hệ tới, tôi tin chắc sẽ có nhiều bạn trẻ khi làm thơ lục bát đổi mới, sẽ thầm cám ơn Lê đã chỉ đường vạch lối cho họ.

Điều sau cùng mà tôi muốn nói là tập Chuyện “Tiếng

Kêu Nào / Bên Kia Thời Tiết/” là cuốn sách thứ 33 mới đây của Du Tử Lê. Theo lời tác giả đây không phải là một tập TRUYỆN, mà là tập CHUYỆN , hiểu theo nghĩa tập văn tâm sự của Du Tử Lê, như anh đãviết chuyện của chúng mình theo van xuôi, với tâm hồn của một nhà thơ. Với Du Tử Lê, chúng mình đây không phải chỉ có riêng ta với mình, mà chúng mình thay đổi liên miên bất tận với thời gian và không gian. Tên những người trong chuyện tôi không biết là giữ nguyên hay thay đổi, nhưng qua những bài vừa là hồi ký, vừa là tùy bút, viết chuyện nay, hay chuyện xưa, ta sẽ thấy những Donna, những kỷ niệm thời trẻ ở Indianapolis, ở Chicago, những ngày thơ ấu chạy loạn ở Kim Bảng, Phủ Lý, Nho Quan, những nỗi buồn tang tóc, những ngày tới thăm Song Thành ở Minnesota một buổi sáng, mưa ướt lạnh buốt tận xương. Nhà thơ, mà giờ đây là nhà văn đã kể lại những ngày ở Cali, mảnh vuờn sau ngôi nhà ở Ranchero Way, những kỷ niệm với bằng hữu, những tháng năm đầu tiên di cư, vừa làm khuya vừa viết những bài thơ như “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn” đề tặng Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, bài thơ đã làm nhạc sĩ tài hoa Phạm Đình Chương để ra nửa năm trời để vật lộn mới phổ nhạc thành một bài hát tuyệt vời, vì trong thơ đã có nhạc rồi, phải gỡ ra rồi mới soạn lại được. Phạm Đình Chương đã thành công với bài “Mộng Dưới Hoa” của Đinh Hùng, lại thành công với “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn” của Du Tử Lê.

Qua những trang sách ta theo anh trong đoạn đời trên đất khách, theo anh từ Seattle miền Tây Bắc tới Houston, Dallas ở miền Nam, cùng chia sẻ với Lê những trăn trở, dằn vặt tâm hồn của con người ly hương, những tâm sự giữa bạn bè.

Qua những trang sách, khi đọc lên ta như vẳng nghe có

tiếng hát, có lời thơ, có cung nhạc, và ta cũng thấy đưa ra mùi son phấn, nhìn thấy những ánh tóc vàng, và cũng có cả những khuôn mặt thuần túy Á Đông chưa có vết dao sửa. Đọc cuốn sách này ta sẽ cùng đi với Du Tử Lê con đường anh đi những năm vừa qua.

Toàn Phong - Nguyễn Xuân Vinh.

(Tuần báo Việt Nam Mới, Hoa Thịnh Đốn 22-8-97)



PHƯƠNG HOA.

CÁM ƠN NHỮNG BÀI THƠ TÌNH CỦA ANH.

Là bạn của nhà thơ Du Tử Lê đã lâu năm, nhưng chúng tôi ít được gặp nhau, chúng tôi mãi Texas, trong khi anh ở miền Nam Cali. Mỗi khi nhớ tới anh, tôi vẫn hình dung anh với cuộc sống chắc hẳn rất đặc biệt, không gần với thực tế, lúc nào cũng tưởng như đang ở trên mây. Cho đến vào năm 1994, khi chúng tôi mời anh cộng tác cho đài phát thanh VOVN ở Houston. Anh là người cộng tác với chúng tôi ngay từ những ngày đầu, và chương trình Văn Học Nghệ Thuật Truyền Thanh do anh phụ trách đã được thính giả khắp nơi trên thế giới yêu mến.

Trong suốt chín năm cộng tác với chúng tôi, anh Lê đã

không phụ lòng thính giả. Không có một chương trình nào bị gián đoạn hay chậm trễ, kể cả lúc anh đi xa. Quả thật, đối với người nghệ sĩ như anh, lại thêm đó là một “ông” thi sĩ thì sự kiện này là một sự kiện phi thường đáng được ca ngợi. Đối với chúng tôi, một kẻ ngoại đạo với thi ca, nên việc phê bình, ý kiến, bàn luận… về thi ca, chúng tôi không dám lạm bàn, chỉ xin nói về những ghi nhận của mình, trong cương vị của người trông nom một đài phát thanh, nơi mà có được hân hạnh, anh Du Tử Lê cộng tác trong suốt chín năm trời.

Đó là những năm, chúng tôi nhận rất nhiều thư của thính giả gởi về đài, cám ơn những vần thơ của nhà thơ Du Tử Lê đã làm đẹp cho tình yêu cũng như đời sống của họ. Tuy vậy, cũng có những lá thư than phiền, trách móc, đỗ lỗi…rằng, chính vì những vần thơ ướt át, lãng mạn của Du Tử Lê đã khiến cho họ lao vào những mối tình, để rồi đau khổ không đâu. Như thế, hóa ra, thơ tình của Du Tử Lê cũng lắm công, mà cũng không phải là ít tội!

Theo thiển ý của chúng tôi, thì có được tình yêu, dù là tình

yêu khổ đau cũng là một hạnh phúc! Đó là chưa kể thơ của Du Tử Lê đã khiến chúng ta yêu nồng nàn hơn, say đắm hơn, và…liều lĩnh hơn! Vậy thì xét cho tận cùng, những người biết yêu, được yêu, dù là hạnh phúc, hay khổ đau, không thể không cám ơn thi ca- du-tử-lê, và chính nhà thơ DU TỬ LÊ.

Xin cám ơn nhà thơ Du Tử Lê.

Xin cám ơn những vần thơ của anh.

Phương Hoa

(Nov. 2002)



PHẠM KIM,

DU TỬ LÊ, CHẤT ĐẦY KỶ NIỆM,

MANG THEO TRÊN ĐƯỜNG VỀ.

Những tháng năm đầu thập niên 80 đó, hải ngoại người Việt ta đã muốn nhen nhúm niềm hy vọng tới những ngả đường về, trong đó có chúng tôi. Chúng tôi là người mời và tiếp đón Du Tử Lê đến Seattle lần đầu, cho một buổi hội ngộ thơ văn cùng đồng hương. Lúc bấy giờ ai cũng đau đáu nghĩ đường về là một “hiện thực”, như chỉ chờ ngày có máy bay và trở về.... (cứu quê hương) ; dù rằng Du Tử Lê, qua những sáng tác mới mẻ thời ấy , ý tưởng ‘đường về’ cũng mới chỉ là nỗi bồi hồi: Trở về trên “bánh xe lăn”(1), theo trăng Sài Gòn trên xứ người, hoặc “đem ra biển”...(1)

Một Chúa Nhật xa xưa ấy, chúng tôi đón Du Tử Lê phương xa từ Nam Cali về tới. Hẹn gặp nhau chỗ cây xăng gần cầu, giữa nhập nhoạng khuya khoắt, ở xứ người. Lạc nhau giữa phố, “sương quàng cổ cây”(1), rồi giữa đêm khuya khoắt cũng gặp được nhau. Lại còn có Việt Dzũng được mua vé máy bay cấp tốc từ Texas sang góp tiếng ca hát. Cũng có Cao Đông Khánh, Đoàn Vững đi cùng. Mọi người tá túc ở căn nhà 2 phòng , nơi tôi mới thuê không xa sở làm, tọa lạc tại bến cảng Tacoma....

Đã 35 năm, nhớ lại, những ngày chúng tôi đôi lúc gặp nhau ở tòa soạn Chiến Sĩ Cộng Hòa hay một quán café Sài Gòn. Rồi lại thoáng chớp mắt... bây giờ đã 25 năm qua, từ 1982, lúc có sinh hoạt với cộng đồng ở ngôi nhà thờ góc đường King và đường số 10 , downtown Seattle, đông kín đồng hương, tị nạn. Du Tử Lê là người đầu tiên qua điện thoại báo cho tôi biết: Phạm Quốc Bảo cũng vừa thoát “Cùm Đỏ”(2), thành thuyền hân vừa tới Cali, sáng tác vừa xong bài thơ “Đường Về”(2), rung cảm về con phố lạ, nơi nhà văn mới tá túc, đi dưới những ngọn đèn vàng mà nhớ Sài Gòn. Cũng khoảng thời gian này, nhà thơ Du Tử Lê đêm đêm lái xe từ sở làm về khuya khoắt cũng xa xót nhớ trăng Sài Gòn, nhớ xa lộ (không đèn), nhớ Hàng Xanh, nhớ Trương Minh Giảng, nhớ đường Tự Do- SàiGòn. Và tháng năm như đi tu ở xứ lạ, mưa bay nhớ nhà...

Từ Seattle, mỗi lần lái xe qua chiếc cầu cao ngất bắc ngang giữa phố chợ VN và Beacon Hill nơi có cao ốc lênh khênh, nay là công ty EBay chiếm ngự, bây giờ tôi lại nhớ thấp thoáng “về” những ngày tháng xa tắp tít đó, của năm 1982, của năm 1970- 72... Không những thế, lại mỗi ngày mỗi nhớ , chất chồng thêm kỷ niệm, nhớ đến một cảnh thâu trong DVD Du Tử Lê của Diễm Xưa(3) qua Seattle thật tuyệt, về những sáng tác mới của Du Tử Lê, thân thuộc. Người mãi luôn luân lưu những giòng nhựa sống vươn lên trong thơ, dù là thân thể bề ngoài như ngọn cây khẳng khiu mà thực ra sức sống lại hết sức vững mạnh trong thân thể ấy, vẫn đơm cành nhánh mới.

Chúng tôi vẫn còn đây: Hôm nay mà nhớ thương những ngày qua, thoáng buồn nghĩ tới chia tay, ngay từ khi chưa gặp, ngày mai...và nhớ những lối đường về xa tắp tít, các chuyến bay đi về đến với nhau, Đông và Tây HK, nay Texas mai quận Cam, San José, Seattle; lại thêm nữa nhớ những đường gần, nơi những người bạn xưa đã để lại dấu chân văn hóa của mình.

Tôi không nhớ rõ ngày ấy, nhiều người trong chúng tôi đã không lên đường, vì không có một hướng trở về ? Nhưng dù cách nào, giấc mơ Đường Về, nơi nào đó có chờ mong, sẽ được gọi tên là thiên thu, (thiên thu là khi ta gần nhau như định nghĩa của không hẳn nhà thơ BH- chứ là kiếp khác) như bài viết cảm nhận còn tươi mới của Du Tử Lê, yêu thiết tha cuộc sống(4). Và chính mong về chốn quê hương, không chỉ trên “bánh xe lăn” như trong Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, không còn dặn dò mang ra biển, vì chúng tôi vẫn về hằng đêm trong tan nát chiêm bao

Hơn cả nỗi nhớ , và rất thiết tha một cách nghiêm chỉnh với việc đã bắt tay vào với công việc, Du Tử Lê còn chú ý đến bạn, theo từng bước chân mang đến tin những bằng hữu xa gần, qua cả từng dòng văn. Đó là lần bạn của nhà thơ, chỉ nhắc thoáng trong một cuốn sách nhan đề Hồng Nhan Xuân(2), cũng đủ cho nhà thơ hứng khởi một đề tài trao đổi cùng bằng hữu, trong chương trình hàng tuần trên Truyền hình SBTN, khiến nhiều bạn hữu cũng tưởng tượng ra một Phạm Quốc Bảo có mối tình lớn lãng mạn với một cô nàng Saint Paul nào đó, tên Hồng Nhan? Ngày tháng phôi phai, kỷ niệm mỗi ngày mỗi thêm nhiều, kỷ niệm xa kỷ niệm gần. Tôi vẫn có cảm nhận thơ Du Tử Lê vẫn như những ngọn cây xanh ngày mới tới, vẫn bén lá, vẫn đầy nhựa sống luân lưu, vẫn tràn không dứt những hơi thở, ấm áp... Tôi tin là: không ngưng nghỉ.

PHẠM KIM,

Seattle, Oct. 07)

(1) Thơ Du Tử Lê.

(2) Sách và thơ Phạm Quốc Bảo, nhạc PAD, tiếng hát Xuân

Thanh.

(3) Video “Du Tử Lê: Giữ Đời Cho Nhau,” Trung tâm Diễm

Xưa thực hiện và phát hành, 1998.

(4) Truyện ngắn Du Tử Lê “Cảm Ơn, Ngực Ấm, Nôi Thương

Bạn.” báo Xuân Người Việt 2007.



TẠ TỴ,

DU TỬ LÊ NHÀ THƠ CỦA KHÁM PHÁ.

Thơ Du Tử Lê là một sợi giây nối dài từ Việt Nam, quê hương yêu mến qua nước Mỹ, mảnh đất tạm dung. Nói đến thơ Du Tử Lê là nói đến khám phá, trong mỗi từ, mỗi ý.

Khen hay chê đã vượt khỏi mức của một tài hoa phong phú, trong một con người đa dạng.

Những vần Lục bát hoặc những câu thơ Tự do từ năm 1960, nó không còn ở ngoài chúng ta nữa. Đích thực nó đã thẩm thấu vào tâm hồn chúng ta rồi vượt thoát, nó lang thang bay bổng như mây trời trên cao, theo gió phiêu du về những

chân trời mới trong lòng vũ trụ.

Tôi đã đọc thơ của Lê nhiều, thật nhiều,nhưng thơ của Lê đã bỏ xa thơ Lê những năm về trước, để khoan thai bước vào một tòa lâu dài uy nghi và tráng lệ, ở đấy đã có những khát vọng và ngưỡng mộ chào đón. Không một ai có thể đoán trước được những dài rộng của những kẻ có thực tài và có một tâm hồn hiến dâng cho cuộc đời những giá trị hằng cửu của từng dòng thơ rớt xuống tự trời cao. Thơ của Du Tử Lê hôm nay như con chim đại bàng đang soải cánh đo không gian và đo cả chiều dài của thơ mình trong lòng những người mến mộ Du Tử Lê. Nhưng muốn được như vậy không phải dễ, một sớm, một chiều ta có thể tóm bắt được những gì ta hằng mơ ước. Nó phải phấn đấu, phải tự vượt, phải tự tra khảo mình để tìm kiếm chất liệu của thơ đang bay lượn, ẩn ấp đâu đó, để hiến dâng cuộc đời, chẳng mong được sự trả ơn, mà chỉ mong người đời hiểu được những ý nghĩ thầm kín ấp ủ sau hàng chữ làm nên vần điệu siêu thoát. Hai chữ thi nhân nó là cái nghiệp, chẳng phải ai muốn cũng được. Chỉ có những người mà định mệnh bắt phải kết duyên với nàng Thơ, mới có được cái ân sủng đó thôi!

Làm thơ không khó, nhưng làm thơ hay quá khó. Nó không phải là sự lựa lời chọn chữ để ghép câu, hoặc tự do phóng túng bày tỏ những gì mình muốn nói, muốn bày tỏ cùng kẻ khác cái tâm sự đa đoan phơi bày trên lòng giấy trắng. Không, thơ không như vậy. Mallarmé, nhà thơ Pháp ở cuối thế kỷ 18, thuộc phái Tượng Trưng nói: Làm thơ là sự kết hợp giữa trí tuệ và ngôn ngữ. Chữ nào được tôi dùng trong thơ, trước hết, chữ đó phải có tính chất Thơ. Ai đọc thơ của Mallarmé cũng kêu khó hiểu, nhà thơ cho rằng thơ của mình không khó hiểu, chỉ tại quý vị yêu thơ, đọc thơ ít chịu suy nghĩ để tìm hiểu đấy thôi! Cũng như Appollinaire đã chuyển hướng thơ của mình từ phái Tượng Trưng qua trường Siêu Thực (Surréalisme) do tiến bộ đòi hỏi. Nhưng xét cho cùng, dù thơ thuộc loại nào, trường phái nào đi nữa,trước hết thơ phải có tính truyền cảm và gợi lên ở trong trí tưởng những hình ảnh mà cuộc đời đã in dấu vào hồn mình, không cách gì chối bỏ! Mình phơi bày trên giấy trắng với ngòi bút những ăn năn cùng những nỗi ám ảnh không sao xóa bỏ trong lòng!

Nói cho đúng thơ Du Tử Lê không quá khó hiểu và cũng chẳng dễ dàng tiếp nhận. Muốn tiếp nhận những vần thơ làm theo thể tự do, người đọc phải kiên nhẫn gỡ từng mối chỉ rối, vì cố ý, người thơ đã trộn lẫn vào nhau để tìm sự hòa hợp cho ý nghĩ. Một khi mối chỉ đã gỡ xong, người đọc thơ cũng đã góp phần vào công việc sáng tạo.

Từ vạn cổ, người làm thơ luôn luôn cô đơn, mình làm thơ cho người khác đọc, tiếc thay, phần đông những người đọc thơ chỉ muốn đọc những gì mình có thể nhận biết ngay sau khi đọc, còn chiều sâu của thi ca là vấn đề của tác giả hoặc các nhà phê bình văn học! Như vậy thiệt thòi qúa, thiệt thòi cho cả người làm thơ lẫn người yêu thơ. Thi sĩ làm thơ chẳng để ngâm nga một mình cho vui miệng. Không, không phải như vậy. Chính thực thi nhân phải mở trái tim mình ra để cho nguồn cảm thức rung động theo nhịp trái tim làm nên những vần điệu dù mơ hồ bóng gió, hay tỏ bày trực tiếp những nỗi niềm dù nhẹ nhàng hay cay đắng, nó là tinh túy của chất thơ tạo bằng sự thành thực nhất, sự dũng cảm nhất mà thi nhân có thể có được.

Thơ Du Tử Lê hôm nay, một mình một cõi,không chịu ảnh hưởng của ai. Nó như ngọn núi sừng sững giữa trời cao, gió cả, mặc cho mưa gió, bão tố dập vùi. Thơ Du Tử Lê thật đáng yêu, nhất là ở những bài thơ tình. Cái tình yêu ấy không đơn thuần giữa đôi nam, nữ vừa bắt gặp đã quấn quýt hay đã đứt đoạn, chia lìa. Biệt ly nào mà chẳng buồn... Định mệnh đã bắt như vậy, Những kẻ yêu nhau phải cúi đầu chịu tội. Du Tử Lê lại có qúa nhiều duyên nợ với tình, mà cuộc tình nào trước sau gì cũng phải trả nợ bằng nước mắt, nó làm cho cuộc đời của thi nhân biến thành bi kịch. Nhưng Lê là con người gan lì, chẳng bao giờ chịu bỏ cuộc chơi. Tuy thế, Lê vẫn yêu quê hương với lũy tre, bụi chuối, yêu tiếng khóc, câu cười của mẹ già, nơi chốn cũ, nơi Lê thường lui tới tìm về kỷ niệm:

lòng già sớm bạc cơn mong

sáng, vun chân mộ, chiều, trông nhang tàn

mẹ ngồi một cõi chia tan

óc moi xác những đứa con đã vùi

lưng đeo đá nặng một đời

bảy mươi năm đó còn hoài giọt, sương...

(Đêm mưa về Chí Hòa Thăm Mẹ, trích Thơ Du Tử

Lê 1967-1972, tái bản tại Hoa kỳ, 1983.)

Nhưng tình mẫu tử với Du Tử Lê cũng như một thoáng qua, nó có đó rồi tan đi như cây nhang đã cháy hết phần của nó, vì Lê còn nhiều nhớ thương khác. Những chuyện tình luôn luôn làm xáo trộn đời Lê. Nhưng Lê không có can đảm từ chối..., trừ trường hợp đặc biệt đối với Donna, một cô gái Mỹ rằng, không bao giờ Lê quên, hoặc rời bỏ Việt Nam bất cứ vì lý do nào:

không bao giờ đâu Donna

dù anh có yêu em

hơn bất cứ thứ gì có trên đất Mỹ

thì anh cũng vẫn trở về

quê hương anh với cả trăm ngàn khốn khó

nơi anh sống chui rúc như chuột

trong một căn nhà tôn vách ván

nơi người yêu anh đang từng giây mong đợi

(nàng cũng có một mái tóc dài thả xõa như em

nàng cũng có đôi mắt mở to sáng trong nhẫn nhục

tất nhiên tóc và mắt của nàng thì đen)

không bao giờ đâu Donna, Donna

dù anh có yêu em...

(Vỡ Lòng Cho Một Người Con Gái Mỹ, sdd...)

Như vậy, Du Tử Lê đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau, Lê từ chối mọi ân tình ngoài ân tình với quê nghèo đói và đôi mắt với dòng tóc đen. Có lẽ nó là ý muốn cuối của một người Việt Nam yêu quê hương, bằng lòng từ bỏ mọi ân sủng do cuộc đời ban phát! Bài thơ Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển, theo thiển ý, bài này có một giá trị nghệ thuật không thua gì bài thơ Chờ Anh Em Nhé của Simonov, Nhà thơ Nga, làm trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, do Tố Hữu dịch. Đại ý bài thơ nói với người tình (hay vợ) hãy cố khắc phục gian khổ, khó khăn, đợi anh về, sau khi chiến thắng quân thù! Một đằng, dù thân xác lưu vong này chẳng may có chết nơi đất lạ, quê người, thì xin hãy đưa xác tôi ra biển, vì biết đâu nước biển chẳng đưa đẩy xác tôi trở lại quê nhà:

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển

đời lưu vong không cả một ngôi mồ

vùi đất lạ thịt xương e khó rã

hồn không đi sao trở lại quê nhà

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển

nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi

bên kia biển là quê hương tôi đó

rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển

và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi

cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối

biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển

đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi

những năm trước bao người ngon miệng cá

thì xá gì thêm một xác cong queo

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển

cho tôi về gặp lại các con tôi

cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi

từ những mắt đã buồn hơn bóng tối

khi tôi chết hãy đem tôi ra biển

và trên đường hãy nhớ hát quốc ca

ôi lâu quá không còn ai hát nữa

(bài hát giờ cũng như một hồn ma)

khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết

đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.

12.77

(Khi Tôi Chết, Hãy Đem Tôi Ra Biển, Trích Thơ Tình / Love

Poems, in lần thứ 4.)

Những câu thơ trên vừa buồn vừa đau đớn, nhưng may thay, đây chỉ là thơ, là tâm hồn bay bổng trên vùng trời sáng tạo.

Không hiểu sao tôi không chấp nhận được những bài thơ phổ nhạc, dù có nhiều bài thơ phổ nhạc rất hay. Có lẽ, tôi thường nghĩ thơ là thơ, nhạc là nhạc. Nếu không thế người làm thơ chỉ là kẻ viết lời cho nhạc. Thơ và nhạc là hai ngành riêng biệt. Thơ làm ra để bày tỏ những thiết tha chất ngất, những nỗi niềm không giải tỏa, những vết chém từ lưỡi dao bén, ngọt như hương vị của tình yêu, những đam mê đến chết không rời... Đó, đó là Thơ với ý nghĩa trọn vẹn nhất. Một khi thơ đã được hát lên rồi, cái chất thơ đã mất đi phần tinh túy của nó. Nó như một người ái nam, ái nữ,chả ra làm sao. Hỡi! ai đó hãy chứng minh giùm tôi có một bài thơ nào được phổ nhạc, còn nguyên vẹn tính chất thơ hay không? Hay nó biến bài thơ thành lời của bản nhạc? Bài thơ sẽ mất đi cái hay riêng của nó, và trở thành nô lệ cho cung bậc dù qua tiếng hát của ca sĩ thượng thặng đi nữa. Thơ có cái hay của thơ. Nhạc có cái hay của nhạc. Thơ để đọc, để suy gẫm về lời và y thơ, chứ không phải để nghe tiếng đàn, tiếng sáo cùng các nhạc khí làm mất hết cái uy thế của thơ, thơ chỉ còn là phần phụ, phần chính là nhạc. Sự thực cả hai đều là chính, nếu ta đừng giao duyên chúng với nhau.

Ngay như bài Khúc Thụy Du, một bài thơ rất hay của Du Tử Lê, khi nó được phổ nhạc, thì kỹ thuật âm nhạc đã nắm giữ phần chính, thơ chỉ còn là phần lời hát. Cũng như hội họa, tác phẩm là tác phẩm, minh họa là minh họa, vì nó có 2 phần kỹ thuật khác nhau. Người ta không thể xử dụng thay thế cái nọ cho cái kia được. Xin cám ơn Du Tử Lê đã cho tôi những rung động sâu thẳm, qua những vần thơ, đã cho tôi được cùng sáng tạo, qua những slash!... Tuy vậy, cũng khó lắm lắm!...

TẠ TỴ

(Tuần báo Đời Nay, Hoa Thịnh Đốn,

ngày 1 tháng 5 – 1997)



LM TRẦN CAO TƯỜNG

MỘT THOÁNG BÂNG KHUÂNG VỚI THƠ DU TỬ LÊ

Ai mà chẳng có những lúc bâng khuâng lần đầu tiên nghe và cảm được tiếng chim hót, hay nhìn với vẻ ngất ngây những lớp sóng biển đuổi nhau, tạt nước reo vui. Những giây phút này đến thật bất ngờ, rất giản đơn, tinh ròng.

Truyện kể về một đệ tử hay thắc mắc nhiều điều về Thương Đế, cứ thích hỏi tới hỏi lui, mãi mới được sư phụ trả lời:

“Thượng Đế là đấng Vô Danh và không thể hiểu thấu. Tất cả những định nghĩa về ngài, cũng như những giải đáp cho các vấn nạn của chúng con về Thượng Đế đều chỉ là những sự bóp méo chân lý.”  Đệ tử bối rối hỏi tiếp:  “Nhưng tại sao Thầy lại hay nói đến Thượng Đế?”

Vị sư phụ đáp:

“Chúng con có biết tại sao chim nó hót không? Chim hót  không phải vì nó muốn tuyên bố một điều gì, nhưng vì nó có  một bài ca để hát. Lời của một học giả cần phải được thấu  hiểu. Lời giáo huấn của vi tôn sư không cần phải được hiểu,  nhưng cần phải biết lắng nghe, như người ta lắng nghe tiếng  gió thổi rì rào qua ngọn cây kẽ lá, tiếng nước chảy róc rách  và tiếng chim hót líu lo. Nó gợi lên trong lòng một tâm tình  nào đó, vượt khỏi mọi tầm hiểu biết.”

TẬP LÀM ĐỨA TRẺ NGHE CHIM HÓT

Thú thực là tôi chưa bao giờ dám đọc thơ Du Tử Lê một  lèo từ đầu đến hết sách cả. Sợ phải làm người lớn dùng đầu  lắm. Mà phải dùng đầu để đọc thơ thì thơ sẽ mất đi chất rung  động tự thân. Và cũng không bao giờ lại dám “bình luận thơ  Du Tử Lê”! Vì tôi đã nghe chuyện có lần một người bạn của  Beethoven thích thú nghe Beethoven chơi dương cầm bản  Sonata, thì hỏi bài này có nghĩa gì? Beethoven không trả lời,  mà lẳng lặng đánh bài Sonata lại từ đầu. Thì ra tôi chỉ dám  tập đọc thơ như đứa trẻ nghe chim hót với vẻ sửng sốt ngây  thơ hút hồn. Thế thôi.

Năm 1981 khi tái bản Thơ Du Tử Lê 1967-1972 tại Mỹ,  anh có gửi tặng cho tôi một bản đọc chơi. Tôi để đó, lâu lâu  đưa một bài ra nhâm nhi, trong những lúc vắng lặng, rất tình  cờ. Thì cũng mong tìm “khởi đi từ những rung động thực tại  hay quá khứ...làm cho cuộc đời ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn,”  như lời tựa của anh trong lần tái bản. Mà quả thực, một thoáng  bâng khuâng với “khúc thụy du” đến thật bất chợt:

như con chim bói cá

trên cọc nhọn trăm năm

tôi tìm đời đánh mất

trong vụng nước cuộc đời.

như con chim bói cá

tôi thường ngừng cánh bay

ngước nhìn lên huyệt lộ

bày quạ rỉa xác người...

ĐẾN CẢ SÂN CHƠI CŨNG BẨN RỒI

Kể ra thì cũng lạ, tôi bị thơ Du Tử lay động thường rất  tình cờ mà rất đúng lúc. Năm 1993 đang đọc truyện ngắn  Cánh Vạc Lưng Trời của Phan Lạc Tiếp trên báo Ngày Nay,  thì tôi lại thấy Du Tử Lê hiện hình “khởi đi từ những rung  động.”  Phan Lạc Tiếp diễn lên nỗi bâng khuâng của con người  xa xưa như Cánh Vạc Lưng Trời: “Gió lạnh lùa vào ngón tay.  Tôi kéo cao cổ áo và nhìn lên trời cao. Giữa cái mênh mông  đen thẳm ấy có nhiều cánh vạc êm ả sải cánh bay thấp thoáng  trên lưng chừng trời. Ôi những cánh chim miệt mài bay mãi  về đâu! Người đàn bà, mẹ của cô gái nhỏ, xuất thân từ đồng  ruộng miền Nam Việt Nam, trôi nổi, truân chuyên, rồi sẽ đi  về đâu? Rồi cô bé nữa?”

Phải đấy. Tâm trạng trên chẳng phải là tâm trạng của  nhiều người ly hương là gì? Hình như mình đang theo cánh  chim mẹ bay về núi hay theo cha xuống biển vượt biên?!  Bay trong không gian mộng mị hay bay ngược thời gian:  “Trở về thời hồng hoang của dân tộc. Tổ tiên của chúng ta  đã theo dấu bày chim, lấy chân mây làm chỗ hẹn, vượt bao  núi non, ghềnh thác, đến định cư ở châu thổ sông Hồng từ  mười ngàn năm, tự trăm ngàn năm trước... Bỗng nhiên bao  nhiêu cây phong vàng, cây dương trắng, cả khu rừng thu Gia  Nã Đại cũng biến mất. Trước mắt tôi, chỉ là hình bóng lũy  tre xào xạc, vườn lá chuối xanh tơ, và hàng dừa lả lơi trên  đồng lúa dậy thì xanh mơn mởn.” Đỗ Quý Toàn đã diễn tâm  trạng đó thành lời văn như vậy. Phạm Duy đã diễn ra bằng  dấu nhạc trong Bầy Chim Bỏ Xư.ù Biết đâu mình lại chỉ có thể  diễn ra bằng chén rượu tiêu sầu hay bằng những phóng rọi  qua những hoạt động khua múa!

Du Tử Lê trong bài Lưu Vong Khúc đã diễn tả cái cánh  mỏi khi làm “nhân chứng” cảnh đổi đời:

chính vì tan tác nên nhăng nhố

đến cả sân chơi cũng bẩn rồi

cố mà chơi nốt trò chơi dở

đến lúc đi thì đi thảnh thơi

bạn nói chi thêm về mối nhục

ta hiểu vô cùng chuyện áo cơm,

mặc ai khất thực mà vênh váo

luýnh quýnh canh thừa, ngố chợ đông...

trời đất thực ra nào có tội

ta buồn ta chửi đổng cho vui... (1)

NGƯỜI VỀ DỰNG LẠI HOANG LIÊU

Thơ Du Tử Lê thường mang đến cho tôi những ray rứt,  những khoảng trống mênh mang. Mới nhìn thì có vẻ bi quan,  u ám, gợi lên một cái gì bất ổn. Nhưng nhìn kỹ hơn, thì lại  thấy dội lên những tiếng sóng. Từ trong đáy lòng hình ảnh  một dòng sông bỗng hiện lên, có tiếng vọng đâu đây về một  tiễn biệt cái cũ, cái bất ổn, và chào đón dòng nước mới, bến  đậu vĩnh hằng. Đó là tiếng na ná như trong Tống Biệt Hành  của Thâm Tâm:

Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng

Tam Quốc Chí là bộ truyện lịch sử tầu rất hấp dẫn với cả  ngàn trận đánh lẫy lừng như trận Xích Bích, với những quân  sư giỏi như Khổng Minh, với những tay gian hùng như Tào  Tháo. Ai là người khôn ngoan, ai là kẻ xảo quyệt? Ai thắng  ai thua? Nhưng đọc Tam Quốc Chí thực ra chẳng phải để  xem những chuyện như vậy, mà để thấy được cái nhìn về  cuộc đời mà người viết đã tóm gọn trong một câu hát theo  điệu Tây Giang Nguyệt ở ngay đầu sách:

Sông dài cuồn cuộn về đông

sóng vùi gió dập anh hùng còn đâu

được thua phải quấy tranh nhau

xôn xao mấy chốc ngoảnh đầu thành công.

Như vậy là “khởi đi từ những rung động” cũng là khởi  về trong một lộ trình dài mà chỗ kết thúc lại là chỗ khởi đầu,  như Du Tử Lê vẽ lên bản đồ trong bài lục bát sau tám  năm cho người về:

người về mưa động trong mây

mừng tôi như thể ngày gầy nắng mưa

người về chân bước trong thơ

tháng năm tận tuyệt đủ chưa oán cừu

người về dựng lại hoang liêu

trong đôi mắt lớn đã nhiều mộ bia... (2)

HOA NÀO TIN QUẢ ĐẮNG ĐẾN KHÔNG NGỜ!

Mình đang đứng ở chỗ nào trong vũ trụ nhỉ? Ở Saigòn  hay ở New Orleans, ở trái đất hay ở hỏa tinh, thế đứng chủ  tịch hay phu đổ rác? Ở nhà sang hay trong xóm nghèo... Dẫu  đứng chỗ nào thì vẫn thấy có gì hụt hẫng, vẫn chưa phải là  chỗ đứng yên. Nhìn từ phi thuyền về trái đất mình thấy sao  mọi sự bỗng trở nên nhỏ bé một cách tội nghiệp.

Mà trái đất cũng là một phi thuyền đang bay vào khoảng  trống vô biên, đang chuyển vào ngàn năm mới. Nhìn lại lịch  sử con người từ cái ngày còn ở trong hốc đá, cho đến khi biết  mặc quần jean, mấy ngàn năm tưởng như một nháy mắt.  Những thành quả, những phát minh, những lập thuyết, những  “đỉnh cao trí tuệ loài người,” những đền đài lăng tẩm, những  bon chen đập đánh, những kinh tế thị trường hay quốc doanh,  những vênh mặt tự hào về trí lực con người, những con tầu vĩ  đại như Titanic... tất cả bỗng chốc thành chuyện nhảm nhí. 

Cuối một thế kỷ, cuối một ngàn năm, cuối một vòng xoay  của chấm nhỏ li ti trong giải ngân hà, loài người ngồi tính sổ,  rốt cục rồi cũng phải buông một câu như tiếng thở dài với Du  Tử Lê: hoa nào tin quả đắng đến không ngờ!  Mây chữ ngắn gọn mà có sức mạnh như một công án,  san bình địa tất cả để ra một khoảng trống. Giữa những đầy  đặc ngột ngạt mà có được một khoảng trống thì cần thiết biết  chừng nào. Cái khoảng trống mà nhà tiên tri thời đại là Kahlil  Gibran hé trong cuốn Tiên Tri (The Prophet): “Hãy để giữa  lòng bạn một khoảng trống cho gió trời có thể nhẩy múa  thênh thang.”

Tôi muốn ngồi tĩnh lặng nhặt lấy một câu công án qua  lời thơ Du Tử Lê như cây gậy thiền sư gõ vào cái đầu loạn  tưởng, làm vang lên vài tiếng lênh kênh dội vào tâm thức:

mây kiệt sức kéo chiều lên đỉnh núi

mặt trời rơi, hẫng, nhớ nhung /đen/

cát xúc động xô sông về /mắt /cuối/

sóng lênh đênh /oải/ muộn/ lãng quên, quen.

dẫu điểm đứng chỗ nào trong vũ trụ

em cách gì một lúc: -ở hai nơi

chỉ tôi biết: - tôi vô cùng loãng, nhẹ

sống phân thân từng miểng /vụn / hôi/ mùi

búp nghi hoặc: - có chăng đời lá: chết!

hoa nào tin quả đắng đến không ngờ... (3)

Đúng vậy. Dẫu điểm đứng ở chỗ nào trong vũ trụ, thì  “tôi” vẫn đang đi tìm “tôi”, cái phân thân từng miểng /vụn /  hôi / mùi đi tìm cái toàn mãn, cái hữu hạn đi tìm cái vô hạn.  Dẫu điểm đứng chỗ nào thì cũng thấy mình phải khởi đi vào  cuộc chuyển biến từ cái tôi nhỏ nhen tù túng mà hòa nhập  cái Ta đại thể vô biên. Hay nói theo kiểu nét văn hóa người  mình: cái vuông đi tìm cái tròn để có thể tròn đầy sung mãn,  mẹ tròn con vuông. Đây là cuộc hành trình “tìm về quê nhà  đã mất”, nối lại được cái cuống nhau từ bụng “mẹ” đã một  lần từ giã. Quê mẹ đây có thể là chính người mẹ sinh ra  mình, mà cũng có thể là quê hương hằng thể, vượt không  gian và thời gian, vượt bờ sinh tử. Niềm khao khát tìm về này  như phảng phất tâm tình đầy chất đạo trong ca dao Việt:  Chiều chiều ra đứng ngõ sau  trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

MỘT CHIẾC THUYỀN CON

Thơ Du Tử Lê chốc chốc gợi lên trong tôi một dòng sông  vắng với câu chuyện một chiếc thuyền con. Nó cho tôi một  thoáng bâng khuâng vô cùng hạnh phúc, nối được vào quê  mẹ trong tâm tưởng. Như truyện kể về một người đứng trước  bức vẽ cảnh núi sông, say mê hút hồn chẳng còn để ý gì  những náo động chung quanh. Bỗng ông ta lẩm bẩm: “Giá  ta có được chiếc thuyền con, để trở lại thăm nơi quê cũ”.  Gần đấy có vị lão trượng tướng mạo khác thường, tiên phong  đạo cốt, từ từ bước lại gần, trên tay cầm một chiếc lá trúc gắn  vào bức họa. Người xem tranh chăm chú nhìn vào chiếc lá,  bỗng thấy mình ngồi trên chiếc thuyền con, cuốn theo sông  nước bồng bềnh; nét mặt thay đổi lúc muộn phiền khi vui  sướng; hồi lâu sực tỉnh, như vừa đi xa trở về; quay nhìn người  lão trượng cúi đầu mà nói: “Tiên sinh đã giúp tôi trở lại thăm  lại quê xưa làng cũ. Tôi xin hết lòng đa tạ.”  Với những ray rứt “hoa nào tin quả đắng đến không  ngờ,” với tiếng “chim bói cá trên cọc nhọn trăm năm”, với  những khoảng trống “dẫu điểm đứng chỗ nào”, với một thoáng  bâng khuâng “cố mà chơi nốt trò chơi dở, đến lúc đi thì đi  thảnh thơi”, với một chiếc lá trúc gắn thêm vào, Du Tử Lê đã  giúp tôi chợt thấy mình đang ngồi trên một chiếc thuyền con  đi trở lại quê xưa làng cũ. Vậy tôi cũng xin hết lòng đa tạ.

LM TRẦN CAO TƯỜNG.

(Trích: Du Tử Lê: Tác Giả & Tác Phẩm, tập III. Đã

phát hành. Xin gọi Nhà Văn Nghệ (714) 527-5761

(1) Đi Với Về Cũng Một Nghĩa, Như Nhau, Tủ sách Nhân

Chứng, Calif., 1991. (GCCNXB)

(2) Thơ Du Tử Lê 1967-1972, Tủ sách Nhân Chứng, tái bản

tại Hoa Kỳ, 1983. (GCCNXB)

(3) Chỉ Như Mặt Khác Tấm Gương Soi, Tủ sách Nhân Chứng,

Calif., 1997. (GCCNXB)



THIỆN GIAO,

VỚI MỘT NGƯỜI, RẤT “XA” NHƯNG KHÔNG “CÁCH”...

Ánh mắt, đôi khi, để lại nhiều điều hơn lời nói!

Tôi không quen với chú Du Tử Lê, theo nghĩa thông  thường của từ quen. Từ đó chưa chính xác.

Càng không thể gọi là bạn, theo nghĩa thông thường của  từ bạn. Từ này, quá phận.

Tôi rất ít gặp ông. Vài năm, chỉ vài lần. Ông chẳng bao  giờ gọi điện thoại, tôi chẳng bao giờ gửi email, để hẹn gặp  nhau.

Tôi và ông gặp nhau, luôn luôn tình cờ, ở quán ... cà  phê.

Quán cà phê, với sự có mặt của ông, trở nên thơ mộng  hơn. Tôi nghĩ vậy, vì ông là một nhà thơ. Song, tôi sẽ chẳng  viết gì về thơ. Với thơ, tôi là kẻ ngoại đạo.

Tôi “biết” Du Tử Lê trước khi gặp ông. Tôi biết ông, qua  thơ và qua những gì người ta nói với tôi, về ông và về thơ  ông.

Tôi để những hiểu biết về ông, qua lời kể của người  khác, sang một phía. Tôi muốn biết về ông bằng chính cảm  nhận của tôi.

Ông thường khen những bài báo tôi viết.

Được một người như Du Tử Lê khen, tất nhiên là thích.

Tôi cũng thích được khen, như mọi người, nhưng tôi không  dễ bị dẫn dắt bởi những lời khen xã giao, phù phiếm. Tôi  thích những lời ông bình phẩm. Chúng chân thực. Tôi biết  chính xác điều này. Những bài viết được ông khen, cũng là  những bài viết mà tôi tâm đắc.

Ông ít nói, lời khen chừng mực. Và tôi thích nhất cách  ông “nói” với tôi, qua ánh mắt.

Nhẹ nhàng, thân thiện...

Cả đôi chút gởi gắm.

Tôi biết, những gởi gắm trong ánh mắt ấy khiến tôi phải  thận trọng hơn, không được sơ suất. Sai sót, chủ quan, những  ánh mắt như thế sẽ thay đổi; sẽ nặng hơn những lời bình  phẩm.

Mỗi bài viết sẽ có hàng chục ngàn độc giả. Trong hàng  chục ngàn độc giả ấy, có Du Tử Lê. 

Ánh mắt của ông đặt trách nhiệm lên tôi.

Ông đã ảnh hưởng lên tôi như thế!

Thiện Giao



 


TẰNG TÔN NỮ HỒNG,

VẪN THƠM MÙI KHẾ, CŨ.

“chỉ cây khế cũ quên không hỏi

“hoa khế vì ai?

“nở rất nhiều!?!

“.....”

“cả hai tâm thất đầy hoa khế

“sông núi người thơm nỗi nhớ nhà.”

DTL.

Vườn nhà bạn tôi đầy hoa khế, trước ngõ, bên nhà,  sau vườn, lối đi...chỗ nào cũng đầy hoa khế tím.  Chắc là nhà thơ Du Tử Lê làm những câu thơ khế  cho bạn.

Bạn tôi ít nói, lặng lẽ, khắc khổ, chịu đựng. Suốt bao năm  trời chơi với nhau, nói chuyện hàng ngày với nhau, rồi thì,  chuyện gì, bạn tôi cũng dẫn tôi đến với mối tình đẹp của bạn.

Tôi học ở Golden West, một hôm thầy BVP ra đề bài tự do,  tôi đã viết lại cuộc tình của bạn tôi. Thầy giáo phê “diễn ý  đẹp và sáng,” 18 điểm. Không biết lời phê có quá không,  nhưng chắc một điều, bạn tôi mà biết được, thế nào bạn cũng  phiền tôi.

Bạn tôi là người lặng lẽ, sống thu mình. Nhưng không vì  thế mà tôi muốn giữ riêng bài viết về bạn tôi. Tôi muốn chia  sẻ nó, với những ai có hoàn cảnh gần xa với hoàn cảnh của  bạn tôi. Sau đây, là bài viết ấy.

Con gái tôi hỏi:

“Mẹ! Nếu có một đời sống khác sau này, con sẽ “lấy”

Văn Cao, còn mẹ?

 “Mẹ sẽ “lấy” lại bố con ạ. Tuy nhiên, nếu được, mẹ xin,  đừng có đoạn dời giữa.”

Tôi cũng thường nói với anh, như thế: “Nếu có kiếp sau,  em vẫn muốn là vợ của anh.”

“Nếu có kiếp sau, điều gì anh muốn sửa đổi?”

“Chuyện trai gái, anh muốn một vợ một chồng.”

“Còn vụ làm thơ?”

“Chắc là thôi T. ạ. Anh muốn tụi mình có nhiều con, những  đứa con có từ mong ước của cha mẹ.”

“Vậy những đứa con hiện nay của anh?

“Anh có lỗi với chúng.”

Tôi yêu anh với tất cả những tính khí ương ngạnh, những  tội lỗi chất chồng như núi, những lầm lỡ như biển...Anh hư  đốn, hoang đàng từ đầu đến cuối đời. Và có lẽ, sự hư đốn đó  còn tiếp mãi, một phần do sự bao che, nuông chiều, thương  mến, đùm bọc của tôi.

Lúc đầu tôi thấy mình như một người mẹ có một đứa con  cầu tự, đứa con hiếm hoi, đứa con quý báu, và cả hư đốn là  anh.

Cái ngày đầu, cách đây 34 năm, tôi gởi đến tòa soạn của  báo T.P. Tờ báo do anh chăm sóc. Một tùy bút non trẻ, thêm  một cái note nhỏ kèm theo: “Tên ông thì hay và lạ, nhưng bài  thơ của ông đăng ở báo xuân thì dở và nhạt.”  Anh trả lời thư tôi ngay, với lời biện hộ, bài thơ làm vội vì  tòa soạn cần vào giờ chót”. Cái lối giải thích thiếu tự tin của  anh, cộng với việc trả lời thơ tôi rất sớm, trong lúc anh cho  biết, anh rất bận. Tôi cho anh điểm 2/10 lúc ấy. Về sau tôi  biết, hàng ngày, anh nhận cả tỷ thư ái mộ, và gặp cả tỷ fan  ngoài đời. Nhưng hên cho tôi, lá thư với lời lẽ khinh bạc nó  đã khiến anh chú ý giữa hàng trăm thư ái mộ khác. Anh trả  lời ngay vì muốn sớm biết con nhỏ dóc tổ kia là ai.  Thì là “ai” thật. Rất là “ai.”  Trong thư anh gọi tôi là “nhỏ” và hỏi tôi học lớp mấy? Tôi  trả lời, tôi làm thợ may và không là “nhỏ,” tôi có một cái tên  đàng hoàng và cái tên rất hay. Tôi muốn được gọi bằng tên  của mình.

Anh vẫn không chịu, vẫn muốn gọi tôi bằng một cái tên  khác. “Hạnh” là tên anh hay gọi, có khi anh cũng gọi tên tôi  là...”mẹ”!? Sau này những bài thơ và tùy bút của anh, có  nhiều tên “Hạnh.” Tôi không phiền hà nữa, vì lòng cũng có  chút háo danh!

Sau một vài thư qua lại, anh dặn tôi: “T. đừng chờ thư anh  mới trả lời. Như phải chờ hai tuần mới có thư nhau, để đọc.  Anh mong thư T. lắm. Hãy viết và kể đủ thứ về T. và gửi đi  hàng ngày. Chúng ta hãy “viết thư” cho nhau. Đừng “trả lời”

thư nhau.”

Và như thế, tôi viết thư cho anh hàng ngày, và có thư anh  hàng ngày. Thư anh như có lửa, những dòng chữ yêu thương,  dồn dập, cuồng nhiệt... Thư nào của anh cũng dầy cộm, xếp  vội vã, thuồng vào bì thư, có khi không dán lại được.  Anh phả vào tôi, không là lời, là chữ...mà là lửa, là tình, là  cuồng nhiệt. Cứ một hai tháng anh lại xin được một chỗ của  các chuyến bay C-130 chở xác người về Huế, để thăm tôi.

Anh thường đùa, “hôm nay, máy bay có 10 thằng “nằm” và  3 thằng ngồi. (Một trong ba thằng ngồi đó là nhà thơ Kim  Tuấn, tác giả của “Anh cho em mùa xuân,” “Những bước  chân âm thầm”....mới “nằm” xuống năm ngoái.

Tôi yêu anh lòng hân hoan. Tôi yêu anh, lòng rói tươi,  rạng rỡ. Tôi xăm xăm bước tới, không âu lo, không đắn đo  tìm hiểu. ,.

Tôi yêu anh, tìm đến anh như chung quanh không người,  như chung quanh chỉ còn hai đứa. Tôi chỉ biết yêu và tôi hân  hoan nhận, ngập tràn, từ anh.  Tôi không tin trên đời có một người thiếu nữ yêu một người  đàn ông như tôi yêu anh.

Yêu cháy ngọn! Rực rỡ!

Cứ thế. Chúng tôi có với nhau ba năm. Ngày ra trường,  của tôi, anh bảo tôi chọn Pleiku, để anh từ Saigòn, lên thăm  cho gần. Tôi dự định, sẽ tiêu xài tằn tiện để sau một năm có  thể sắm được một chiếc xe jeep, khi muốn, có thể về Saigòn  thăm anh.

Cứ thế, nếu không có một lần tình cờ, tôi đọc được trên  một tờ báo Văn cũ, tin mừng anh thành hôn với Th. Ch. Ngày  thành hôn không xa trước ngày tôi viết thư làm quen anh.  Năm đó tôi hai mươi mốt tuổi, vẫn thường làm cái việc rất  dễ thương là, khi nào thấy trên báo có tên anh và nhà thơ  Thanh Tâm Tuyền, hai tên cùng một kiểu chữ, là tôi lấy kéo  cắt tên Thanh Tâm Tuyền, thành tên tôi, chỉ cần bớt một vài  chữ. Sau đó, dán sát tên anh và tên tôi lại. Việc làm cắt ghép  hai tên chúng tôi lại với nhau khiến tôi rất thú vị.  Tôi chưa có dịp kể điều đó với Thanh Tâm Tuyền thì ông  đã mất, vô cùng cảm ơn và tạ lỗi nhà thơ Thanh Tâm Tuyền  đã cho tôi cơ hội được là một phần của tên ông. Một cái tên  rực sáng trong văn học.

Tôi không muốn trở thành người phá gia cang kẻ khác.  Bản tính cương nghị cùng lòng tự trọng, tôi không nói với anh  một tiếng nào về những điều tôi biết. Tôi lặng lẽ quyết định  xa anh. Biến cố 30 tháng 4 đã giúp tôi làm được điều đó.  Tôi chạy từ Pleiku theo đoàn người di tản về Saigòn. Anh  từ Saigòn theo Phạm Huấn, đi ngược ra Nha Trang, tìm tôi.  Chúng tôi gặp nhau ngày 28 tháng 4 tại Saigòn. Anh cùng  với Hồ Trường An uống với tôi ly café cuối cùng ở cư xá  Thanh Đa. Tôi nhất định ở lại Việt Nam, mặc dù anh đã có  chỗ cho hai đứa cùng đi do một người giúp.

Tôi nhất định không đi vì trong tâm tâm nghĩ rằng, đây là  cơ hội tốt giúp tôi có thể xa anh.  Ba năm yêu nhau, thế là quá lắm cho một tình yêu Tôi  không thể theo anh dù chưa một lần tôi nhận một dấu hiệu  nào từ chị Th. Ch., người vợ của anh. Tôi không thể tiếp tục  mặc dù tôi thấy rõ một nửa thân thể của tôi bị chém xả.

Tôi ở lại, và anh không hề biết lý do.  Chúng tôi xa nhau mười tám năm. Anh trải qua rất nhiều  sóng gió. Phần tôi, nhớ thương anh khôn nguôi. Hàng năm,  đến ngày 30 tháng 4, tôi làm một mâm cỗ cúng anh vì lòng  luôn nhớ như in, cái hình ảnh Phạm Long hớt hơ, hớt hải đến  báo tin “Anh Lê đã bị bắn chết ở cầu Xa Lộ!” Từ đó, hàng  năm, 30 tháng 4 là ngày anh về để ăn với tôi bữa cơm tình  nghĩa. Tôi tin như thế, và muốn tin như thế.

Tôi giữ cuốn “Những truyện ngắn hay nhất của quê hương  ta,” trong đó có hình anh do Trần Cao Lĩnh chụp. Mỗi khi  nhớ anh, tôi lại mở sách ra nhìn. Sau này, tôi không cần tìm  số trang nữa, chỉ cần mở sách là tự động trang sách bật đúng  nơi có hình anh. Tôi không còn nước mắt để khóc khi nhớ lại  những gì anh dành cho tôi.

1992, anh gởi cho tôi một lá thư từ Mỹ. Tôi chỉ trả lời một  câu: “Hãy cứ để em như vậy, anh ơi! Đừng kéo em dạy nữa,  lâu quá! Em đã quen cảnh đứng bằng hai chân.”  Nhưng mà, một lần nữa, trong đời, anh lại nắm tay tôi,  kéo chạy. Kéo tôi chạy. Một lần nữa, tôi hớn hở, hân hoan,  liều lĩnh, rói tươi, mù lòa, chất ngất...  Tôi quen cách đứng bằng hai chân trong cái xã hội sau  1975, và giờ đây tôi cũng không chạy bằng hai chân, tôi vụt  thoát, lao vút...

Tôi lại viết cho anh, vẫn hàng ngày, những lá thư, không  phải là chữ trên đó mà là mồ hôi, nước mắt, và có khi cả  máu...

Anh lại viết cho tôi, những dòng chảy, cuồn cuộn.  “T. ơi, cố hiểu, cố nhớ lấy một điều, một điều thôi, có thể  không một ai thấy được T., như một viên ngọc cao quý từ  nhân phẩm, đến tâm hồn, đời sống. Điều đó, không có nghĩa,  anh cũng không thấy. 18 năm qua, khi lòng ta còn ở với  nhau, thì dù cho 180 năm nữa, cũng chẳng có một đổi thay  nào tẩy xóa được. Cho anh được phép ôm T. Trong anh, lòng  rất thơm mùi khế, cũ.

“Một điều nữa, cũng rất cũ, anh lập lại, trong anh, trước  sau nguyên vẹn tấm lòng yêu và quý, rất trân trọng với T.  thủy chung, trước sau bất biến. Cố sống tiếp những ngày chờ  đợi, cuộc đời kia, sẽ khác...”

Vẫn thế, vẫn như xưa cũ, dù hai đứa đã già, đã bầm dập,  đã đau đớn, lồi lõm. Chúng tôi vẫn yêu nhau, vẫn cuồng  nhiệt như xưa.

Mười tám năm qua, nay, dù cách trở, tôi vẫn hàng ngày ra  bưu điện gởi một lá thư đi Mỹ và nhận một lá thư từ Mỹ về.  Vẫn hàng ngày, 12 giờ trưa, anh gọi để kể, để nói những  chuyện thường ngày. Chúng tôi, như chỉ cần nghe được tiếng  của nhau, được thở hơi thở của nhau. Một người em của anh,  nhạc sĩ Trần Duy Đức đã thảng thốt: “Thượng sĩ ơi, Thượng sĩ bảo lãnh chị qua đi, còn không thì Thượng sĩ về, chứ gọi một tháng cả mấy trăm đồng tiền long distance, làm sao Thượng sĩ chịu cho thấu!”  Trần Duy Đức đâu biết anh đã về Việt Nam thăm tôi,  nhiều lần. Vài ba tháng một lần, để chúng tôi nhìn thấy nhau.  Tôi muốn nói một triệu lần với con gái tôi: “Nếu có một  ngàn kiếp sau, mẹ vẫn muốn là vợ của bố.”

Ngày đầu tiên đến Mỹ, ngày 19 tháng 8 -1994, anh đưa  tôi đến ngay tòa án để làm hôn thú, Anh nắm tay tôi, hai đứa  lập lại lời của vị đại diện chính quyền: “Chúng tôi.. dù sau  này bệnh hoạn, nghèo đói...”  Anh rưng rưng ôm tôi vào lòng: “T. ơi, anh nghèo quá,  không thể có chiếc nhẫn cho em!” Chúng tôi đã khóc với  nhau, như hai đứa trẻ. Những giọt nước mắt tưởng đã khô sau  18 năm xa cách.

Đời sống, thời gian đã lấy đi ở chúng tôi, tuổi thanh xuân,  đã lấy đi ở chúng tôi, những sợi tóc xanh, đã lấy đi ở chúng  tôi, ánh mắt sáng...  Nhưng vẫn thế, tình yêu chúng tôi dành cho nhau, như  anh nói: “...Vẫn thơm mùi khế, cũ.”

Tằng Tôn Nữ Hồng.

(12-2005.)



VIỆT NGUYÊN,

TÌNH BẠN VỚI DU TỬ LÊ.

Vào những ngày đầu năm, ở Saigon Nhỏ Quận  Cam California, tôi tình cờ đi trốn được cơn bão  mùa đông ở Houston để lái xe quanh quẩn, đi  qua các con phố ở Westminster và đi hết con đường Bolsa,  đại lộ của khu người Việt tị nạn.

Con đường Bolsa chạy về phía Bắc đến góc đường Beach  bên tay phải là nơi nằm nghỉ của những ông bạn gìa, nhà văn  Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, nhà báo Đỗ Ngọc Yến... Nhà  thơ Đỗ Qúy Toàn của tập “Cỏ và Tuyết” đã trốn đất trời  Canada nơi: “Đất lại hoang sơ trời lại rộng”, nơi có “Tuyết,  tuyết phủ đầy trái dất, Ai đang thắp một ngọn lửa hồng trên  sông”, nói với tôi rằng: “mỗi lần lái xe đi qua đây, anh dở  chiếc mũ để gọi là chào nhớ những người bạn cũ”. Còn tôi,  mỗi lần lái xe qua đây, tôi lại nhớ đến một Mai Thảo hay lên  giọng sau ly Cognac, một Mai Thảo đến Houston khi còn tờ  Văn Nghệ hơn mười năm trước: “Dạo này có viết gì mới cho  tao đọc không?”. Một Mai Thảo khật khừ và một Nguyên Sa  tháng 4 năm 1993, ngày Nguyên Sa ở Houston nói chuyện  triết lý. Một Nguyên Sa rất thản nhiên về cái chết và cuộc  đời. Một Nguyên Sa đùa cợt với Tam Đoạn Luận của Socrate:   “Đã là người ai cũng chếât, ta là người nên ta cũng chết”. Cái  tam đoạn luận hiển nhiên nhưng hình như chỉ áp dụng cho  người khác chứ không bao giờ xẩy ra cho chính mình. Nguyên  Sa cười cợt với triết lý, một triết lý “không giúp anh trở nên  người giầu có nhưng trở nên con người rất triết lý”.  Khác với nhà thơ Tú Xương, lúc nào cũng cay cú với  cuộc đời, ghét y sĩ dính dáng vào văn chương: “Văn chương  nào phải như đơn thuốc, Chớ có khuyên sằng chết bỏ bu!”.  Nhà thơ Du Tử Lê hơn mười năm trước, khuyến khích mầm  non văn nghệï lôi tôi vào con đường chữ nghĩa. Từ Bàn Viết  Houston, một cột mục mới trên tờ Văn Nghệ, tham dự vào  cuộc chơi nhưng không có một tham vọng về văn học như  các bậc thầy và đàn anh trong y học trước năm 1975 như  giáo sư Y khoa Trần Ngọc Ninh, đã đóng góp đều đặn cho tờ  Bách Khoa cùng những công trình nghiên cứu giá trị như  “Đạo Phật giữa chúng ta”, bác sĩ Y khoa Nguyễn Tuấn Phát  với cột mục “Cảm tưởng của người thầy thuốc” trên tờ Ngôn  Luận hay bác sĩ Trang Châu với “Y sĩ tiền tuyến” và bác sĩ  Ngô Thế Vinh với “Vòng đai xanh”, v.v...

Trong những ngày ở Saigon Nhỏ, chạy theo con đường  Bolsa về phía nam đến Santa Ana để thăm một người bạn  đang nằm giữa biên giới tử sinh, tôi chợt nhớ đến câu viết  của André Malraux: “Quá khứ là gì nếu không phải là câu  chuyện sống động về cuộc đời”. Cuộc đời sống động nhưng  qúa ngắn ngủi. Cuộc đời của con người trong bệnh viện  cống hiến những chất liệu, giầu có cho văn học như André  Malraux viết Lazarus khi ông đối diện với những ngày cuối  cuộc đời với cơn bệnh trong tình trạng hấp hối và cái chết.  Một André Malraux và George Orwell dùng bệnh viện và  những người bệnh trong tình trạng hấp hối để dẫn chứng cho  kiếp người.

Từ Bàn Viết Houson, trên tờ Văn nghệ năm 1993, đi vào

con đường Y khoa và văn nghệ, xưa như Louis Pasteur vừa

là nhà khoa học và là triết gia vừa là nhà văn, từ bài viết về

“ngừa bệnh dại” cho đến đoạn văn đọc khi ông về thăm căn

nhà cũ sau khi ông đoạt giải Nobel, ca tụng công ơn cha mẹ

đã là những áng văn bất hủ đã để lại trong kho tàng văn

chương thế giới. Câu nói của ông: “Nhìn dưới kính hiển vi

thấy những sinh vật vô cùng nhỏ, khi nhìn lên bầu trời bao la

lại thấy những vật vô cùng to lớn mới thấy vũ trụ được cấu

tạo bởi một bàn tay huyền diệu” là một câu triết học của con

người khoa học.

Sau Louis Pasteur có nhà bác học Christian Barnard với

cuốn “Y khoa thực nghiệm” đã dựng nên nền tảng khoa học

và triết học Tây phương. Tiếp theo, bác sĩ Alexis Carrel, nhà

giải phẫu mạch máu, giải Nobel, là tác giả cuốn “Homme

cet inconnu” một cuốân sách để đời cho y khoa và văn học.

Nhà văn nổi tiếng Sommerset Maugham, nổi tiếng với cuốn

Of Human Bondage (Kiếp người, 1915) đã bỏ hẳn nghề y sĩ

sản khoa để theo đuổi sự nghiệp văn chương. Ông viết dễ

dàng nhờ những kinh nghiệm của cuộc đời y sĩ vì có gì huyền

nhiệm hơn tử sinh?

Có gì trầm thống hơn nỗi đau khổ của con người? Phật

thấy tứ khổ sau chuyến du ngoạn ngoài hoàng thành còn

người y sĩ nhìn thấy tứ khổ mỗi ngày và trong suốt cuộc đời y

sĩ. Những nỗi đau khổ của kiếp người và sự tàn tật của cá

nhân ông đã giúp Sommerset Maugham xử dụng những chất

liệu giầu có và đẹp đẽ trong các tác phẩm khác của ông như

Moon and six pence, The Razor’s edge và The Magician.

Có thể nói, nếu không có nhà thơ “Ở chỗ nhân gian không

thể hiểu” thì đã không có cột mục Từ Bàn Viết Houston. Sau

khi tờ Văn Nghệ đình bản, có lẽ một phần vì lời hứa sau ly

Cognac quá độ giữa tôi và ông chủ nhiệm Trọng Kim, cột

mục Từ Bàn Viết Houston được chuyển sang Ngày Nay. Cái

tài làm thơ dễ dàng của Du Tử Lê ảnh hưởng đến cách viết

của tôi.

Hơn 13 năm trước, khi gặp Du Tử Lê, tôi biết được cả hai

chúng tôi đều có cùng một tật do trời sanh ra. Tật sáu ngón,

cùng dư ngón cái ở bàn tay phải. Người ta hay nói, có tật có

tài. Điều đó đúng với Du Tử Lê, một người nhiều tài và nhiều

tật còn tôi ngược lại ít tài và nhiều tật. Một trong những tật từ

nhỏ không bỏ được là quên nghề nghiệp đi la cà với giới văn

nghệ và mê sách vở. Cũng chỉ vì hai tật này mà tôi gặp Du

Tử Lê qua ông Trọng Kim.

Ông thi sĩ “đi với về cùng một nghĩa như nhau” chỉ khác

tôi ở cái tật nghịch ngợm. Bố của thi sĩ, vì tật sáu

ngón tay, đã dăt cho ông con tên Lê Cự Phách, ngón tay lớn,

còn cha tôi thực tế hơn khi tôi lên năm tuổi trước khi đi học

được ông đem vào bệnh viện Chợ Rãy để cắt đi cái ngón tay

dư nằm cạnh ngón tay cái dài hơn ngón giữa vướng víu khi

cầm viết. Cái ngón tay dư đó được tôi cấât vào trong chai

alcohol, bỏ trong túi quần mỗi ngày đến trường. Nhờ con chó

Jacquot to lớn và ngón tay dư đó mà tôi tránh được cảnh các

ông con nít hàng xóm bắt nạt cho đến một ngày tôi bắt buộc

phải ném lọ cồn chứa ngón tay vào mặt ông nhô con bắt nạt

tôi, lọ cồn vỡ, ngón tay bị bạn bè đá như đá bóng thì ngón tay

dư đó mới rời khỏi hẳn cuộc đời tôi. Nó không đi theo tôi như

cái tên Lê Cự Phách đi theo Du Tử Lê suốt cuộâc đời.

Du Tử Lê làm thơ rất dễ dàng như “Đêm ở biển Galvleston

với Việt Nguyên, tưởng thấy Vũng Tàu, cũ” được Lê làm

ngay sau khi chúng tôi nằm nói chuyện với nhau, một đêm,

tiếng sóng Galveston dội về mơ màng như tiếng sóng Vũng

Tàu. Tôi với Lê nhớ về những kỷ niệm cũ, những đêm trăng,

những cây bàng trên đường phố ở Bãi Trước về ngọn Hải

Đăng trên núi khác hẳn ngọn Hải Đăng Mù của Mai Thảo ở

Pula Besar, về những người tị nạn vượt biên... Hai ngày sau

tôi được xem bản thảo một bài thơ đúng như tâm trạng của

một đêm bên bờ biển:

“Dễ chừng hai mươi năm

Chúng ta đã quên khuấy những cây bàng bãi trước

Sự thật chẳng còn gì để nói thêm về biển

Ngoài việc hãy dựng ngay đài kỷ niệm

Làm trại tạm cư cho trăm ngàn linh hồn uổng tử

Tổ quốc thở ngoài ta, nói gì không giả dối

. . . . . .

Sự thật chẳng có gì để nói thêm về biển

Ngày em cũng quên

Buổi sáng. Bãi sau. Ông Tàu già hiện thân thùng nước

lèo,

Tô hủ tiếu

Những sợi bánh em nút ngon lành.

Nhiều năm sau nữa, những trận mưa ở thành phố

Galveston, đổ về vào nửa đêm, ở đó tôi vói những người bạn

khác trong những cơn gió mịt mùng vẫn nhớ đến những câu

thơ chót của Du Tử Lê trong bài thơ ấy:

“Sự thật chẳng còn điều gì để nói thêm về biển

Một trận mưa nửa đêm

Đủ vùi chôn hết thảy

Nếu ta được tái sinh

Xin làm: Đêm. Biển ấy”

Khi tôi viết về một căn nhà của tôi, một ngày đã bỏ đi,

một ngày lại được trở về. Khi tôi viết về bà mẹ, bà mẹ già

của Du Tử Lê lại đến với tôi. Hình như Du Tử Lê làm thơ về

mẹ anh cũng giống như mẹ tôi và những bà mẹ khác. Một

người mẹ già suốt đời cần cù rồi cuối cuộc đời cũng trắng

tay.

“Trí nhớ tôi là căn nhà nằm ven sông Đáy

Ngôi nhà có rất nhiều cửa sổ

Có cánh cửa ngó xuống nỗi lầm than của mấy đời chạy

giặc”.

Một bà mẹ chất phác và ngỡ ngàng, mất hẳn một ngôi

nhà cũ quen thuộc, bà mẹ của Lê đã làm tôi nhớ về bà cụ mẹ

của vợ tôi vừa qua đời:

“Những khuya tỉnh dậy

Mẹ tôi chỉ băn khoăn có một điều: cửa giả

Bà sợ chúng tôi quên khóa cửa

Kẻ trộm sẽ vào lấy gạo, lấy cơm

Hơn hai mươi năm ở đây

Chưa bao giờ mẹ tôi tin rằng bà đã ra ngoài đất nước

Hai mươi năm không thật

Hơn hai mươi mẹ tôi sống như còn ở quê nhà”.

Bà mẹ của Du Tử Lê như bà mẹ Việt Nam của nhạc

Phạm Duy, nhưng ở trong thơ của Lê, bà mẹ Việt Nam đi

theo tôi thân thiết hơn như một linh hồn đất nước còm cõi:

“Trong ký ức tôi

Chỉ có một mẹ già

Một buổi sáng bước ra

Ngỡ ngàng đặt tay trên lồng ngực lép

Lồng ngực Việt Nam non thế kỷ

Lòng ngực buồn như đất nước xa

Lồng ngực thở bao năm. Lồng ngực Phủ Lý, Bắc Cạn,

Nho Quan, Đồng Quan, Đồng Văn, Cống Thần, Chợ Đại

Lồng ngực hom hem vì dứt ra cho con

Những chuyến xe nửa đường nửa đoạn

Những chuyến xe chưa kịp về sông Đáy đã nghe buồn

trên những trở lui.” (Thơ Mẹ Du Tử Lê)

Và, cũng những ngày ở quận Cam, tin tức quê nhà khiến

tôi nhớ hai câu thơ cuối trong bài “Đêm Nhớ Trăng Saigon”

của Du Tử Lê nằm in trong đầu tôi lần về Saigon, đi qua

nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa:

“Nhớ nghĩa trang quê bạn bè

Nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường”

Ở chỗ này, nhân gian đều hiểu tấm lòng của Du Tử Lê.

Việt Nguyên

(Bán nguyệt san Ngày Nay, Houston, TX,

số đề ngày 1 tháng 2-07)



Vũ Thư Hiên

Du Tử Lê, Một Cõi Cho Mình


Tôi kính trọng những nhà thơ. Trong mắt tôi, họ là những người dũng cảm bậc nhất. Hoặc gan lì, cũng bậc nhất luôn. Giữa thời thiên hạ tối tối dán mắt vào ti vi, sáng sáng lướt rao vặt trên báo chợ, ngốn tiểu thuyết trinh thám trên xe điện ngầm, trên máy bay...mà vẫn cứ có những nhà thơ. Những nhà thơ này vẫn bình tĩnh làm thơ được, mới lạ. Ngó vào số lượng in ở trang cuối mỗi tập thơ lại càng thêm kính phục họ. Các nhà thơ hậu duệ của Beaudelaire, Verlain, Apollinaire, của Goethe, Schiller...đều ngán ngẩm khi nói đến tình trạng thê thảm của sự đọc thơ bây giờ – Đời thuở nhà ai mà một tập thơ bán được một ngàn bản đã là của hiếm trên đất nước đông đúc bảy tám chục triệu dân cơ chứ. So với họ, các nhà thơ của chúng ta ở hải ngoại còn dũng cảm hơn nhiều. Và cũng may mắn hơn nhiều, nếu so số lượng xuất bản trên tỷ lệ số dân. - Dũng cảm gì đâu. – Du Tử Lê cười hiền lành – Không hề. Gàn dở thì đúng hơn, ông ạ. Bọn làm thơ chúng tôi, chạy không nổi khỏi cái nghiệp, là sự chìm đắm vừa đau đớn, vừa êm đềm, một thống khoái khó hiểu, đối với nhiều người, không trừ chính kẻ làm thơ...

Chúng tôi ngồi ở một bàn ngoài của một quán cà phê với một loạt ghế trên hè, rất Paris, ngay trước tượng Thần Tự Do giương cánh trên đài kỷ niệm Bastille. Quán cà phê bình dân này không phải là La Rotonde ở Montparnasse, nơi những danh nhân lịch sử của nước Pháp từng lai vãng, nhưng vào buổi chiều thu ấy cũng đông nghịt, bên trong không còn bàn trống. Du Tử Lê xuề xòa, nói ngồi ở các bàn ngoài thú hơn, giống ở Sài Gòn hơn. Vừa nhàn nhã nhâm nhi ly expresso, ngắm cảnh xe cộ bá tính tập nập ồn ào trên quảng trường ghi dấu cuộc cách mạng vĩ đại 1789, vừa bàn về văn chương thơ phú, thật thú vị.

Hình như các nhà thơ đều hiền lành. Tôi chưa gặp một nhà thơ dữ tợn nào. Những người dữ tợn không làm thơ. Tôi đòi Du Tử Lê đọc một bài thơ mà anh ưng ý hơn cả. Du Tử Lê nhìn tôi như cách người ta nhìn một con quạ...trắng. - Bài nào mình cũng thích, nhưng chỉ trong lúc đang làm ra nó thôi. Bài ưng ý nhất là bài mình sắp...làm ông ạ. Ấy là người đã có một lượng tác phẩm đồ xộ, hơn bốn chục cuốn, nếu tôi không lầm, nói thế. Nhưng chiều tôi, Du Tử Lê đọc se sẽ vài câu:

“đêm về trên bánh xe qua
“nhớ tôi xa lộ, nhớ nhà Hàng Xanh
“nhớ em, kim chỉ khíu tình
“trưa ngoan lớp học, chiều lành khóm tre
“nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
“nắng Trương Minh Giảng. Lá hè Tự Do
“nhớ nghĩa trang - quê bạn bè
“nhớ pho tượng lính: buồn se bụi đường.
“đêm về theo vết xe lăn
“tôi, trăng viễn xứ. Sầu em bến nào?...”

Nhớ Sài Gòn khi Paris sống động trước mặt là trúng lắm. Chẳng có nơi nào gợi nhớ những thành phố quê hương bằng Paris. Cách chúng tôi mấy bước là cái nắp cống bằng gang in hệt những nắp cống trên hè Hà Nội hay hè Sài Gòn, đọc những hàng chữ trên nắp cống mới biết chúng cùng một lò sản xuất. Mấy chiếc lá vàng lềnh bềnh trên dòng nước rãnh dọc hè, y như ở Hà Nội. Người đọc biết đến Du Tử Lê không phải với tư cách nhà thơ lục bát truyền thống, hoặc thơ mới các kiểu hàng loạt. Du Tử Lê được thiên hạ biết đến, được nhớ đến, là nhờ những bài thơ không vần với những chấm, phẩy, gạch nối, ngoặc đơn, ngoặc kép và những ký hiệu toán học. Những cái đó là tốt, là xấu, là hay, là dở, tôi không bàn. Trong địa hạt này tôi là kẻ ngoại đạo. Nhưng điều tôi thấy rõ là Du Tử Lê đã và đang làm một cái gì đó chưa từng có. Anh là kẻ khai phá. Cái mà anh đang khai phá rồi đi đến đâu là chuyện về sau. Nhưng ngay bây giờ tôi đã bắt gặp đâu đó những người theo chân anh. Như thế, anh không hề đơn độc.

“như / con sông / sẽ không ra biển!??
“nhan sắc đi / về ngang vết thương.
“thịt / da từng tấc chăm, nuông nghiệp –
“mỗi ngón tay:
“- thơm một nỗi niềm.
“như mưa / nắng / sẽ không cư, ngụ!?!
“lọn tóc xin tình mãi thiếu niên –
“nuôi vai chia nhánh vào ly, biệt...
“thương, nhớ nào xanh(?)
“những mặt bằng!?!!! “

Tôi không hỏi Du Tử Lê vì sao những dấu chéo (/) đặt giữa những chữ “như / con sông / sẽ không ra biển!??”; vì sao giữa từ kép “ly biệt” lại phải có một dấu phẩy ngăn cách để thành “ly, biệt” ; cũng như tôi không hỏi vì sao sau câu “như / con sông / sẽ không ra biển!??” lại có một dấu than với hai dấu hỏi, mà ở câu “thương, nhớ nào xanh(?) (xuống dòng) những mặt bằng!?!!!” sau một dấu than, một dấu hỏi, lại có đến ba dấu than nữa? Tôi không hỏi vì không muốn Du Tử Lê phải dằn lòng cắt nghĩa cho tôi rằng thơ là cái để mà cảm, chứ không phải cái để mà lý giải. Trong sự cảm ấy, tôi thấy, hoặc lơ mơ hiểu dường như Du Tử Lê muốn dùng những ký hiệu toán học, những dấu biểu cảm ngữ nghĩa như một cách chơi nhạc, để ngắt chữ ngắt câu, để nhấn mạnh, để khêu gợi, để bắt người đọc đi tiếp con đường suy tưởng của/cùng anh (tôi dùng một dấu chéo theo cách Du Tử Lê rồi đấy). Cái “thi tại ngôn ngoại” của Du Tử Lê phong phú, nó gọi ta bước qua những chữ cụ thể để lướt đi xa hơn nữa trong liên tưởng, như từ một nốt nhạc nẩy lên ta nghe vang vọng một toàn hài.

Cái mà người đọc cảm được, thấy được trong thơ Du Tử Lê là những cảm giác du Tử Lê cũng là cảm giác của mình, dù đó là những suy tưởng về ý nghĩa thời gian, tình nhân loại, những niềm vui hồn nhiên, những phút buồn vô cớ.

“rất nhiều khi tôi khóc một mình
“những hạt lệ không giúp ai no
“những hạt lệ không làm ai đỡ đói,
“nhưng nó vẫn là những giọt lệ
“chính nó,
 “một mình –
“không có tôi đứng cạnh.”
“thay vì cloning cho tôi con cừu
“hãy tạo sinh vô tính cho tôi buổi chiều,
‘quê cũ.”
“một lần trong đời nhau
“đêm, nghìn sâu tiếng gọi
“ngọt ngào gối, chăn đau
“thịt, da gào kiếp, mới
“soi mặt gương đời, sau
“giọt máu còn chói lọi.
“một lần thân thể nhau
“tôi rạng ngời: địa ngục!?!”
“nuốt trộng chính mình, như ngọn lửa
“cháy một tôi: kẻ tự lột da
“nhìn em: chảy máu trong yên, ắng
“nghe giữa bọng cây: rộ đóa hoa.”

Tôi viết: Du Tử Lê không đơn độc trong sáng tạo, trong khai phá một lối đi mới cho chính anh, độc đáo trước hết cho chính anh, không cần ai chấp nhận. Cũng cái cung cách như thế ở trong nước có Dương Tường, một hồn thơ gần gụi với Du Tử Lê. Dương Tường cũng khai thác âm hưởng của những con chữ trong thơ, với những hàm ý không dễ hiểu, và dường như không cần ai hiểu. Dương Tường có những câu thơ thế này:

 “tôi nhìn nước Mĩ
“qua em mềm mại phi lí
chéo
“qua phụ khoa em hơ hớ
chéo
“qua nhục dục em ngao ngán
chéo
“qua thân hình em ngạo ngược
chéo
“qua năng động em vô vọng
chéo
“qua nụ bè he em bối rối
chéo

Có trời hiểu những chéo in đậm nọ mang nghĩa gì. Trong tập “Thơ Dương Tường” (xuất bản năm 2005) có một câu “chẳng thể nào xuất” với hai gạch chéo hình chữ V nằm ngang (<) đi tiếp chỉ vào hai chữ “tinh” và “thần” để ta có thể đọc theo hai dị bản “xuất tinh” và “xuất thần”, hoặc gộp cả hai lại: xuất tinh thần; trông cứ như một công thức cấu tạo phân tử. Có khác gì Du Tử Lê với những ký hiệu toán học đâu.

Trong tình hình nhiều năm mọi kênh thông tin trong ngoài bị đóng kín, hai người không đọc thơ của nhau, nhưng Dương Tường và Du Tử Lê đều có những hoài bão khai phá như nhau và lối khai phá khá giống nhau. Về sự sử dụng nhạc tính trong thơ hai người hơi khác nhau chút ít. Có thể nói nếu thơ Du Tử Lê là euphonic thì thơ Dương Tường thiên về cấu trúc dodecaphonic. Dù sao thì ở đdây ta cũng thấy hiện tượng những chí lớn gặp nhau. Ở đây vấn đề muôn thuở đặt ra: ở đâu, cái cảm giác chừng mực của sự biểu cảm? Chưa tới thì không được. Một chút quá là hỏng.

Nhưng với chủ thể của sự sáng tạo Du Tử Lê vấn đề trên bất thành vấn đề. Tôi quen Du Tử Lê chưa đủ lâu để có thể nói rằng tôi hiểu anh thật nhiều. Nhưng tôi dám nói như thế từ những quan sát của mình qua những lần gặp gỡ bao giờ cũng ngẫu nhiên và hồn nhiên.

Khi tôi hỏi Du Tử Lê:

- Khi viết ông có nghĩ tới người sẽ đọc thơ ông không?
- Hoàn toàn không.
- Vậy ông nghĩ gì khi làm thơ?
- Tôi chẳng nghĩ gì cả. Một tứ thơ chợt đến, và tôi cầm lấy bút.

Thế đấy. Du Tử Lê không làm thơ, có thể hiểu như thế.
Thơ tự đến với Du Tử Lê, như cái duyên số phận, có đi tìm cũng không thấy, muốn chế tạo cũng không được. Trong Du Tử Lê mọi điều kiện cần thiết cho cho thơ đã có sẵn để cho thơ nẩy nở. Cái sự khai phá mà tôi nói đến ở trên cũng nằm trong cái duyên ấy, không phải do một ý chí nào. Chính vì vậy mà Du Tử Lê làm thơ không quan tâm đến đối tượng sáng tạo, không cần biết họ hiểu được hay không hiểu, cảm được hay không cảm được.

Du Tử Lê làm thơ như Du Tử Lê thở, như Du Tử Lê cười, Du Tử Lê khóc, nói tóm lại, như Du Tử Lê sống.

Trong cõi riêng của mình.

Vũ Thư Hiên,

(Feb. 07.)

 


VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG,

ĐÊM, NHỚ TRĂNG SÀI GÒN.

Sau ba năm lưu lạc nơi xứ người, bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn của nhà thơ Du Tử Lê sáng tác năm 1978, mang nỗi buồn xót xa của kẻ mất quê hương, nhớ lại hình ảnh xa xưa với bao kỷ niệm đã in sâu trông tâm khảm. Sau giờ tan sở ca hai ở hãng Rockwell International tại Costa Mesa, lái chiếc xe cà rịch cà tang trên đường về nhà giữa đêm trăng thanh gió mát cùng nỗi buồn thê lương nơi đất lạ quê người, thay vì buông tiếng thở dài, nhâm nhi dòng suy tưởng trong ý thơ hiện về “theo bánh xe lăn”. Và, Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn.

“đêm về theo vết xe, lăn
tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên, vàng
tìm tôi đèn thắp hai hàng
lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
ngỡ hồn tu xứ mưa bay
tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
đêm về theo bánh xe, qua
nhớ tôi Xa Lộ; nhớ nhà Hàng Xanh
nhớ em kim chỉ khứu tình
trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
nắng Trương Minh Giảng. lá hè Tự Do
nhớ nghĩa trang: quê bạn bè
nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
đêm về theo vết xe, lăn
tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?”.

Năm 1979, nhạc sĩ Phạm Đình Chương vượt biển, năm 1981 định cư tại Hoa Kỳ. Tình cờ bắt gặp bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn trên trang báo, ông biến ngôn ngữ trong thi ca vào cung bậc và ca khúc mang tựa đề bài thơ trở thành ca khúc tuyệt vời. Khởi đầu với tiếng hát Lệ Thu, trong thời điểm đó, mịt mù xa cách, ngậm ngùi với thân phận, cho hồn quyện vào giai điệu và lời ca. Và, theo dòng thời gian, nơi nắng ấm Cali, tiếng hát Thái Thanh, Quỳnh Giao, Tuấn Ngọc, Ý Lan, Vũ Khanh, Trần Thái Hòa, Lê Hồng Quang... đưa ca khúc vào tâm hồn người thưởng ngoạn trên mọi miền đất nước. Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ tài hoa phổ thơ, để lại cho đời nhiều tình khúc quen thuộc, bất tử. Tuyển tập Mộng Dưới Hoa gồm 20 Bài Thơ Phổ Nhạc của Phạm Đình Chương do trưởng nam của ông, ca sĩ Phạm Thành ấn hành tại Hoa Kỳ năm 1985.

Khởi đầu với ca khúc Mộng Dưới Hoa - thơ Đinh Hùng, từ năm 1957. Và, từ đó với Màu Kỷ Niệm - thơ Nguyên Sa, Nửa Hồn Thương Đau, Dạ Tâm Khúc, Bài Ngợi Ca Tình Yêu - thơ Thanh Tâm Tuyền, Người Đi Qua Đời Tôi - thơ Trần Dạ Từ, Đôi Mắt Người Sơn Tây - thơ Quang Dũng, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội - lời Hoàng Anh Tuấn... Với dòng thơ của Thanh Tâm Tuyền, ca khúc Đêm Màu Hồng còn mang tên phòng trà nổi tiếng tại Sài Gòn vào năm 1967, hằng đêm, được mở đầu và kết thúc chương trình. Bóng dáng ca sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) vừa nghệ sĩ, vừa phong trần, trong ánh đèn màu, trong men nồng, cất tiếng hát trầm ấm... thu hút người thưởng ngoạn lạc vào nơi chốn xa xăm. Cuộc tao ngộ giữa thơ và nhạc với Du Tử Lê và Phạm Đình Chương như định mệnh. Ca khúc đầu tay khi định cư tại Cali với Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn và ca khúc cuối cùng với Quê Hương Là Người Đó cho đến ngày từ trần vào tháng Tám năm 1991.

Bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn được ấn hành trong Thơ Tình Du Tử Lê là tập thơ đầu tay ở hải ngoại trong năm 1984, và cũng là thi phẩm thứ sáu. Kể từ năm 1957 đến nay, tròn nửa thế kỷ, Du Tử Lê cho ra đời khoảng mười lăm tập thơ. Nhiều bài thơ đã được các nhạc sĩ Anh Bằng, Phạm Duy, Từ Công Phụng, Trần Duy Đức, Phan Ni Tấn, Đăng Khánh, Ngọc Trọng, Hoàng Thanh Tâm, Lê Văn Thành, Phan Nguyên Anh, Hoàng Đình Bình, Nguyên Ngọc... phổ nhạc. Và, nhiều bài viết nói về tác giả, tác phẩm của Du Tử Lê ở hải ngoại vì vậy chỉ đề cập về bài thơ qua dòng nhạc của Phạm Đình Chương.

Năm 1971, Phạm Đình Chương phổ thơ Du Tử Lê với ca khúc Khi Cuộc Tình Đã Chết và đúng 10 năm sau, nhạc sĩ bắt gặp dòng thơ mang cùng tâm trạng với nhau để dệt thành ca khúc. Du Tử Lê cho biết, là nhạc sĩ tài hoa với tài nghệ phổ thơ nhưng bài thơ Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn nằm trên chiếc dương cầm những sáu tháng. Bài thơ theo thể lục bát nên muốn phá thể cái âm điệu đó để chuyển sang giai điệu khác nên “dây dưa” như vậy. Nhà văn Mai Thảo thấy vậy, nói, vất mẹ nó đi, Phạm Đình Chương đáp, biết mẹ gì về âm nhạc mà nói. Và, sau đó, đứa con được chào đời. Tác giả giữ được hồn và câu thơ cho ca khúc. Chỉ có vài lời được biến đổi để phù hợp với cung bậc. Câu thơ “đêm về theo vết xe, lăn - tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?” chuyển thành “Đời tan, tan nát chiêm bao...”. Câu thơ “nhớ nghĩa trang: quê bạn bè - nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường” được chuyển thành “Nhớ nghĩa trang xưa, quê hương bạn bè...”. Với bài thơ lục bát nầy, có nhạc trong thơ, nhưng nhạc sĩ biến âm điệu thăng hoa, bay bổng theo từng cung bậc để thơ và nhạc “xe tơ kết tóc”.

Nỗi nhớ trong thơ và nhạc của Du Tử Lê và Phạm Đình Chương, có lẽ, trong giây phút nào đó nơi chốn nầy, cũng là tâm trạng của nhiều người. Nắng ấm Cali, đất lành chim đậu... nghe thật dễ thương, quyến rũ như thôi thúc con người ly hương. Hơn một nghìn năm về trước, hình ảnh mà nhà thơ Hạ Tri Chương bày tỏ khi “nắng hạ gặp mưa rào, đất khách gặp người quen” luôn luôn ám ảnh trong lòng mọi người. Với đấng mày râu, hai câu thơ của ông “Mạc mạn sầu cô tửu, nang trung tự hữu tiền” trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Hồi Hương Ngẫu Hứng quá chí lý, tội gì ngồi nhâm nhi đơn chiếc, có chút đỉnh tìm bạn cùng vui, không còn gì bằng vùng đất nầy. Thế rồi, ngày qua ngày, đất lành biến thành dữ, mất tên Sài Gòn rộng lớn ở quê hương, tạo dựng tiểu Sài Gòn nơi đất khách. Và, không biết ai đặt cho hỗn danh “chốn gió tanh mưa máu” nghe mà ớn lạnh.

Ai đã quen với một thời bom đạn, ai đã từng cam chịu cảnh nghiệt ngã tang thương, quằn quại dưới ách thống trị của chế độ độc tài, đảng trị thì dưới bầu trời tự do, sá gì với cái hỗn danh đó mà ngao ngán? Nếu cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày trước có mỉa mai cũng đành cam chịu vì đã “đi một đàng, học một sàng khôn” rồi thì làm người khôn luôn để “ở chốn xao xao” cho khỏi cảm thấy cô đơn trống vắng khi “lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây”, không làm thơ mà làm thinh thì buồn đứt ruột. Sinh hoạt ở Sài Gòn ồn ào, xô bồ cả ngày lẫn đêm. Ở tiểu Sài Gòn nầy lại khác. Khi màn đêm buông xuống mang theo sinh khí sôi động, náo nhiệt chìm dần vào bóng đêm. Đêm rằm tháng Bảy, cùng Du Tử Lê, Hoàng Sỹ, ngồi nhâm nhi ly cà phê ở Café de Paris trên đại lộ Bolsa, tiểu Sài Gòn. Nhìn vầng trăng tròn, nghe ca khúc Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn, bỗng nhớ lại ngày tiễn biệt nhạc sĩ Phạm Đình Chương về cõi xa xăm cách đây 16 năm.

Ban ngày oi bức, buổi tối trăng thanh gió mát, ngồi dưới mái hiên phì phà điếu thuốc, trò chuyện cùng bằng hữu, nghe nhạc, ngắm trăng, tìm lại hình ảnh xa xưa... Du Tử Lê trầm ngâm như ôn lại hình ảnh ba thập niên về trước. Anh tâm sự, lúc đó, không bao giờ nghĩ sẽ có ngày trong khung cảnh như vậy cùng bằng hữu. Bao nhiêu thay đổi, kẻ mất người còn, còn mang hơi thở, còn sống với kỷ niệm. Và, Sài Gòn hình ảnh của Sài Gòn năm xưa vẫn là Sài Gòn muôn thuở. Thi phẩm cuối cùng ở trong nước Đời Mãi Ở Phương Đông, hình ảnh Sài Gòn và xa lộ:

“Sầu người kéo bước tôi lui
Ngày trên núi gởi về xuôi mắt rừng”
(Khi Ở Pleiku Nhớ Sài Gòn)

 “Ở Đây, người có thiên đường
Có ngôi mộ nhỏ, có hồn vấn vương
Có đau đớn khắc trên tường
Có tôi đã gởi thịt xương sang người”
(Khi ở Xa Lộ)

Chỉ vài ngày xa cách Sài Gòn, Du Tử Lê đã gởi niềm thương nhớ và ở xa lộ “có hồn vấn vương” vì vậy khi lưu lạc nên nầy bờ đại dương, mịt mù xa cách, làm sao quên được? Sau ngày nhạc sĩ Phạm Đình Chương vĩnh viễn ra đi, tập thi phẩm “Đi Với Về, Cũng Một Nghĩa Như Nhau” của Du Tử Lê, bài “Thơ ở phạm đình chương”, như lời tâm sự:

“có dễ chưa một thời đại nào
lại mang nhiều hạt mầm
hoan lạc
và khổ đau
như thời đại chúng ta...
... sách vở chẳng bao giờ tìm được
tung tích đại bàng
cất cánh về hư vô
chói lọi...
... đã thuộc về ngoại sử
sự mất tích của Hoài Bắc.
như dấu chấm hết nơi cuối
những nhạc phẩm Phạm Đình Chương
một ngày trong tháng tám”.

Với, Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn. Với, mối lương duyên giữa thơ và nhạc, người về cõi mây trời, người còn lại nơi dương thế, và, một ngày nào đó chỉ còn lại hồn thơ nét nhạc lưu lại trần gian. Tròn nửa thế kỷ, từ những bài thơ đầu đời như Thú Tội năm 1957 đến nay Du Tử Lê đã sáng tác trên một nghìn bài thơ, và Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn được in lại trong tuyển tập Thơ Du Tử Lê toàn tập 2 (1975-1993), tác phẩm 46, đánh dấu 50 năm sáng tác thi ca của anh. Mười hai thế kỷ về trước, bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt Tĩnh Dạ Tư của Lý Bạch đã để lại hậu thế hai câu thơ trác tuyệt:

“Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương”

Trăng và cố hương trong thơ Du Tử Lê và dòng nhạc của Phạm Đình Chương cùng nỗi niềm và tâm trạng của người xưa có lẽ gắn liền với “giai đoạn lịch sử” của đất nước.

Vương Trùng Dương

Little Saigon, 8-2007

 


MỤC LỤC TUYỂN TẬP

DU TỬ LÊ / NĂM MƯƠI NĂM.

- hội vhkhvn, lời nói đầu. 7.

- cổ ngư, khúc ca riêng của chàng, biến tấu khúc # 3. 11.

- phụ bản hồ thành đức. 22.

- cung trầm tưởng, ngôn ngữ và không gian thơ du tử lê. 23.

- đa mi, đứa con nghìn năm tuổi hoang vu. 31.

- đoàn kế tường, đêm saigòn ngồi nhớ du tử lê. 35.

- đinh cường, chân dung tháng 10- 2007, du tử lê và

hoa thuốc phiện. 43.

- đặng mai lan, nỗi buồn của Lá. 47.

- đỗ quý toàn, thi sĩ có những câu thơ thành ngôn ngữ

hàng ngày. 59.

- hoàng đình bình, như một lời tạ ơn. 65.

- lê huy oanh, kẻ nhận lãnh sứ mạng rao giảng

phúc âm buồn. 69.

- phụ bản đỗ trung quân. 70.

- lê vương ngọc, một tổng hợp luận về du tử lê:

phong cách và sáng tạo. 83.

- mạch nha, mỗi lần du tử lê xuất hiện,

tôi thắp một nén nhang cho Hạnh. 119.

- phụ bản đinh cường.120 .

- nguyễn đức tùng, du tử lê, mẹ, và trường ca.129.

- nguyên sa, từ chiều dọc thi ca Việt Nam, tới du tử lê. 151.

- nguyễn huy tưởng, du tử lê và triết lý đông phương. 159.

- nguyễn linh quang, những mảnh rời, tôi- riêng. 171

- nguyễn mạnh trinh, “qua môi em: tôi thở biết bao đời”. 183.

- nguyễn ngọc bảo, 50 năm ấy bây giờ là đây.191.

- nguyễn văn tuấn, hãy hỏi chúa đi, rồi em sẽ hay. 213.

- phụ bản hồ thành đức. 232.

- nguyễn xuân vinh, đao pháp trong thơ văn du tử lê. 233.

- phương hoa, cảm ơn những bài thơ tình của anh. 243.

- phạm kim, du tử lê, chất đầy kỷ niệm,

mang theo trên đường về. 247

- tạ tỵ, du tử lê, nhà thơ của những khám phá. 253

- trần cao tường, một thoáng bâng khuâng

với thơ du tử lê. 263

- phụ bản đinh cường. 264

- thiện giao, với một người rất “xa” nhưng không “cách”. 275

- trường đinh, những dặm trường thi: chân dung du tử lê. 279

- tằng tôn nữ hồng, vẫn thơm mùi khế, cũ. 287

- phụ bản hồ thành đức. 296

- việt nguyên, tình bạn với du tử lê. 297

- vũ thư hiên, du tử lê, một cõi cho mình. 307

- vương trùng dương, đêm, nhớ trăng saigòn. 317

- muc lục. 327

Ấn phí: hai mươi mỹ kim



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 8864)
Loạt bài của Nguyên Vũ / Vũ Ngự Chiêu được độc giả, nhất là giới quân nhân đón nhận nồng nhiệt
(Xem: 17197)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12395)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19130)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9300)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 707)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 1082)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1250)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22548)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14084)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19234)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7944)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8875)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8546)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11120)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30776)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20851)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25568)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22951)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21790)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19846)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18092)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19303)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16962)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16143)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24563)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 32023)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34958)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,