Tính tự phát vốn là đặc điểm của nhiều hoạt động tinh thần ở ta mấy chục năm nay trong đó bên cạnh việc sáng tác thì có cả phê bình văn học.
Tôi xin phép lấy trường hợp bản thân tôi mà suy. Sau gần bốn chục năm kẽo kẹt hành nghề, nay nhìn lại tôi chỉ có thể nói công việc mà mình đã đặt nhiều tâm huyết thật ra đã được làm theo kiểu gặp đâu hay đấy, trông trước trông sau, trông mọi người mà làm, chứ đâu có bài bản gì cho đàng hoàng.
Thoạt đầu, đọc mẫu của các bậc đàn anh. Khoảng đầu những năm 60 trên báo chí văn nghệ ở Hà Nội thấy nổi lên một lối viết phê bình mà trong tầm mắt của một cậu học trò trường cấp III Chu Văn An như tôi, nghe có vẻ rất mới, khiến tôi mải miết học theo, tất nhiên theo lối học lỏm. Người tôi mê nhất lúc ấy là Lê Đình Kỵ. Từ cách nói giọng điệu, chữ nghĩa, thứ văn phê bình này đã được tôi mô phỏng, bắt chước. Rồi từ 1965, tôi bắt đầu viết bài gửi đăng báo Văn Nghệ, một trong những tờ báo được xem là biết làm phê bình đúng với cái chuẩn được công nhận lúc ấy. Thấy đại khái viết như thế được đăng thì lại thừa thắng xông lên viết tiếp, cả năm được in một bài độ một trang trên báo Văn Nghệ cũng đã thấy là danh giá lắm.
Mấy năm sau, được chuyển về tạp chí Văn nghệ quân đội, làm việc dưới sự hướng dẫn của anh Nhị Ca, thường đi họp và bàn việc với anh Đông Hoài, anh Khái Vinh, chị Thiếu Mai bên báo Văn Nghệ … tôi cũng nghe các anh các chị tâm sự đại khái như vậy. Tự đào tạo là chính. Làm như mọi người. Mà cái kiểu làm được cả mọi người công nhận ấy chẳng qua cũng ngẫu nhiên hình thành, chẳng ai nói ra rõ ràng, mặc dù ai cũng cảm thấy và tìm cách thích ứng. Nó như một vệt mòn trên núi. Như một thứ con đường quê của Tế Hanh “ kéo nỗi buồn không dạo khắp làng “, cong queo, xẹo xọ, mà rồi vẫn là phương tiện duy nhất dẫn người ta đi tới.
Đã có lúc bọn tôi thử quay lại với người xưa, với truyền thống, như ngày nay hay nói. Nhưng các cụ nhà nho búi tó ở ta trước đây đâu đã biết đến phê bình, lục lọi lắm cũng chỉ được vài câu các cụ vui miệng nói những khi thù tạc. Còn cái truyền thống gần hơn, là phê bình nửa đầu thế kỷ XX, thì, không kể Trương Tửu, Trần Thanh Mại mà ngay cả Vũ Ngọc Phan lẫn Hoài Thanh, mọi người còn đang muốn từ chối, chứ có ai công nhận ?! ( Từ 1954 tới 1985-86, ở Hà Nội, cả Nhà văn hiện đại lẫn Thi nhân Việt nam 1932-41 không được in lại. Mãi sau 1986, quá trình tái bản mới diễn ra ồ ạt. Trước đó, các Thư viện chỉ có bản in cũ, mà không phải cán bộ nghiên cứu nào cũng có quyền mượn.).
Quay sang kinh nghiệm nước ngoài. Cái mẫu hồi ấy để theo là những Timofeev, Abramovich.. ở Nga, với lại Chu Dương, Lâm Mặc Hàm ở Trung quốc. Nhưng họ nói những chuyện xa xôi, nên chỉ học để dắt lưng làm vốn thôi, chứ hàng ngày, mỗi người vẫn phải lo viết bằng cách trông vào những cái các đồng nghiệp đang làm trước mắt. Vừa học theo vừa chán. Mà về sau ngẫm lại, không khỏi thấy lạ. Điều hay của người ta thì không học được. Điều dở lại cứ ám vào mình, như một thứ duyên nợ có từ kiếp trước.
Trong cái vẻ như là chẳng có bài bản gì cả, rồi một cái nếp riêng đặc trưng cho phê bình cũng đã hình thành. Có một hồi nhớ đến phê bình là nhớ tới những bài viết đậm chất đấu tranh phê phán. Một loạt cây bút nổi lên trong những đợt đấu tranh đó, sau này bị gọi đích danh là xã hội học dung tục, nhưng ai nói kệ họ, các nhà ấy vẫn là những nhân vật chính ngự trị trên diễn đàn, trở thành định nghĩa cho phê bình một thời. Rất nhiều buổi trò chuyện tôi tham gia, nhiều lời tâm sự tôi nghe được, rút lại đều dẫn tới một kết luận không lấy gì làm thú vị lắm: thứ phê bình khô cứng ấy, chẳng qua giới nhà văn lép vế phải bấm bụng công nhận, chứ thực tình không phục, và lại càng không thích. Nguyễn Minh Châu có lần nửa đùa nửa thật nói với tôi:
-- Các nhà văn như con gà say tiếng gáy, còn mấy ông phê bình thì như con cáo đứng bên cạnh xui dại: “Bác gáy hay lắm nhưng giá nhắm mắt lại thì còn hay hơn nữa !“. Điều gì xảy ra khi anh nhà văn nhắm mắt lại, thì các ông đọc truyện ngụ ngôn hẳn nhớ.
Như để phản ứng lại cách viết phê bình đứng ngoài áp đặt, dạy đời --, ngay hồi ấy đã có thứ phê bình đi vào bình tán, khen câu thơ này có thần hoặc chê chữ nghĩa người kia dùng không được khéo. Nó có nhiều liên quan đến việc giảng văn. Nói chung là nó thu hẹp việc bàn luận về sáng tác vào các vấn đề kỹ thuật cụ thể, thực chất chỉ muốn giúp cho người ta hiểu kỹ hơn về từng tác phẩm văn học đã được viết ra, còn như cái việc mang chính cái đời sống văn học ra xem xét lại, để rồi giả thiết rằng tất cả có thể làm khác – một điều mà tôi thấy ở những nền phê bình ở các nước khác, khi tôi có dịp tiếp xúc -- thì hoàn toàn vắng bóng.
Khoảng mươi mười lăm năm gần đây, thứ phê bình thứ hai này lan ra chiếm gần hết các trang phê bình trên báo chí. Để thích hợp với vai trò giải trí, nó được bổ sung thêm những“mồi nhậu” mới: những lời vuốt ve nhau ca tụng nhau, xếp chỗ nhau trên văn đàn; hoặc những lời đồn thổi, những thứ giai thoại về các nhân vật nổi tiếng, nghe cho sướng tai. Trong cái vẻ mềm nhũn ra như vậy, nó được đám bạn đọc lười biếng xuýt xoa tán thưởng, và trở thành một định nghĩa mới về phê bình, thay cho thứ định nghĩa đã cũ nói trên.
Tôi không dám liều mạng tự nhận là trong một ít công việc cụ thể bản thân từng làm, đã thoát ra được khỏi hai thứ phê bình trên đây vừa miêu tả. Nhưng có Trời Phật chứng giám, quả thật trong ý thức, tôi có thấy chán cả hai lối phê bình đó, và thử tìm cách thay đổi. Thử trong tuyệt vọng. Nghĩa là một mặt chạy đôn chạy đáo vùng vẫy cựa quậy; mặt khác, khi quay về đối diện với chính mình, vẫn không dứt khỏi cái dự cảm đau đớn, rằng làm được khác đi khó lắm, cái nếp sống chung kia nó đã thành một thứ bản mệnh chung cho bao nhiêu đồng nghiệp, mình sẽ chỉ có cách nhung nhăng mà tồn tại như một phần lớn các “ chúng sinh “ khác.
Hoạt động nào của con người cũng bị chi phối bởi những ràng buộc sâu xa của xã hội. Tuy nhiên, xét trên bề mặt và xét một cách tương đối, vẫn có thể nói: nếu sáng tác thơ truyện thu hẹp trong công việc cụ thể của từng cá nhân thì phê bình được hình thành từ những liên hệ giữa các cá nhân ấy ; khi nói phê bình có nghĩa là nói tới cọ xát, giao đãi, đối mặt, đối thoại. Bởi vậy để hiểu phê bình, phải nói tới những đặc điểm chi phối mối liên hệ tinh thần giữa người với người được hình thành trong môi trường chung, và tồn tại như một thứ khí hậu vô hình mà tác động vào tất cả mọi người. Chung quanh chuyện này, có thể tạm nêu ra một số nét đáng chú ý trong hoàn cảnh hiện nay:
-- Xã hội trọng tình hơn trọng lý. Người nói lọt tai, nói vừa lòng người khác, hoặc để người khác cho là “ nghe được “, được trọng hơn người nói đúng.
-- Ai cũng tỏ ra thích làm hơn ngồi suy nghĩ bàn bạc về công việc đã làm. Sách vở tổng kết thường bị xem thường. Việc đọc sách bị coi là vô bổ, người ta chỉ sợ mình mang tiếng là xa thực tế và rơi vào sách vở, tuy nói thẳng ra thì số người biết làm việc với sách vở, đọc cho ra đọc, chẳng có bao nhiêu.
--- Trong việc tìm hiểu nhau, xem xét đánh giá về nhau, có xu thế nhấn mạnh thế đứng trong, còn thế đứng ngoài thường bị xem là không được việc gì. Câu tục ngữ “ Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận “ mặc nhiên được xem như một chân lý tuyệt đối ( trong khi thực ra nó chỉ có ý nghĩa tương đối, trong phạm vi hẹp ! ).
-- Các giá trị dùng làm chuẩn mực không ổn định, còn các phát biểu lại thường thích có cái vẻ lung linh nhiều nghĩa “ nói zậy mà không phải zậy “, hơn là chặt chẽ chính xác. Hệ thống định giá hoạt động tuỳ tiện. Chín bỏ làm mười đã đành, mà có khi sáu bảy thậm chí ba bốn cũng thành mười luôn. Và đã một lần mười rồi thì không bao giờ trở lại ba bốn nữa.
-- Xu thế bình quân trong xem xét đánh giá được củng cố bởi quan niệm nhấn mạnh tính phong trào hơn tính chuyên nghiệp. Trong một phong trào, các cá nhân hỗn độn chen chúc bên nhau làm nên một tập mờ, và không ai muốn ai nổi lên hơn mình. Còn việc phân loại thường bị chi phối bởi những cơn nóng lạnh thất thường, cũng như cái sự gọi là “trông trước trông sau” lằng nhằng phiền phức (mà hoạt động của các giải thưởng hàng năm ở tất cả các ngành là một ví dụ).
Bằng những cách thức khác nhau, những đặc điểm trên in dấu vào mọi mối quan hệ giữa người nọ với người kia trong xã hội, song đến phê bình thì thấy rõ nhất. Xét phê bình theo nghĩa hẹp, tức những lời bàn luận về những tác phẩm đang in ra hàng ngày-- một thứ động tác giống như bắt cá giữa dòng –, dễ thấy có những nhược điểm đã trở thành bệnh mãn tính không thể lảng tránh:
-- Yếu ớt èo uột, ngoại trừ những cuộc đánh đấm hỗn hào, thì sinh hoạt hàng ngày đơn điệu tẻ nhạt, thiếu sinh khí.
-- Không thuyết phục được xã hội về sự cần thiết của mình. Không hẳn là báo chí, nhưng cơ hội trở thành văn chương thực thụ bị coi là rất thấp. Chưa làm gì nhiều để cải chính được những cách nghĩ sai, rằng mình là bám càng là ăn theo, là bánh xe thứ năm ngón tay thứ sáu.
-- Dễ bị biến dạng thành mối quan hệ tay đôi giữa người viết phê bình và người được phê bình ---, trong khi phê bình lẽ ra phải là hướng về tất cả những ai quan tâm tới văn học và nêu ra những vấn đề thiết yếu cho cả xã hội.
-- Dường như quá dễ, ai thích thì làm, ai rỗi rãi chưa biết làm gì nhảy vào nói vài câu cũng được, lúc chán thì đánh bài chuồn. Ít người nghĩ rằng đây là công việc của những nhà chuyên môn trải qua đào tạo chắc chắn ; trái lại, xu thế nghiệp dư có nguy cơ bành trướng và được công khai khuyến khích.
Còn xét phê bình theo nghĩa rộng nhất, tức bao hàm cả công việc nghiên cứu, khảo sát, đánh giá những tác phẩm trong quá khứ, rồi nâng lên thành lý luận, người ta sẽ thấy cái yếu về lý tính mà trên kia đã nói có dịp bộc lộ. Nhiều người làm nghề này mà không có khả năng đọc ra từ quá khứ những vấn đề có liên quan tới hiện tại. Vì vậy, họ không đủ sức tác động tới tình hình chung, chính họ sớm cảm thấy những cái mình làm chẳng cần cho ai. Nên chính họ cũng thấy ngán, ngồi đứng không yên, rồi ham vui, ham nổi tiếng, lại nóng máy bỏ sang bàn về những cái trước mắt.
Thời gian gần đây, thấy nổi lên hiện tượng thích nói đến những lý thuyết mới ở nước ngoài. Sau một thời gian dài làm nghề theo lối thủ công, kinh nghiệm chủ nghĩa, nay một số người có ý thức muốn tìm một sự đổi khác, và đây là một phương hướng đúng. Song ám ảnh truyền kiếp không thể bỗng chốc rũ bỏ, trong phần lớn trường hợp các thứ lý thuyết ấy chỉ được nghiên cứu qua loa, chưa kịp tiêu hoá đã mang ra dùng, như một thứ chiêu bài để doạ nhau. Một số người khác lại thích nhấn mạnh tinh thần tự chủ và ý thức phê phán khi tiếp thu lý luận nước ngoài, trong khi quên mất một điều đơn giản: Chính người ta nói gì mình nghe chưa thủng, chưa tìm được cách dịch đích đáng --, thì tìm đâu ra cơ sở để phê phán?
Những nhược điểm trên đây càng khiến cho lý do tồn tại của phê bình bị đặt thành vấn đề. Trong suốt cuộc đời làm nghề, tôi luôn luôn cảm thấy rằng với nhiều người, cả người trong cuộc lẫn người đứng ngoài, công việc này chỉ là một thứ lao động hạng hai hạng ba gì đó; và một người làm phê bình thuần tuý thường gợi cảm giác một người đi xin việc khi đắt khi ế, một thứ trang trí có thể cần cho người ta một lúc một nhát nào đó rồi thôi. Thân phận người viết phê bình bởi vậy giống thân phận đám dân ngụ cư.Trên chuyến xe văn nghệ, họ chỉ được xếp ngồi ghế phụ.
Đây không phải là ý muốn của riêng ai, đây là xu thế tự phát toát ra từ trong cách làm cách sống của nhiều người, cả người quản lý lẫn bạn đọc, cả người sáng tác lẫn chính người viết phê bình, trở thành một thứ vô thức tập thể, cái đó mới thật khó sửa.
Nhiều người thường chỉ lo bàn về phương hướng phát triển của phê bình.
Việc đó đã đành là cần, nhưng theo tôi, khi nhìn vào cái ngành còn rất non trẻ này, cần kíp hơn là đánh giá thực lực của nó, cái cách nó tồn tại; và nói chung là xét xem nó đang ở vào trình độ nào trong sự phát triển của một nền phê bình tự nhiên đúng đắn.
Theo hướng đó mà suy nghĩ, từ những yêu cầu cao về nghề nghiệp, tôi muốn mạnh dạn nói: Cũng giống như đô thị ở ta chưa ra đô thị, kinh tế thị trường chưa ra kinh tế thị trường, sử học chưa phải là sử, tiểu thuyết chưa phải là tiểu thuyết...
---, phê bình cũng chưa phải là phê bình. Hoặc cố mà nói lấy được, thì đó là một nền phê bình thấp lè tè, kéo lê hàng ngày, vất va vất vưởng. Và tất cả lẽ ra có thể làm khác, nhất định mai đây cần phải viết khác đi (tuy phải nói ngay có làm được như thế hay không còn là chuyện phi phỏng, tức chẳng có gì chắc chắn cả. ).
Để khẳng định (hay bác bỏ) nhận định này, rồi bảo nhau tìm ra một phương hướng phát triển hợp lý, có hai việc có thể và cần phải làm ngay:
Một là trở lại quá khứ, tìm cách phác hoạ lại lịch sử phê bình dân tộc, hoặc nói đúng hơn là làm rõ những mối quan hệ văn học theo kiểu phê bình đã tồn tại ở đời sống văn học nước nhà cả thời trung đại lẫn thời hiện đại. Trong việc này, tốt hơn hết là nhìn phê bình như một hoạt động văn hoá, và sử dụng các công cụ của văn hoá học để xem xét và lý giải nó.
Hai là tìm hiểu một cách tường tận sự phát triển phê bình trong thế giới hiện nay, bao gồm cả những nước có nền phê bình thuộc loại phát triển hơn cả như Mỹ, Pháp, lẫn những nước mà nền văn học của họ có nhiều ảnh hưởng tới văn học ta, như phê bình ở Nga, ở Trung quốc. Qua người hiểu ta, tìm hiểu để tự biết mình đang ở chỗ nào trong sự vận động của thế giới, từ đó tìm ra những gợi ý cho sự đổi khác trong thời gian tới. Trong tất cả các hình thức có thể có của nó, trước sau phê bình cũng phải được nhìn nhận bằng những tiêu chuẩn chung, áp dụng cho mọi nền phê bình văn học đang có ở trên đời này, chứ không có những tiêu chuẩn dành riêng cho phê bình ở Việt Nam../.
2003
Đã in trong Phê bình và tiểu luận,2009
với nhan đề Đó chưa phải là phê bình...
(Nguồn: vuongtrinhan.blogspot.com/s)
Gửi ý kiến của bạn