Tranh Đinh Cường
Thôi, nói hoài, mệt quá!
- Cái gì? Anh nói sao? Vậy không đúng chắc.
- Thì đúng. Nhưng khuya rồi, đừng làm kinh động giấc ngủ trẻ thơ. Chúng cần yên tĩnh. Em hãy tưởng tượng một giấc ngủ trong veo, nhẹ tênh…
- Là để cho anh yên tĩnh mà tơ tưởng, mà mộng mơ… Chính miệng anh nói ra đấy nhé!
- Khổ quá…
- Sao lại khổ? Hình ảnh hồi sáng đó, nó vướng vất trong đầu anh, xâm chiếm tâm trí anh, anh mộng mị, ngẩn ngơ… Để thành hoa, thành mây bay.
- Thiệt bậy bạ. Mộng mị, ngẩn ngơ gì ba thứ tào lao đó. Mà thôi không nói nữa. Khuya rồi. Ngủ.
- Không ngủ. Không được ngủ.
Anh quay lại nhìn vợ trong bóng tối nhá nhem, với một chút ngạc nhiên. Hà đâu phải thế? Có thật đó có phải là cách nói của Hà với chồng con? Ở đâu mà vụt ra một kiểu nói lạ đời? Những ngọt ngào, nhẹ êm thường ngày biến đâu mất rồi để dần dà, rồi đột ngột biến thành trục ép nước cót két, chà miết, vắt đến cạn kiệt chút chất lỏng sền sệt ngọt, bày ra đống xơ, hoá thành áng mây đen với những sấm chớp đì đùng, xé toạc sự bình lặng vốn có trong ngôi nhà xinh xắn, đầy ắp những lời yêu thương, nựng nịu này từ lúc nào anh không hề hay biết trước.
Anh xoay mặt vào vách, co quắp một chân lên, một tay gối đầu, tay kia bấu vào mép giường như kẻ thủ thế. Đêm tối nhờ nhờ qua chiếc đèn hắt ra màu xanh bạc nhạt. Khoảng cách giữa anh và vợ là chiếc mền chưa giũ ra, tạo thành một cái gờ mỏng trong khoảng 5 tấc vuông mong manh; thông thường không phải là bức tường thành để ngăn chặn đối phương xông lên như những hào luỹ chống giặc thời phong kiến mà là vật che đắp, giữ cho hai người chút hơi ấm thương yêu chồng vợ. Trước nó đã từng, đã nhiều lần thường xuyên từng như vậy. Nhưng giờ này dường như đang bắt đầu có sự xộc xệch nho nhỏ xuất hiện… Anh nghĩ vậy.
Chút ánh sáng mờ đục không rõ mặt người, nhưng anh đoán chừng vợ mình đang giận, tức và hình như đang ghen. Có thể đang là cơn ghen vu vơ, một loại cố tật của hầu hết phụ nữ mà cánh đàn ông phải dè chừng. Nó không hề được báo trước như sự bất thường của thời tiết. Chí ít những cơn bão khủng khiếp cấp 12, 13 hay những cơn động đất cấp 9, cấp 10 đi nữa, thì trước đó có những dấu hiệu thật trõ ràng. Đằng này… Không thể lường trước, không thể đoán sẵn. Những cái vu vơ không tưởng ấy không hình dạng, không khối lượng, màu sắc nhưng nó sẽ sôi lên ùng ục, cháy bùng lên thành ngọn bất kỳ lúc nào để nhấn chìm, thiêu đốt người trong cuộc chỉ còn lại nhúm tro bay bung trong cơn gió lốc. Tất cả những hiện tượng này, người đời gọi là ghen? Nếu vậy thì rõ ràng vợ anh đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê này?!
Rồi anh nghe như chiếc nệm rung lật bật từng cơn nhỏ, rồi đến cái vạt giường, đến toàn thân chiếc giường. Tất cả là những rung chạm khẽ khàng như có bàn tay níu giữ, kềm ép lại để phát ra tiếng nấc nghẹn không thực sự rõ ràng, nhưng thừa sức làm tim anh co bóp đau nhói.
Anh dịch người sát hơn vào thành giường, gần với vách tường và nhớ lại buổi sáng với những người bạn nghề có chút ít cảm tình. Chỉ là một sự tình cờ: Đó là một buổi sáng trong veo, mát mẻ, đẹp với cơn mưa rào đầu hôm phủi sạch lớp bụi mỏng trên cành lá, với những bông dại bất ngờ chồi lên khỏi mặt đất khô nẻ, rung rinh trước mắt. Và trước mắt là những con bướm màu sắc sặc sỡ đập cánh chào nhau và chào những bông hoa. Và những tiếng chim véo von trên cao. Tất cả khiến bọn họ không thể cầm lòng, không thể dửng dưng giam hãm trong những ngôi nhà hình hộp, những quán cà phê bay um khói thuốc lá. Họ bất ngờ kéo đến nhà anh. Ban đầu là một, rồi hai, rồi năm. Năm người với năm bộ mặt khác nhau, vóc dáng khác nhau và cung cách cũng khác nhau xa. Hai người đàn ông tự nhận mình là nhà thơ thì huyên thiên về chữ nghĩa, mượn chữ nghĩa người khác lắp đầy vào đầu óc mình để làm của riêng. Anh hoạ sĩ thì nối dài màu sắc thành những vệt đen đỏ bay ngang qua đầu mọi người bằng búi tóc dài luôn luôn lúc lắc qua lại trên hai vai mỏng để gây sự chú ý của những người chung quanh trước khi người khác kịp nhận ra mình là người cố tình làm dáng và gọi đó là nghệ thuật tân hình thức. Người đàn ông thứ tư là anh nhà báo tự do, luôn nở nụ cười bí hiểm mỗi khi nghe ba ông bạn to tiếng tranh cãi về cái đẹp. Người thứ năm là một cô gái đi cùng với người hoạ sĩ, có vẻ như người mẫu, là nguyên nhân không xác thực mang đến những giận hờn vu vơ cho người vợ xinh đẹp của anh. Cô người mẫu duyên dáng lịch thiệp, luôn nghiêng đầu và mỉm cười kiểu cách với tất cả mọi người. Cô ta rót trà, cô ta châm rượu, y như thể những người đàn ông đang lùi về quá khứ xa, được ngồi trên bàn đá uống rượu ngâm thơ có tiên nữ hầu hạ?
Họ thầm thì to nhỏ về cái đẹp vây quanh chiếc bàn trà kê dưới gốc vú sữa. Họ mang hết mọi hiểu biết bày lên mặt bàn gỗ, như thể đó là những vật sờ nắm được, cốt cho cô gái kia tiếp tục nở những nụ cười tươi với họ. Nhưng khốn nỗi, hình như cô không cười cho riêng ai, vẫn tiếp trà tiếp rượu đầy các cốc tách… Có ai đó buộc miệng than “trời nóng dữ”. Vậy là từ chuyện cái đẹp nhân thế chuyển hẳn sang chuyện khí hậu, thời tiết rồi băng qua chuyện buôn bán làm ăn. Giữa chừng, khi những ly rượu đủ sức làm cho đầu óc lâng lâng, họ nhảy sang chuyện ca hát, rồi bay qua thời trang áo tắm áo dài lúc nào chẳng hay. Chuyện nọ xọ chuyện kia bay bổng với những cánh bướm chập chờn, la đà với khí trời bỗng nhiên dịu lại đột ngột. Anh nghĩ, tất cả mọi chuyển động cơ học trên và trong thân thể họ dường như chỉ để nhằm vào cô gái ngồi trước mặt; một cuộc chạy đua lúp xúp về kiến thức và tình cảm không hơn kém, khiến anh nghĩ tới những con gà trống trong sân nuôi gà vịt, con chìa vôi trên cành tre cao ngút, con thiên đường… Cố sức xoè hai cánh, vung vẩy lông đuôi màu sắc sặc sỡ trước con mái? Sự liên tưởng mơ hồ hình như gây cho anh niềm thích thú không rõ rệt và bật cười với mình.
Tán lá vú sữa xanh mướt màu xanh ngọc bích, phớt màu nâu sậm bên dưới như chiếc rổ thưa lọc ánh sáng ban mai đổ xuống lốm đốm trên mặt bàn gỗ thâm sì như thể tay phú gia cẩu thả đổ những viên kim cương, ngọc bích lên nền đất xám xỉn. Những đốm sáng nhảy nhót, lúc đậu trên miệng chén trà, lúc nhảy sang bàn tay ai đó đang vân vê chiếc quai nhỏ xíu, xoay xoay chiếc tách. Anh đắm đuối nhìn theo những viên kim cương nhảy nhót. Anh ngó sững chúng đậu trên mu bàn tay trắng nõn, thon mịn phớt chút lông măng hắt lên màu sáng của kẽ nắng rớt xuống. Năm búp măng động đậy, di chuyển chiếc tách khẽ khàng mà như không hề chạm đến chúng. Anh say sưa nhìn những đốm tròn sáng chuyển động, đùa giỡn với những búp măng kia, lúc lảng xa, lúc áp thật gần, khi thì ôm riết lấy bàn tay thon thả. Vợ anh ngồi đầu bàn thong thả xách phích nước sôi rót vào bình trà, góp chuyện dè dặt vừa ngó chừng phích nước đặt dưới nền đất vừa chú tâm quan sát những người đàn ông ngồi lổng chổng trên những chiếc đẩu nhựa thấp. Vợ anh không nhìn bọn họ như anh đang nhìn ngắm những vệt nắng nhảy nhót trên bàn mà là một mũi lửa nhỏ xíu xuyên thẳng tới đôi mắt anh trong khoảng cách hơn mét. Nó như tia hồng ngoại khiến anh cảm thấy hơi nhột nhột ở hai mép tai, ngứa ngáy ở sống mũi, nóng như viên than hồng áp sát vào bên má. Bất ngờ anh ngước nhìn lên. Hai tia mắt dịu dàng mà thật dữ dội xuyên thẳng vào mắt anh, đẩy lùi chúng ra khỏi năm búp măng thon trắng, đẩy ra khỏi chiếc tách trà và cắm phụp xuống mặt bàn thâm sì. Anh quay sang những người bạn . Nàng cũng ngước nhìn mọi người với cặp mắt dịu dàng một cách thật bất ngờ. Cô gái hồn nhiên cười nói, phô hai hàm răng trắng đều và chiếc miệng duyên dáng đến lạ kỳ. Cô ta không hề cảm thấy nhột nhột nơi tai, ngứa ngáy nơi má… Bởi tia lửa nhỏ xíu xoáy thẳng vào chỗ trống giống như một bức tường bê tông ngăn cách sự xáp gần đột ngột của một kẻ nào đó cố công tìm kiếm cái đẹp ngoài khả năng cho phép của sự bảo thủ mông muội một cách ngọt ngào. Cảnh tượng ban sáng cứ tiếp tục lướt thướt trôi qua đầu óc anh, tĩnh lặng và ồn ào.
Bỗng dưng anh bật cười thành tiếng. Vợ anh quay lại, cầm chiếc mền ném xuống phía đuôi giường, chồm lên lay vai anh như người đốn củi lay gộc tre trong bụi rậm.
- Anh cười gì? Tôi nói không phải sao? Đàn ông các anh đều một giuộc. Hễ thấy đàn bà con gái là y như con gà trống: Xoè cánh, xum xoe, mỏ túc túc mà chẳng có hột lúa, miếng mồi nào.
- Em không thể ví von con người với gia súc gia cầm.
- Đúng. Nó khác xa con người, Con người khác xa chúng. Nhưng về cung cách khi đối diện với người khác phái thì cùng một kiểu.
- Chỉ mới nhìn thì chưa thể gọi là phạm tội. Các bộ sách luật từ cổ chí kim, từ đông sang tây, chưa thấy có điều khoản nào ghi người đàn ông nhìn ngắm người đàn bà và ngược lại thì khép ngay vào tội được.
- Đã đành. Nhưng đạo đức, luân lý, tập quán, phong tục thì không thể được.
- Em nói như thể chính từ miệng Tần Thuỷ Hoàng nói ra vậy. Phàm trời ban cho con mắt thì phải nhìn, tai phải nghe, mũi phải ngửi… và… và… đầu óc thì phải suy nghĩ. Giữa suy nghĩ và hành động là một khoảng cách khá xa, nhiêu khê. Không thể cấm mọi người suy nghĩ. Càng không thể bắt mọi người suy nghĩ một chiều.
- Vậy là anh đã công nhận hồi sáng này anh có nhìn cô ta, suy nghĩ về cô ta, cảm cô ta và… và…
- Và cô ta ra khỏi cổng, lên xe, nhấn ga, chạy xe về nhà. Chấm hết?
- Không chấm hết được. Chưa chấm hết được. Trong đầu óc anh lúc này vẫn còn vương vất hình ảnh cô ta.
- Anh có đọc ông Daisetz Teitaro Suzuki dẫn ra một công án rằng: Có hai vị hoà thượng đi tụng kinh ở một hóc núi xa, chiều xâm xẩm trờ về tới con suối thì trời đổ mưa tầm tã, nước dâng cao, chảy xiết. Sát nơi bờ suối, có một thiếu phụ xinh đẹp ngồi khóc nỉ non. Thấy lạ, một vị bước tới hỏi: “Cớ sao đã chiều tối mà thí chủ còn ngồi đây mà khóc làm vậy?”. Thiếu phụ ngước mắt lên, khóc ồ ồ còn hơn mưa xối: “Bạch sư cụ, tôi đến chân núi kia để thắp nhang cho chồng tôi vừa chết. Khi quay về thì trời đổ mưa. Nước suối chảy xiết không thể lội qua được, mà con tôi thì ở nhà một mình…” – nói và thiếu phụ không thôi khóc. Vị hoà thượng nọ kêu “mô phật”, rồi ghé lưng bảo thiếu phụ bám vào để ông cõng qua. Tới bờ bên kia, ông đặt thiếu phụ xuống và bước thẳng về phía chùa không đợi thiếu phụ mở lời cảm ơn. Vị hoà thượng thứ hai bươn bả chạy tới: “Thầy tu hành đã lâu, sao lại đi cõng người đàn bà trên lưng?”. Vị hoà thượng thứ nhất không trả lời. Vị thứ hai cứ bám theo và nhùng nhằng những lời trách cứ. Đến chỗ quẹo, vị thứ nhất nói: "Mô phật, tôi có cõng người đàn bà nào trên lưng đâu mà thầy nói tôi?”…
- Nguỵ biện. Vả lại người ta tu hành chớ còn anh…
Tiếng vợ anh nhỏ dần, nhỏ dần… Vương vít đâu đó trên táng lá cây vú sữa một mặt xanh sậm, một mặt màu nâu sẫm. Anh có cảm giác như mình đang bay theo tiếng nói rung rinh kia và nhảy nhót trên táng cây xanh cùng với những ta nắng chảy qua tầng lá tạo những vệt tròn di động lung linh.
Lại một ngày nữa không phải đến Sở, không phải nghe tiếng máy nổ ầm ĩ, khói bụi bay mù mịt, tiếng than thở về đồng lương còm cõi, vật giá gia tăng vùn vụt. Anh ước sao trong tuần có nhiều ngày thứ bảy và chủ nhật như vậy để lơ mơ nhìn ra góc vườn yên tĩnh, nơi những cây cau kiểng xoã những tàu lá xanh vây vẩy với gió, mang quanh mình buồng trái chín màu đỏ; cây mãng cầu đứng xa xa giơ cánh tay như muốn kéo xích cây mít ngoài góc rào, cây vú sữa đứng gần thềm giếng bước lại gần lại chút nữa để tâm sự; rồi nụ tầm xuân tím xanh biêng biếc xoắn lấy hàng rào dâm bụt, duối không muốn rời nửa bước… Thật yên tĩnh. Hoàn toàn yên tĩnh.
Vợ anh dọn bữa sáng lên bàn. Cháo trắng và cá mành kho tương. Đứa con chống muỗng, bi bô:
- Con không ăn đâu.
Vợ anh trừng mắt:
- Ăn. Không được hỗn. Ăn trứng hai ngày rồi, phải thay đổi.
Thằng bé mếu máo chống muỗng vào chén cháo, uể oải xúc từng muỗng nhỏ một cách nặng nhọc. Vợ anh ngồi bên cạnh thằng bé, không nhìn nó mà xoắn mắt vào chiếc muỗng đang kẹp giữa những ngón tay thả lỏng của anh như thầm hỏi “còn anh, anh cũng ngán món cháo sáng này rồi chớ gì?”. Anh cứ xoay miết chiếc muỗng quanh miệng chén.
- Hồi còn nhỏ xíu, sáng nào bà nội cũng nấu một nồi cháo to cho cả nhà. Một năm có đến ba trăm ngày ăn cháo với muối hay cá kho mặn. Thỉnh thoảng bà nhắc “ăn cháo để nhớ những cơ cực, vất vả… Sau này các cháu có là gì đi nữa thì vẫn phải nhớ và giữ lấy chén cháo trắng mỗi buổi sáng để tự răn mình”.
- Tự răn mình là một đức tính tốt. Mỗi khi ngồi trước chén cháo anh vẫn tự răn như vậy. Sau này con lớn hơn chút nữa, hẳn nó cũng sẽ làm như em và anh thôi.
- Anh nên thôi cái tính bông phèng không đúng chỗ ấy đi.
Cuối cùng thì thằng bé cũng ăn xong bữa sáng và chạy ra vườn với con Bin. Vợ anh cho đường vào ly cà phê và đẩy tới tận chỗ anh ngồi, nói bâng quơ:
- Thiệt kinh khủng.
Anh cắm cúi ăn hết phần cháo trong chén và đặt chén muỗng vào chiếc thau nhựa để sẵn ở góc bàn. Mặt trời buổi sáng dính ở lưng lửng bụi tre có những cành cong chúc xuống. Nó không áp mòn những cành gai tua tủa mà hình như những cành gai ấy cào nát vòng tròn sáng kia, khiến con cu cườm thỉnh thoảng giật mình buông vài tiếng cúc cu cu rời rạc.
- Người ta vần thường nói câu văn câu thơ đáng giá ngàn vàng, nhưng sao em thấy bản thân họ thì ngược lại. Buổi trưa đó em thấy… - Vợ anh bỏ lửng câu nói.
- Anh thấy họ là những người dễ thương, không vì cuộc sống mà đánh mất sự trong sáng trong tâm hồn. Họ yêu cuộc sống này, yêu bản thân họ và những cái đáng yêu chung quanh họ.
- Nhưng hơi bất bình thường. Em xin lỗi có chút thô tục bám quanh con người họ.
- Em ám chỉ cái gì vậy?
- Không phải là ám chỉ mà là những cái có thật, hiển hiện ngay trên con người họ. Họ tự đánh mất họ trong buổi gặp gỡ sang trọng với những câu thơ bóng bẩy, những đoạn văn óng mượt như dòng suối mà họ đã phô diễn ra.
- Anh không hiểu?
- Đó, anh bận nhìn ngắm đâu đó, đâu để ý những chi tiết chung quanh Em thấy hình như những chi tiết quanh cuộc sống giúp ích cho sự sáng tạo mà.
- Chi tiết. Em nói đến chi tiết nào vậy?
- Em thấy họ vừa đọc thơ – Em không rành lắm về thơ – vừa nhai nhồm nhàm thức ăn trong miệng đến độ tưởng chừng thức ăn văng bắn theo những câu thơ bay bổng kia? Em kính trọng họ vì họ là bạn anh, nhưng khi nhìn thấy cảnh ấy, có chút gì gần như thất vọng. Chẳng lẽ nhà văn nhà thơ thì họ được quyền làm như vậy? Giữa đời sống thật và tác phẩm họ viết ra là hai chiều trái nghịch nhau? Họ viết để làm gì nhỉ? Em đọc một ít tác phẩm, thấy trong đó họ ca tụng cái đẹp, phê phán cái xấu, thì chẳng lẽ lấy nguyên mẫu bản thân mình để phơi bày lên trang giấy?
- Anh không rành lắm về ba cái vụ lý luận văn chương, văn nghệ; nhưng không ai bắt nhà tu không được ngồi trên xe máy, ô tô; cấm cản đứa trẻ lên mười nếm thử tách trà, cà phê. Những điều em vừa nói chưa hẳn là thói xấu. Anh nghĩ nó chỉ là thói tật. Thói tật thì chỉ mới là khởi đầu cho điều tốt cũng như điều xấu. Dừng lại và bước tới, đó là bản lĩnh của mỗi người.
- Vậy còn như chuyện này thì anh giải thích ra sao? Hôm thứ Năm rồi, con bạn cùng cơ quan em ngồi kể: “Tao có ông chồng không biết phải khóc hay cười, suốt ngày la đà với bạn bè từ sáng tới tối mịt. Có bữa giận quá tao nhắn tin “chẳng lẽ anh coi bạn bè là lẽ sống hơn em và con sao”. Rồi có hôm tao nói “bữa nay đi công tác xa, tối mới về”, nhưng có đi đâu. Trưa về đã thấy đám bạn của ổng ngồi chật nhà. Như vậy rõ ràng ông nhà tao rất vui mỗi khi vợ vắng nhà?”.
- Anh cũng có mấy ông bạn vong niên thường hay nói “trong cuộc sống mà không có bạn bè thì coi như mất hết…”.
- Nhưng cũng có năm bảy đường bạn bè.
- Anh thấy hình như đã đến lúc phải đi chợ rồi đó. Để trưa nay anh nấu nồi canh rau tập tàng. Một tô canh có màu xanh đậm đặc bày ra giữa mâm để thấy ngày chủ nhật thật xanh, như bầu trời trong xanh trên cao kia.
Vợ anh hứ đánh cốc, đứng dậy bưng thau chén muỗng đi ra giếng nước. Bước đi vẫn thong thả lướt nhẹ như mọi ngày, mang theo thau chén, mang theo nỗi bực dọc vu vơ để gàu nước xối lên, rửa trôi nỗi phiền muộn, để mọi thứ trở nên sạch bong.
Nguyễn Lệ Uyên
Gửi ý kiến của bạn