"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
Tuy nhiên, sử sách chính thống
của triều Nguyễn cũng như một số tư liệu khác từ
trước đến nay đều không cho phép nói như thế. Vậy
tác giả của bài thơ ấy là ai? Chúng tôi xin nêu vấn đề
này ra để tìm hiểu và mong các nhà nghiên cứu văn học
sử tìm ra được tác giả đích thực của bài thơ:
Khóc
Bằng phi
Ới Thị Bằng ơi đã mất rồi!
Ới
tình, ới nghĩa, ới duyên ôi!
Mưa hè, nắng chái, oanh
ăn nói,
Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi.
Đập
cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành
hơi.
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi
theo hoài cứ chẳng thôi.
Đây là một bài thơ Nôm có
giá trị văn chương rất cao, kể cả về hình thức lẫn
nội dung. Lãng mạn nhất là ở hai câu luận (câu 5-6) với
ý tứ cực kỳ mới mẻ và táo bạo: vì quá nhớ thương
nên đập vỡ tấm gương mà nàng đã từng soi để mong
thấy lại được hình ảnh của nàng trong đó, và xếp
chiếc áo cũ mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để
thỉnh thoảng giở ra để thưởng thức lại dư hương.
Theo sách " phong giải trào" của Trần Danh Án, Ngô
Đình Thái và Trần Doãn Giác (thế kỷ XVIII-XIX) được
khắc in vào năm 1910(1) thì hai câu thơ này đã lặp lại
phần lớn các từ ngữ ở hai câu trong một bài thơ của
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798)
"Đập mảnh
gương ra tìm lấy bóng,
Xếp manh áo lại để dành
hơi"(2).
Trong 14 chữ ấy, tác giả sau chỉ thay thế
4 chữ của tác giả trước: đổi "mảnh gương"
ra "cổ kính" và thay "manh áo" thành "tàn
y". Văn phong trở nên bay bướm và hoa mỹ hơn.
Sở
dĩ trong hơn 70 năm qua, người ta thường gắn bài thơ
"Khóc Bằng phi" với vua Dực Tông Anh Hoàng đế
(tức là vua Tự Đức) có lẽ vì các lý do sau:
- Phần
lớn lời thơ, cũng như nhan đề của tác phẩm, hiểu
theo nghĩa thông thường và nhận thức theo cảm tính, rõ
ràng là của một ông vua viết cho một nàng cung phi vừa
qua đời.
- Vua Tự Đức là một ông vua giỏi
về thơ văn, từng biên soạn khá nhiều tập sách bằng
chữ Hán và chữ Nôm, như "Ngự chế thi văn tập",
"Ngự chế Việt sử Tổng vịnh tập", "Luận
ngữ diễn ca", "Tự học giải nghĩa ca", và
cũng đã làm hơn 100 bài thơ Nôm.
- Lúc sinh
thời, trong nội cung của vị vua này, từng có đến hơn
100 bà phi tần. Dù không sinh được người con nào để
nối ngôi (có lẽ vì bệnh đậu mùa biến chứng), nhưng
mãi đến khi nhà vua thăng hà vào năm 1883, vẫn còn lại
103 bà vợ (femmes)(3).
rõ thứ bậc ở Nội cung".
Theo tờ dụ này, "về Hoàng quý phi trở lên, đã có
lệ sẵn", còn từ phi tần trở xuống, thì chia làm 9
bậc với các danh xưng và mỹ từ như sau:
1. Nhất giai
phi: gồm Thuận phi, Thiện Phi, Nhã phi.
2. Nhị giai phi:
gồm Cung phi, Cần phi, Chiêu phi.
3. Tam giai tần: gồm
Khiêm tần, Thận tần, Nhân tần, Thái tần.
4. Tứ giai
tần: gồm Khoan tần, Giai tần, Tuệ tần, Gián tần, Giản
tần.
5. Ngũ giai tần: gồm Tĩnh tần, Cẩn tần, Tín
tần, Uyển tần.
6. Lục giai: Tiệp dư.
7. Thất giai:
Quý nhân.
8. Bát giai: Mỹ nhân.
9. Cửu giai: Tài nhân
(13).
Riêng hàng phi trong 9 bậc ấy, đến tháng 12 năm
Tự Đức thứ 14, tức là tháng 1-1862, Cần phi được đổi
thành Đôn phi(14), và sau đó một tháng, Chiêu phi được
đổi thành Mẫn phi(15) ...
Mặc dù trong thời gian
tại vị, vua Tự Đức có đến hơn 100 bà vợ như đã
nói, nhưng chỉ có rất ít bà trong số đó được phong
đến hàng phi. Theo thông lệ của triều Nguyễn, con gái
của các trọng thần, dù mới tiến cung cũng được xếp
vào hàng tần hoặc hàng phi ngay, còn con gái của các quan
lại cấp thấp hoặc con nhà dân dã tuyển chọn từ ngoài
vào, dù đẹp người đẹp nết đến đâu, lúc mới nhập
cung cũng phải liệt vào hàng "Cửu giai Tài nhân",
hoặc thậm chí chưa được xếp vào hàng đó nữa, gọi
là "Tài nhân vị nhập giai".
Ngay cả một
người phụ nữ thông minh, có tài văn chương và được
sủng ái đặc biệt như Nguyễn Thị Bích (1830-1909), con
gái của Hộ lý Tổng đốc Thanh Hóa Nguyễn Nhược Sơn;
nhập cung năm Tự Đức nguyên niên (1848), lúc mới 19
tuổi, cũng chỉ được liệt vào hàng "Tài nhân vị
nhập giai". Đến năm Tự Đức thứ 3 (1850), bà mới
được phong làm Tài nhân, sau đó 10 năm (1860), được
phong làm Mỹ nhân, rồi Quý nhân, và đến năm 1868, bà
được tấn phong làm Tiệp dư. Cho đến cuối thời Tự
Đức (1883), bà chỉ được phong ngang bậc đó. Bà là tác
giả của tập thơ Nôm nổi tiếng "Hạnh Thục ca"
kể về sự kiện thất thủ Kinh đô Huế năm 1885. Mãi
đến năm Thành Thái thứ 4 (1892), bà mới được phong làm
"Tam giai lễ tần"(16), vẫn chưa đạt đến hàng
phi.
Nay đọc lại sử sách triều Nguyễn, chúng ta
thấy suốt thời Tự Đức, trong số các bà "phi tần
trở xuống", chỉ có 3 bà được phong lên hàng phi.
Đó là bà Thiện phi, bà Học phi và bà Cung phi. Tất
nhiên, đứng trên 3 bà phi ấy là bà Hoàng Quý phi ở địa
vị đặc biệt. Xin tóm lược tiểu sử của cả 4 bà để
thử tìm xem trong đó có bóng dáng của bà "Bằng phi"
nào đó hay không.
1. Bà Hoàng Quý phi: Bà tên thật
là Vũ Thị Duyên (còn có tên huý là Hài), sinh năm 1828,
con gái của đại thần Vũ Xuân Cẩn. Bà được tuyển
vào cung làm vợ vua Tự Đức từ năm 1843 khi nhà vua chưa
lên ngôi. Sau khi vua đăng quang, năm 1848, bà được phong
làm Cung tần, rồi lần lượt được thăng lên Cần phi
(1850), Thuần phi (1860), Trung phi (1861). Đến năm 1870, bà
mới được tấn phong làm Hoàng Quý phi(17). Bà là mẹ
nuôi của "Hoàng trưởng dưỡng tử" Dục Đức
(sau đó làm vua chỉ được 3 ngày thì bị bức tử). Khi
chết vào năm 1902, bà được triều đình Thành Thái tặng
thụỵ hiệu là Lệ Thiên Phụ Thánh Trang Ý Thuận Hiếu
Cần Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh Hoàng hậu. Miếu
hiệu của bà là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu(18). Như vậy, bà
mất sau vua Tự Đức đến 19 năm (1883-1902). Việc than
khóc thương tiếc nếu có thì chỉ có việc bà khóc vua
Tự Đức khi nhà vua thăng hà, chứ không có chuyện nhà
vua khóc bà này.
2. Bà Thiện phi: Bà phi này tên
thật là Nguyễn Thị Cẩm, thứ nữ của Hải An Kinh lược
Đại thần kiêm Định An Tổng đốc Nguyễn Đình Tân
(1798-1873). Ông người huyện Quảng Điền, đậu Hương
tiến (Cử nhân), làm quan từ thời Minh Mạng. Đến thời
Tự Đức, dù ông là một đại thần có công, nhưng vì
"con ông là Đình Cán cùng công tử Hồng Tập mưu làm
trái phép, Đình Tân tri tình mà dung túng ẩn nặc, bị
nghĩ tội "trượng đồ". Sau được vua gia ân cho
khai phục Hồng lô Tự khanh rồi mất, truy tặng Lễ bộ
Thượng thư"(19). Từ Cung tần, bà Nguyễn Thị Cẩm
được phong làm Chiêu phi vào năm 1860, rồi sau đó được
tấn phong làm Thiện phi(20).
3.Bà Học phi: Bà tên thật
là Nguyễn Thị Hương, người gốc tỉnh Vĩnh Long. Năm
1870, theo lệnh vua Tự Đức, bà nhận công tử Nguyễn
Phúc Ưng Hỗ (con của Kiên Quốc Công Nguyễn Phúc Hồng
Cai: 1845-1876) bấy giờ mới 2 tuổi làm con nuôi (cho nhà
vua). Về sau, vị Hoàng dưỡng tử này lên ngôi với niên
hiệu Kiến Phúc (1884).
4. Bà Cung phi: Bà mang họ
Lê, thường được gọi là Lê Thị Cung phi. Từ Thận
tần, bà được tấn phong làm Cung phi vào tháng giêng năm
Tự Đức thứ 13, tức là tháng 1-1860(21).
Xem đó
thì thấy, trong số các bà vợ thuộc hàng phi của vua Tự
Đức, không hề có bà nào mang danh hiệu là Bằng phi
cả.
Lúc còn tại thế, nhà thơ Phan Văn Dật
(1909-1987), một người Huế hiểu biết nhiều về lịch
sử và thơ văn triều Nguyễn, cũng đã phủ nhận bài
"Khóc Bằng phi" là của vua Tự Đức. Phan Văn Dật
thuộc thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến, sống cùng
thời với Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên...
Ông đã nổi tiếng trên thi đàn với những tập thơ
"Bâng khuâng" (1936), "Những ngày vàng lụa"
(1944)...(22). Sau năm 1975, một thi hữu cũ của ông là Chế
Lan Viên từ Hà Nội vào thăm Huế và ghé thăm ông tại
nhà trong Thành Nội. Trong cuộc đàm đạo giữa hai thi sĩ
về thơ ca, họ có nói đến bài "Khóc Bằng phi"...
Đến năm 1986, nhà thơ Chế Lan Viên đã nhớ lại và viết
rằng: "Người ta bảo của vua Tự Đức. Anh Phan Văn
Dật bảo tôi không phải, anh đọc tên bốn bà phi, thuộc
cả lý lịch từng bà, nhưng chẳng có bà nào là bà
Bằng... Tôi tin anh Dật đúng"(23).
Một loại cứ
liệu đáng quan tâm nữa là những bài vị thờ các bà
phi tần ở lăng Tự Đức. Nhà vua đã cho xây dựng trong
khu lăng tẩm của mình hàng chục tòa nhà với những chức
năng khác nhau, trong đó có Chí Khiêm Đường dùng "để
thờ phụng các phi tần"(24). Riêng bà Hoàng Quý phi
(Lệ Thiên Anh Hoàng hậu) thì được thờ chung với vua Tự
Đức tại Hòa Khiêm Điện. Còn tất cả các bà từ hàng
phi tần trở xuống đều được thờ tại Chí Khiêm
Đường. Hiện nay, tòa nhà này vẫn còn hầu như nguyên
vẹn, trong đó tồn tại hàng chục bài vị ghi rõ danh
hiệu của các bà. Trong khi ở đó hiện có bài vị thờ
bà Học phi và các bà khác thì chúng tôi không hề thấy
bài vị nào ghi danh hiệu "Bằng phi" cả.
Vào
năm 2007, nhà nghiên cứu Hồ Bạch Thảo ở New Jersey (Hoa
Kỳ) đã viết một bài rất có giá trị để "Tìm
hiểu về con người vua Tự Đức". Một trong những
kết luận mà nhà nghiên cứu này nêu lên là sự nghi ngờ
hữu lý về tác giả Tự Đức của bài "Khóc Bằng
phi". Ông viết:
"Tất cả những điều đã tìm
hiểu, có thể giúp cho việc đính chính bài thơ nổi
tiếng "Khóc thị Bằng"...; có thuyết gán cho Tự
Đức là tác giả...
"Thực vậy, xuyên qua cuộc
sống lứa đôi, vua Tự Đức không phải là mẫu người
đam mê về tình ái..."(25).
Chúng tôi tâm đắc với
nhận thức này.
Mới đây, khi ấn hành công trình "700
năm thơ Huế", Ban biên soạn vẫn chọn bài thơ ấy
cho là của Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (vua Tự Đức) để
đưa vào công trình. Mặc dù Ban biên soạn có chú thích
rằng: "Bài này cũng có quan điểm cho là không phải
của vua Tự Đức, nhưng mọi phân tích cũng chỉ dừng ở
mức độ phán đoán, chưa nêu được cứ liệu, ở đây
chúng tôi căn cứ vào giá trị tác phẩm gắn liền với
tính chất truyền tụng trong dân gian để ngõ hầu giới
thiệu một áng thơ hay của Huế xưa, và cũng bảo lưu
quan điểm về tác giả của bài thơ"(26).
Vua Tự
Đức sống cách chúng ta đã trên dưới một thế kỷ
rưỡi, còn bài "Khóc Bằng phi" thì mới xuất
hiện trên sách báo cách đây chỉ khoảng 70 năm với một
phong cách thơ thật lãng mạn, trữ tình. Quả thật đây
là một áng thơ hay, từng được nhiều người ưa thích
và thuộc nằm lòng. Nhưng đáng tiếc là chưa biết chắc
được tác giả của nó là ai. Bằng những cứ liệu văn
học và lịch sử, cũng như qua ý kiến của một số
người có quan tâm đến vấn đề như đã nêu trên, chúng
tôi cho rằng tác giả bài thơ đó không phải là vua Tự
Đức.
Nhưng dù sao, quá trình tìm hiểu vấn đề cũng
chỉ mới đi được nửa đường. Một nửa còn lại là
tìm cho ra tác giả chính xác của nó. Nghĩa là vấn đề
vẫn còn bỏ ngỏ. Rất mong mọi người, nhất là các nhà
nghiên cứu văn học tham gia tìm hiểu và xác minh để
thấy rõ hơn giá trị đích thực của bài thơ cũng như
của người làm ra nó.
P.T.A
(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)
(1)Trần Văn Giáp, "Tìm
hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học sử Việt
Nam", NXB KHXH, Hà Nội, tập II, 1990, tr.
199-201.
(2) Dương Quảng Hàm, "Văn học
Việt Nam", in lần thứ ba, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất
bản, Sài Gòn, 1961, tr. 142-143.
(3) Capitaine
Gosselin, "L'Empire d'Annam", Paris, 1904. Dẫn bởi Le
Dr. Gaide và H. Peyssonneaux, "Prince Kiên Thái Vương",
Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1925, tr. 26.
(4) "Từ
điển văn học", tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1984, tr.
67.
(5) Phan Khôi, "Chương Dân thi thoại", in
lần thứ nhất, nhà in Đắc Lập, Huế, 1936, tr. 3, 6, 9,
23.
(6) Dương Quảng Hàm, sách đ dẫn, tr.
142.
(7) Dương Quảng Hàm, "Việt Nam thi văn
hợp tuyển", Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, in lần
thứ tư, Sài Gòn, 1957, tr. 151.
(8) Dương Quảng
Hàm, "Việt Nam văn học sử yếu", Trung tâm Học
liệu Bộ Giáo Dục xuất bản lần thứ 10, Sài Gòn, 1968,
tr. 392-400.
(9) Thần kinh Tạp chí, số 10, tháng
5-1928, trang 914.
(10) "Thánh chế văn tam tập",
bản dịch của Tây Hồ Bùi Tấn Niên và Á Nam Trần Tuấn
Khải, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc trách Văn hóa xuất bản,
Sài Gòn, tập 2, 1973, tr. 43 và XLIX (quyển 10, tờ
7a).
(11) Dẫn bởi Bửu Kế, "Lăng Tự Đức",
Tạp chí Đại Học, Huế, số 31, tháng 2-1963, tr.
140.
(12) Bửu Kế, nơi đã dẫn.
(13) Quốc
Sử Quán triều Nguyễn, "Đại Nam thực lục", bản
dịch của Viện Sử Học, NXB KHXH, Hà Nội, tập XXVII, tr.
230.
(14) "Đại thực lục", bản dịch đã
dẫn, tập XXIX, tr. 263.
(15) "Đại Nam thực
lục", tập đã dẫn, tr. 279.
(16) Quốc Sử Quán
triều Nguyễn, "Đại Nam liệt truyện", bản dịch
của Viện Sử Học, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tập 3, tr.
77-78.
(17) "Đại Nam thực lục", bản dịch
đã dẫn, tập XXXII, tr. 8-9.
(18) "Đại liệt
truyện", bản dịch đã dẫn, tập 3, tr.
67-77.
(19) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, "Đại
Nam nhất thống chí" (thời Duy Tân), Thừa Thiên phủ,
bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Bộ Quốc
gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1961, tập trung, tr.
64.
(20) "Đại thực lục", bản dịch đã
dẫn, tập XXVII, tr. 231.
(21) "Đại Nam thực
lục", bản dịch đã dẫn, tập XXIX, tr.95. Xem thêm
"Nguyễn Phúc tộc thế phả" do Vĩnh Cao và nhóm
cọng tác viên biên soạn, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tr.
346-349.
(22) Hoàng Trọng Thược, "Hương
Bình thi phẩm", xuất bản tại Sài Gòn, 1962, tr.
185-193.
(23) Chế Lan Viên, "Sông Thương,
sông Hương trong dòng văn học", trong tập "Bài
thơ thôn Vĩ, thơ viết về Huế trước năm 1945, Sông
Hương xuất bản, Huế, 1987, tr. 21.
(24) Trích từ
"Khiêm Cung ký", bản dịch của Bửu Kế, Tạp chí
Đại Học, Huế, số 30, tháng 12-1962, tr. 916. Xem thêm bản
dịch trong: "Đại thực lục", tập XXXI,
tr.158.
(25) Hồ Bạch Thảo, "Tìm hiểu về con
người vua Tự Đức", Tạp chí Nghiên cứu và Phát
triển, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 5
(64), năm 2007, tr. 50.
(26) "700 năm thơ
Huế (1306-2006)" (dày 1.177 trang), NXB Thuận Hóa, Huế,
2008, tr. 135.
in lần thứ ba năm 1957, bài thơ này có tựa là "Khóc Nàng Bằng" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều.
Ông viết để thương tiếc người vợ lẽ là Bằng Cơ.