Năm ấy, tôi đến thăm Du Tử Lê ở một căn nhà “nghèo nàn, nhưng đầy ắp nghĩa tình” ở vùng Nam California.
Nhà thơ lúc ấy đang sống với một người phụ nữ, mà sau này tôi mới biết là mẹ của Orchid Lâm Quỳnh, một cô giáo và cũng là một nữ MC khá nổi tiếng của Trung tâm Asia.
Tôi mời anh cộng tác với báo Chuông Sài Gòn, và từ đó chúng tôi thân thiết với nhau như anh em ruột, qua nhiều sinh hoạt văn nghệ thơ, nhạc, được tổ chức tại Úc.
Cho đến cuối tuần vừa rồi, Du Tử Lê vẫn còn gửi bài đều đặn cho Văn Nghệ Tuần Báo, và còn hứa sẽ “làm cú chót” trước khi “giã từ vũ khí” bằng buổi ra mắt sách ở Úc.
Tôi có nói dỡn với anh Lê rằng: “Thời buổi này mà còn in sách, thì đúng là dân điếc không sợ súng!” Anh cười đùa: “Chỉ sợ chân đau, chứ chẳng sợ gì cả!”
Thế nhưng mọi chuyện đã khép lại.
Theo lời kể của chị Phan Hạnh Tuyền (mẹ của Orchid Lâm Quỳnh), tối Thứ Hai vừa qua sau khi đi ăn với bạn bè về thì anh than mệt, nên muốn vào phòng ngay. Mười phút sau chị Tuyền vào thấy anh ngủ say nên yên chí đi ra. Nhưng sau đó đứa cháu gái chạy vào ôm hôn ông ngoại, rồi chạy ra nói:
“Ông Ngoại lên trời rồi!”
Anh “lên trời” khoảng 8 giờ tối Thứ Hai, ngày 7 Tháng Mười, 2019, tại nhà riêng, nơi căn phòng của anh, nhẹ nhàng, và thanh thản, ở tuổi 77.
Trước đây, chúng tôi có lần đưa cái Bút hiệu của anh ra để cười đùa. Tôi nói: Giang Tử là chết sông, Khổng Tử là chết trương, còn Du Tử… Lê thì chắc là… thê thảm lắm!
Thế nhưng, cái chết êm ả trên chăn ấm nệm êm của anh đã hoàn toàn trái ngược với cái bút hiệu.
Du Tử Lê làm rất nhiều thơ, nhưng tôi chỉ thích các bài:
-Khúc Thụy Du (Anh Bằng phổ nhạc)
-Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển (Phạm Đình Chương)
-Trên Ngọn Tình Sầu (Từ Công Phụng)
-Kiếp Sau Xin Giữ Lại Đời Cho Nhau (Phạm Duy)
-Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn (Phạm Đình Chương)…
Chính vì thích những bài trên, nên tôi đã có lần hỏi chuyện nhà thơ Du Tử Lê về những bài thơ đó.
Bài “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển” Du Tử Lê làm lúc tưởng không còn đường nào về Việt Nam, chính vì thế mà bài thơ đã ra đời rất sớm (1977), biểu tỏ tâm tư hoàn toàn tuyệt vọng đó – không những của ông, mà còn là của hàng triệu người lưu vong khác:
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi, sao trở lại quê nhà
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển là quê hương tôi đó
rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến nơi
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
những năm trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong queo
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp lại các con tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng tối
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá không còn ai hát nữa
(bài hát giờ cũng như một hồn ma)
khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong tận huyệt với linh hồn.
Đến năm 1978, Du Tử Lê có thêm bài “Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn”, bài thơ dù ngắn, nhưng cũng đủ để nhạc sĩ tài danh Phạm Đình Chương thổi hồn để trở thành một bản nhạc nổi tiếng trong Cộng đồng người Việt tị nạn:
đêm về theo vết xe lăn
tôi trăng viễn xứ hồn thanh niên vàng
tìm tôi đèn thắp hai hàng
lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây
ngỡ hồn tu xứ mưa bay
tôi chiêng trống gọi mỗi ngày mỗi xa
đêm về trên bánh xe qua
nhớ tôi Xa Lộ nhớ nhà Hàng Xanh
nhớ em kim chỉ khíu tình
trưa ngoan lớp học chiều lành khóm tre
nhớ mưa buồn khắp Thị Nghè
nắng Trương Minh Giảng lá hè Tự Do
nhớ nghĩa trang quê bạn bè
nhớ pho tượng lính buồn se bụi đường
đêm về trên vết xe lăn
tôi trăng viễn xứ, sầu em bến nào?
Riêng bài “Khúc Thụy Du” Du Tử Lê nói đó không phải là một bài thơ tình mà là một bài viết về thân phận con người, khi xảy ra trận đánh Tết Mậu Thân năm 1968 (với xác người chồng chất). Nhưng với sự tài tình và gọt dũa của nhạc sĩ Anh Bằng, nó đã biến thành một bản tình ca đôi lứa.
Khúc Thụy Du
1.
như con chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đánh mất
trong vụng nước cuộc đời
như con chim bói cá
tôi thường ngừng cánh bay
ngước nhìn lên huyệt lộ
bầy quạ rỉa xác người
(của tươi đời nhượng lại)
bữa ăn nào ngon hơn
làm sao tôi nói được
như con chim bói cá
tôi lặn sâu trong bùn
hoài công tìm ý nghĩa
cho cảnh tình hôm nay
trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gặm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình
trên mặt đất nhiên lặng
không tăm nào sủi lên
đời sống như thân nấm
mỗi ngày một lùn đi
tâm hồn ta cọc lại
ai làm người như tôi?
2.
mịn màng như nỗi chết
hoang đường như tuổi thơ
chưa một lần hé nở
trên ngọn cờ không bay
đôi mắt nàng không khép
bàn tay nàng không thưa
lọn tóc nàng đêm tối
khư khư ôm tình dài
hãy nói về cuộc đời
tôi còn gì để sống
hãy nói về cuộc đời
khi tôi không còn nữa
sẽ mang được những gì
về bên kia thế giới
Thụy ơi và Thụy ơi
tôi làm ma không đầu
tôi làm ma không bụng
tôi chỉ còn đôi chân
hay chỉ còn đôi tay
sờ soạng tìm thi thể
quờ quạng tìm trái tim
lẫn tan cùng vỏ đạn
dính văng cùng mảnh bom
Thụy ơi và Thụy ơi
đừng bao giờ em hỏi
vì sao mình yêu nhau
vì sao môi anh nóng
vì sao tay anh lạnh
vì sao thân anh rung
vì sao chân không vững
vì sao anh van em
hãy cho anh được thở
bằng ngực em rũ buồn
hãy cho anh được ôm
em, ngang bằng sự chết
tình yêu như ngọn dao
anh đâm mình, lút cán
Thụy ơi và Thụy ơi
không còn gì có nghĩa
ngoài tình anh tình em
đã ướt đầm thân thể
anh ru anh ngủ mùi
đợi một giờ linh hiển.
Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách. Tên sao người vậy. Anh đã sống và viết đến những giây phút cuối cùng.
“Tại hạ vô cùng ngưỡng mộ”.
Nguyễn Vy Túy