TRỊNH Y THƯ - Thơ lục bát: Một duyên phận long đong

04 Tháng Bảy 20239:17 SA(Xem: 1602)
TRỊNH Y THƯ - Thơ lục bát: Một duyên phận long đong

Những năm gần đây, tôi ít thấy thơ lục bát xuất hiện trên báo chí hoặc các trang mạng văn chương. Thi thoảng, một hai bài nhen nhúm như ngọn đèn dầu leo lắt nhưng rồi lại tắt ngúm, chìm lịm dưới lượng thơ tự do ào ạt đổ vào thị trường thơ, nhất là thị trường thơ trên mạng. Điều này không lạ. Từ lâu thể thơ lục bát đã không còn sức quyến rũ đối với các nhà thơ Việt Nam nữa, nhất là các nhà thơ trẻ. Ngày nay họ chuộng thể tự do hơn, cho thích hợp với phong cách và tinh thần “Hậu Hiện đại.” Có nhà thơ còn thẳng thừng tuyên bố ông thà làm thơ tự do dở chứ không thèm làm thơ lục bát hay!

Tại sao có tình trạng này? Tại sao một thể thơ truyền thống của dân tộc, gắn bó với tâm hồn Việt Nam cả nghìn năm, ngày nay lại lâm vào tình cảnh bi đát, bị quay lưng lại, bị ruồng rẫy một cách đáng thương như thế? Phải chăng nó là vấn đề của hình thức biểu đạt cho những thao tác sáng tạo mới? Một khủng hoảng biểu đạt? Phải chăng niêm luật thơ lục bát gò bó quá, âm nhạc trong thơ lại đơn điệu, dễ nhàm chán, ý tình chẳng thể nào biểu đạt cho trọn vẹn? Phải chăng tính cách trữ tình, ý nhị của lục bát cũng kềm hãm, không cho bốc cháy những tứ thơ mãnh liệt, khốc liệt khiến nó không còn phù hợp, thích hợp với tiếng nói và nhịp đập của thời đại? Phải chăng nó cổ lỗ một cách thảm thương, như bà cụ đầu vấn khăn vuông, mình mặc áo dài nhung đen, lưng khòm, xệch xạc từng bước nặng nhọc lên chùa lễ Phật? (Trong khi thơ tự do là cô gái mười tám, mặc váy ngắn, hở rốn, hở mông, nhún nhẩy chui vào chiếc BMW bóng loáng đi dự dạ hội với người yêu).

Nói như thế tôi e có người phản đối, bảo tại sao thể thơ haiku của Nhật Bản, khắt khe, gò bó còn hơn lục bát của Việt Nam ta bội phần mà vẫn tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ. Nó không những lớn mạnh trên quê hương nó là nước Nhật mà còn được cả thế giới hâm mộ, nồng nhiệt dang tay đón nhận. Tagore của Ấn Độ, Octavio Paz của Mexico, hai nhà thơ lớn của nhân loại ở thế kỷ vừa qua, đều có cảm tình đặc biệt với haiku. Tagore làm thơ haiku bằng ngôn ngữ Bengal, Octavio Paz dịch thơ haiku sang tiếng Tây Ban Nha. Thể haiku cũng không ngăn trở những ý thức mới trong cuộc sống đô thị hiện đại, như vấn đề tình dục và những chủ đề bạo động, bạo liệt khác. Ngày nay thơ haiku phổ biến rộng rãi trong giới yêu thơ trên thế giới đến nỗi ông Herman Van Rompuy, Chủ tịch Hội đồng Châu Âu hôm tháng tư năm 2010 còn cho xuất bản một tập haiku do chính ông là tác giả. Haiku của thế giới ngày nay, lẽ đương nhiên, không triệt để theo sát tinh thần haiku của Basho, Buson hay Issa cách đây ba, bốn trăm năm. Nó biến thiên để tồn tại, và quan trọng hơn, nó vẫn còn sức quyến rũ, được các nhà thơ tìm đến gửi gắm tâm hồn mình.


Nhờ đâu nó còn sức quyến rũ mãnh liệt ấy? Nhờ đâu, một thể thơ cũ kỹ mấy trăm năm gồm vỏn vẹn 17 âm tiết trong một bài thơ, cô đúc, “ý tại ngôn ngoại” đến cực độ, lại chinh phục được cả thế giới? Có lẽ chính cái kỳ bí của haiku – phóng ra nét khắc họa của sự vật, như một tia chớp lóe, cực kỳ đơn sơ nhưng vô cùng đậm đặc, rồi để người đọc tự mình mặc tình thả trí tưởng tượng vào những chiều kích, những cung bậc, những cảm xúc bát ngát diệu kỳ – đã khiến thể thơ này có sức quyến rũ lạ lùng, không hề nhạt phai theo năm tháng. Nó là truyền thống nhưng cùng lúc chối bỏ truyền thống, thậm chí phi truyền thống.

Có thể có những lý do khác sâu sắc hơn, nhưng đấy là chuyện của văn hóa Nhật và thế giới, quan tâm cũng chẳng để làm gì. Tôi chỉ thấy buồn bã khi nhìn về thể thơ lục bát của Việt Nam, ngay thời đại tôi, bị chính các thi sĩ của mình ruồng rẫy, quay lưng lại, nói gì đến chuyện đi ra thế giới bên ngoài!

Người ta chán thơ lục bát bởi nó dễ làm nhưng khó hay. Có chuyện ấy thật không?

Mở hú họa một tập thơ cũ, tôi tìm thấy bài lục bát của nhà thơ nữ Hoàng Hương Trang, bài Uống rượu trong mưa. Bốn câu đầu trong bài thơ như sau:


Tay nâng hứng giọt trời cao
Chén đầy thương nhớ, xin trao tới người
Uống say chén lệ đầy vơi

Rượu hay mưa ướt tình người tình ta...

Bài thơ không dở lắm – nhà văn Võ Phiến chọn in nó trong cuốn Thơ Miền Nam trong bộ sách đồ sộ của ông viết về hai mươi năm văn học miền Nam – nhưng nó nhàn nhạt làm sao. Vì khuôn sáo. Khuôn sáo ở chính những chỗ gieo vần, như cụm từ “đầy vơi” chẳng hạn. Những chỗ gieo vần kiểu ấy, người ta có thể xem như một hình thức làm cho đầy, lấp đầy những khoảng trống để “bắc cầu” cho những từ quan trọng hơn trong bài thơ. Và trong thơ lục bát, ngay cả dưới ngòi bút của các nhà thơ trác tuyệt, những từ hoặc cụm từ “bắc cầu” như thế đầy dẫy, khó tránh vô cùng.

Có thể gọi đấy là tình trạng lưỡng phân. Nó tương tự như phương cách kết cấu âm nhạc cổ điển Tây phương thời Hậu Baroque khi các nhà soạn nhạc bắt đầu cắt khúc nhạc thành nhiều nhạc đề khác nhau và nối kết chúng lại bằng những đoạn nhạc “bắc cầu.” Những đoạn “bắc cầu” thường là vô cảm, máy móc. Nó có tính thủ công nhiều hơn là nghệ thuật sáng tạo. Thể nhạc điển hình cho hình thức kết cấu này là thể Sonata, rất thông dụng trong suốt thời gian dài khởi đi từ thời Rococo giữa thế kỷ XVIII và mãi đến thời Hậu Lãng mạn đầu thế kỷ XX mới suy tàn dần nhờ những nỗ lực cách tân của nhà soạn nhạc Pháp lừng danh Claude Debussy. Tình trạng lưỡng phân xuất hiện ở lằn ranh phân cách giữa cái tự phát và cái khổ công gọt giũa. Cảm xúc biểu đạt do sự gọt giũa khéo léo, cho dù khéo léo đến đâu chăng nữa, vẫn chỉ là cảm xúc giả tạo, khó có thể xem là nghệ thuật chân thật.

Thể lục bát, với những giới hạn hiển nhiên, chắc chắn là không thích hợp với những loại thơ như Siêu thực, vốn đề xuất “lối viết tự động” và chủ trương thơ là thao tác của giấc mơ, của tiềm thức, siêu thức, thậm chí, vô thức. Chí ít trên mặt nguyên lý, “lối viết tự động” không cho phép một sự sắp xếp nào trong kết cấu sáng tạo. Và thi sĩ Siêu thực sẽ chẳng ai dại dột đi chọn nàng lục bát làm hình thức chuyên chở sáng tác của mình.


Cũng có thể tất cả tiềm năng của thể thơ lục bát đã được khai thác đến tới hạn. Ca dao Việt Nam, nét đẹp truyền thống, tình cảm chan chứa, sâu đậm của dân Việt từ nghìn năm cũ, tập trung cả vào lục bát. Bên lĩnh vực văn chương bác học, sau Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm và các nhà thơ kiệt xuất khác của thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX (song thất lục bát là biến thể của lục bát), hình như không mấy ai tìm cách đẩy lục bát lên một chiều kích mới, nơi sự sáng tạo có cơ hội nở hoa. Tinh hoa của nó, cụ Nguyễn Du nắm cả. Có lẽ bởi thế có sự ngại ngùng nơi các nhà thơ thuộc những thế hệ sau Nguyễn Du đối với thể lục bát. Họ ngại ngùng là phải. Một tứ thơ chợt đậu lại trong tâm tưởng, định đặt bút gieo vần viết vài câu lục bát nào đó, nhưng bỗng khựng lại bởi chợt nhớ mình chẳng thể nào qua mặt nổi cái ông cụ Tiên Điền kia một mình lừng lững đứng mãi trên tượng đài cao nhất lịch sử thi ca Việt Nam.

Bước sang thế kỷ XX, tình trạng hình như có thay đổi. Từ Huy Cận đến Bùi Giáng, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Viên Linh và nhiều nhà thơ khác, người đọc đã bắt đầu thấy le lói những cố gắng “cách tân” lục bát và nhờ vào thi tài xuất chúng, họ chiếm được cảm tình của đa số người yêu thơ của thời đại họ.

Tuy nhiên, theo tôi, chính thi sĩ Phạm Thiên Thư mới là người đưa thơ lục bát lên một cầu vực mới và cho nó cơ hội thêm một lần bung nở rực rỡ trong khu vườn văn nghệ Việt Nam.

Tôi yêu thơ Phạm Thiên Thư từ khi còn là cậu trai Trung học tại quê nhà. (Lúc đó tôi bắt đầu biết làm thơ tán các cô bé xinh xinh và thơ tôi đặc sệt chất thơ của thi sĩ họ Phạm. Bạn bè bảo, “Thơ cậu nghe y chang thơ Phạm Thiên Thư.” Thế là ngay lập tức cái bút danh Trịnh Y Thư được bạn bè đẻ ra cho tôi.) Thế hệ tôi, lớn lên trong lửa đạn chiến tranh trên quê hương, sớm có ý thức về những đổ vỡ đớn đau và ít nhiều mang tâm trạng bi phẫn với thời đại, thường có xu hướng tìm quên trong thơ văn thoát tục mà điển hình là thơ của thi sĩ họ Phạm. Tuy thế, thơ của ông, nhất là lục bát, phải có cái gì khác mới đủ sức quyến rũ cả một thế hệ và ảnh hưởng của nó còn lan tỏa sang các thế hệ sau.

Nhà văn Võ Phiến, cũng trong bộ sách Hai mươi năm văn học miền Nam, phân tích thơ Phạm Thiên Thư xong, bảo thơ ông chuyên chở ba đề tài chính, lúc nào cũng quyện lẫn vào nhau, đó là: tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên. Ông đã hóm hỉnh gọi thi sĩ họ Phạm bằng cái tên rất ư “Võ Phiến”: tu sĩ đa tình.

Thơ Phạm Thiên Thư không thiếu những thi ảnh về tôn giáo, tình yêu và thiên nhiên, những thi ảnh thật đẹp, nhưng ý nghĩa của thơ thì thật khó cho chúng ta có một định hình rành rọt, tận tường nào. Ông là nhà thơ quan tâm nhiều đến chữ và cảm xúc do chữ đem lại. Ý nghĩa của thơ đậu lại trong tâm tưởng người đọc hay không, không là quan thiết hàng đầu. Đấy cũng là quan điểm về thơ của thi sĩ Octavio Paz khi ông viết trong cuốn Điện xoay chiều:

Chủ yếu của thao tác thi ca là ngôn ngữ: bất luận sự tin tưởng cũng như niềm xác tín của nhà thơ là gì, điều hắn ta quan tâm đến là ngôn từ chứ không phải những điều ngôn từ này ám chỉ.


Nói như vậy, thi sĩ vĩ đại nhất của nền thi ca Mexico thời hiện đại không có chủ ý bảo vũ trụ thơ là hoàn toàn vô nghĩa hoặc ý nghĩa của nó chỉ là cái gì phụ thuộc. Mặc dù không thể tách rời ý nghĩa của thơ ra khỏi ngôn từ, nhưng chúng ta phải hiểu là tuy mỗi con chữ trong bài thơ đều có ý nghĩa của nó, giữa những con chữ cũng có một ý nghĩa hữu cơ nào đó, nhưng đừng đòi hỏi, gán ghép hoặc phán quyết một ý nghĩa tổng hợp nào ở ngoài bài thơ, cho dù đấy là một ý nghĩa bí nhiệm, phù huyền. Năm lớp 9, lớp 10, học văn, tôi hay nghe thầy cô bảo Truyện Kiều của Nguyễn Du là thi phẩm chứa đựng tâm trạng “hoài Lê” của cụ, bởi tuy ra làm quan cho triều Nguyễn nhưng cụ vẫn đau đáu thương nhớ nhà Lê. Bây giờ nhớ lại, tôi không đồng ý chút nào với quan điểm ấy, bởi hiểu như thế là chính trị hóa thi ca và chỉ khiến thiệt thòi cho những vần thơ trác tuyệt của cụ Nguyễn mà thôi.

Dẹp sang bên mọi ý nghĩa ngoại tại của thơ, chúng ta sẽ thấy cái hay của thơ Phạm Thiên Thư. Nó nằm ngoài mọi ý nghĩa, và lục bát của ông không lâm vào tình trạng lưỡng phân như rất nhiều nhà thơ khác. Không quan tâm đến ý nghĩa nữa, ngôn từ trong thơ ông mặc tình mặc ý tha hồ tung tỏa và người đọc tùy nghi chiêm mộ nó ở nhiều chiều kích khác nhau, mỗi chiều kích là một cung bậc cảm xúc, một cách cảm thụ riêng tư. Cánh cửa đi vào cõi thơ ở đây là cánh cửa thần cảm hay linh cảm chứ không còn là cánh cửa lý trí nữa.

Nói đến lục bát Phạm Thiên Thư mà không nhắc đến tính nhạc trong thơ ông là một thiếu sót nghiêm trọng. Cú điệu của thơ lục bát nói chung là êm nhẹ, du dương nhưng dễ nhàm chán. Biết rõ điều ấy hơn ai hết, thi sĩ họ Phạm đã dụng công biến tính nhạc trong thơ mình thành những âm điệu véo von. Véo von như ca dao nhưng thánh thót hơn và nếu phải so sánh với lục bát Nguyễn Bính thì “sang cả” hơn, như nhạc Mozart bên cạnh nhạc Salieri.

Sau Phạm Thiên Thư tôi cũng yêu thích lục bát của nhà thơ Nguyễn Đức Bạt Ngàn, và nhất là Hoàng Xuân Sơn. Sự thành công của lục bát Hoàng Xuân Sơn cũng nằm ở sự nhuần nhụy của ngôn từ chứ không phải ở ý nghĩa ngoài bài thơ.

Xem ra lục bát là một thách đố lớn cho các thi tài mà không phải thời đại nào cũng có. Nó cổ xưa, cũ kỹ, nhưng bỏ xó nó, xem thường nó, ruồng rẫy nó, chưa chắc đã là cái gì hay ho. Sonnet của châu Âu là một thể thơ cổ, phát triển từ thời của Dante, Petrarca, Shakespeare, nhưng bước sang thời hiện đại các thi sĩ như John Crowe Ransom, George Barker (hoặc Ezra Pound với thể Sestina) vẫn sử dụng nó cho sáng tác của mình và để lại nhiều thi phẩm kiệt tác.

Trong lúc chờ đợi một thế hệ thi sĩ Việt có duyên mới với lục bát, tôi đoán thể thơ này chắc đành tạm thời ép mình chịu đựng một duyên phận long đong, không mấy vui vẻ với các nhà thơ đương đại của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Tư 20248:23 SA(Xem: 193)
Cuối cùng thì người nghệ sĩ là một trong những người hào phóng nhất, luôn chăm chỉ với sứ mệnh tô đẹp thế giới, cuộc đời. Vẽ hoài. Viết hoài. Cho hoài.
07 Tháng Tư 20249:05 SA(Xem: 342)
Ngày nhỏ chúng tôi căng miệng hát một cách thích thú bài nhạc chế
27 Tháng Ba 20248:29 SA(Xem: 411)
Ai là một ví dụ có ích cho những cố gắng của các nhà văn đương đại viết tiếng Việt,
16 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 934)
Cuối cùng thì, sau hơn bốn mươi năm vắng mặt, Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương lại được, giờ đây, rót đầy tràn ly, trên tay mỗi người dân nước Việt, cùng nâng lên, cùng hát vang, cùng chúc vang một mùa xuân:
15 Tháng Hai 20242:26 CH(Xem: 1408)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam.
25 Tháng Giêng 20249:05 SA(Xem: 1039)
Với tôi, Phạm Duy là Người gieo hương.
15 Tháng Mười Hai 20234:33 CH(Xem: 1182)
“Người đi qua đời tôi / Hồn lưng miền rét mướt / Đường bay đầy lá mùa / Vàng xưa đầy dấu chân / Lòng vắng như ngày tháng…”
08 Tháng Mười Hai 20239:13 SA(Xem: 1112)
Thơ bà, hòa trộn giữa nét âm trầm, sâu kín, dịu dàng của xứ Huế và nét xông xáo, cởi mở, sẵn sàng đón nhận, hóa giải nhẹ nhàng mọi vấn đề của kiểu Sài Gòn,
21 Tháng Mười Một 20239:39 SA(Xem: 1192)
Năm 1997, bố tôi, nhà thơ Trần Dần mất tại Hà Nội.
11 Tháng Mười Một 202312:00 SA(Xem: 8483)
Tôi gặp bà lúc nhà thơ Huy Cận còn tại thế. Hai lần gặp, bà như cái bóng bên cạnh chồng.
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 8861)
Loạt bài của Nguyên Vũ / Vũ Ngự Chiêu được độc giả, nhất là giới quân nhân đón nhận nồng nhiệt
(Xem: 17195)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 12393)
Từ hồi nào giờ, giới sinh hoạt văn học, nghệ thuật thường tập trung tại thủ đô hay những thành phố lớn. Chọn lựa mặc nhiên này, cũng được ghi nhận tại Saigòn, thời điểm từ 1954 tới 1975.
(Xem: 19129)
Với cá nhân tôi, tác giả tập truyện “Thần Tháp Rùa, nhà văn Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn lớn của 20 năm văn học miền Nam;
(Xem: 9299)
Để khuây khỏa nỗi buồn của cảnh đời tỵ nạn, nhạc sĩ Đan Thọ đã học cách hòa âm nhạc bằng máy computer.
(Xem: 705)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 1080)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 1246)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 22546)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 14083)
Nấu cơm là công việc duy nhất trong ngày có liên quan đến cộng đồng gia đình, mà, gần đây Bố đã được miễn, vì cả nhà cứ bị ăn cơm sống hoài.
(Xem: 19232)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 7943)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 8872)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 8544)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 11119)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 30773)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 20847)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 25566)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 22949)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 21789)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 19844)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 18089)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 19301)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 16959)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16142)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 24561)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 32021)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 34956)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,