LNĐ: Phần dưới đây chỉ là Bản Tóm Lược Chi Tiết (bản tiếng Việt,) của nhà thơ Du Tử Lê, dùng trong những buổi thuyết trình tại một số đại học tại Hoa Kỳ, từ đầu thập niên 1990.
Nói cách khác, ông dùng bản summary này làm căn bản để khai triển thành bài nói chuyện với những nhập vào, đi ra, thí dụ khác nhau, tùy nơi chốn, thời gian và thành phần cử tọa...
Trước khi nói về dấu phết: xin nói qua về điều căn bản là:
a./ Sự hình thành của ngôn ngữ nhân loại.
b./ Căn bản hay yếu tính của bộ môn Văn Học và Nghệ Thuật
A.- TIẾN TRÌNH HAY LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA NGÔN NGỮ NHÂN LOẠI
Thoạt tiên chỉ là những tiếng kêu ngắn bày tỏ sự kinh ngạc, sợ hãi, vui mừng, buồn bã. Như Ô, A, Á, Ao, Ố...
Nhu cầu truyền đạt tư tưởng khi nhân loại bước vào giai đoạn sống thành bầy, thành đoàn, hay bộ lạc.
Những bộ lạc lớn, mạnh thôn tính những bộ lạc nhỏ, yếu. Chiến lợi phẩm không chỉ là tù binh, đàn bà, gia súc, thực phẩm, mà còn áp đặt ngôn ngữ của lên những bộ lạc bị thôn tính.
Với thời gian, dần dần ngôn ngữ nhân loại quy về hai loại: Ngôn ngữ
Tượng Hình: Hieroglyphic Script và Mẫu Tự La Tinh: Roman Alphabet.
(Cho thí dụ chữ Tử vẽ người nam và chữ Nữ vẽ người nữ. Hai chữ này đứng cạnh nhau có nghĩa là Hảo, là tốt lắm. Quý vị nam nhi nào đang có một người nữ ngồi cạnh thì rất tốt. Đừng để mất. Sẽ một dời không tìm nổi đâu, Như tôi đang đứng đây, chỉ có 1 mình là...bất hảo; là không tốt.
Tùy theo khí hậu, địa thế sinh sống mà hai nhánh cây ngôn ngữ này, lại chia thành hai nhánh nhỏ là Đơn Âm: Monosyllabic hay Polysyllabic tức Đa Âm.
Ngôn ngữ Việt
Có lẽ, để bổ túc cho khuyết điểm đơn âm của mình, bên ngôn ngữ Việt
B.- CĂN BẢN HAY YẾU TÍNH CỦA BỘ MÔN VĂN HỌC và NGHỆ THUẬT:
Mở đầu: hầu hết các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ của chúng ta khởi nghiệp bằng khả năng thiên bẩm, lòng đam mê với bộ môn nghệ thuật thích hợp với mình. Ở lâu trong nhà, kinh nghiệm trở nên dồi dào, phong phú, giầu có. Ít ai bỏ thời giờ để tự hỏi: căn bản hay yếu tính của bộ môn văn học và nghệ thuật là gì?
Khởi nguồn, văn học và nghệ thuật hình thành từ ba căn bản dưới đây:
1. Quan sát, ghi nhận đưa tới Mô Tả/ Description.
Thí dụ:
"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
(Kiều, Nguyễn Du)
Quan sát, ghi nhận, suy, tưởng đưa tới So Sánh/Comparison. (Bằng, hơn, kém.) Muốn xử dụng thể so sánh, người ta phải dùng như liên tự / Conjunction như các chữ so sánh bằng, so sánh hơn, so sánh kém.
Thí dụ:
Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
(TNga, Thơ Nguyên Sa)
Quan sát, ghi nhận, suy, tưởng đưa tới Liên Tưởng / Connect in Thought. Muốn xử dụng thể liên tưởng, người ta dùng những chữ như Giống Như Likeness hay chữ Như / As.
Thí dụ.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
(Tràng Giang, Thơ Huy Cận)
Sau đó, do những khao khát đổi mới của những thiên tài lớn là những người khai sinh thành những trường phái hay những phong trào, mà lịch sử văn học, nghệ thuật có những trường phái, phong trào khác nhau. Như những người theo trường phái lãng mạn ở đầu thế kỷ thứ 19 cho rằng yếu tính của văn học, nghệ thuật là lãng mạn. Những người theo trường phái tượng trưng, thì lấy tượng trưng làm căn bản. Những người theo trường phải hiện thực xã hội thì lấy hiện thực xã hội làm căn bản, những người theo trường phái lập thể của bộ môn hội họa thì lấy hình khối làm căn bản, vân vân...
Tuy nhiên, dù theo trường phái nào, văn học và nghệ thuật vẫn phải dựa trên 3 yếu tính căn bản nêu trên như ba chiếc chìa khóa cần và đủ để mở cánh cửa văn học và nghệ thuật.
II. PHƯƠNG DIỆN VĂN PHẠM CỦA CÁC DẤU TRONG THƠ VĂN
A.- TẠI SAO PHẢI CẦN ĐẾN CÁC DẤU / PUNCTUATION MARKS
1- Giải thích vắn tắt tương quan giữa hơi thở hay nhịp đập của trái tim với tiếng nói.
2- Nhiệm vụ của từng dấu. Chỉ nói sơ qua về nhiệm vụ của các dấu như Phết. Chấm phết. Chấm. Chấm hỏi. Chấm than.
3- Tóm tắt: vừa để thích hợp với hơi thở vừa làm sáng tỏ câu văn. Gọi là văn sáng sủa.
B.- NHỮNG NHIỆM VỤ TÔI CHỦ TÂM GẮN THÊM CHO DẤU PHẾT
1-Ngắt nhịp / punctuation như bình thường.
Thí du:
Huyền thoại buông màn. Cổ tích chôn
Chị Hằng, tảng đá: ai là trăng?
Cây đa, chú cuội, và con thỏ
Là bốn? Hay là một chữ không?
2- Thay thế cho liên tự NHƯ (hay As tiếng Mỹ.)
Thí dụ
Những cây nến cháy như da thịt
Trơ nỗi sầu, đau, đụng tới xương
3- Tất cả những Phần tử / Elements trong mệnh đề đều bị chi phối bởi ý nghĩa của danh tự, động tự hay trạng tự nằm sau dấu phết chỉ thị.
Thí dụ:
Phố cao, gió nổi, bóng mờ
Đêm lu, trời nặng, tôi gù lưng, đi.
Hoặc:
Em ở đó bờ sông còn ấm cát
Con sóng tình vỗ mãi một âm, quên
Hoặc:
Chỗ một đời em vẫn để, dành.
Dấu phết như một ký hiệu đem chữ đứng sau dấu phết xuống hàng dưới
Thí dụ:
Hiu quạnh. Trùng tu từng cuộc đời
Người, trùng tu mãi giấc mơ, khuya
Mây, trùng tu những cơn mưa, muộn
Tôi đợi trùng tu: một cửa về.
Dùng dấu phết để chẻ những chữ kép thành những chữ đơn để:
a- Thêm nghĩa cho chữ.
Thí dụ:
Chẻ đôi con gió: cây ly, biệt
Tim chấn thương cùng môi tháng, năm.
b- Làm sáng tỏ nghĩa của chữ và do đó nghĩa của chữ trở nên mạnh mẽ hơn, giầu có hơn.