Tay với trời cao không thấu nổi
Tuổi già mất bạn cũng mồ côi
(LQ)
Rất có thể Lữ Quỳnh đã làm những câu thơ đầu tiên trước khi viết những trang văn. Nhưng rồi, văn của ông được ấn hành trước những tập thơ. Đối với Lữ Quỳnh, cái trước và cái sau, hình như không phải là dấu mốc để văn chương của ông khởi đi. Bởi văn ông viết, có rất nhiều trang, nhiều đoạn như thơ. Đó là nét đặc thù của một Lữ Quỳnh, chàng nghệ sĩ luôn tìm kiếm một nửa đã mất trong ông. Cái nửa ấy là người tình, người bạn, là góc phố, là cơn mưa, là tuyết trắng… là những gì ông đã đến với, và rồi chúng đã “bỏ rơi ông”, một mình, cô độc.
Và, có lẽ vì vậy, trong thơ ông luôn nảy bật những cảm xúc là những “hồi ức buồn”, gom lại và sáng rực lên trong suốt cuộc lữ để rong chơi với văn chương:
Sinh nhật tôi
Một ngày tháng chạp
Những ngọn nến thắp
Là hồi ức buồn
Bốn câu thơ như một con đường phủ đầy tuyết trắng, dẫn người đọc đến một khu rừng mùa đông với chút lạnh se sắt vừa ngọt ngào đủ để chúng ta cong gập cùng tác giả hoài nhớ về khoảng cách thời gian, đã trôi qua; nó rất xa mà cũng thật gần, bám chặt vào tâm trí ông, rong rêu hoài nhớ, u uẩn những vết cào xước trên tấm phông màu lổn nhổn quá khứ, bình thản trôi qua cuộc đời ông đến tê lòng.
Bởi thế, yếu tính trong thơ Lữ Quỳnh luôn là sự trộn lẫn giữa cái đang có và cái đã qua, là những dấu hỏi, những ray rức về một đời người hiện hữu trong cõi ta bà, về một thế giới bập bềnh nghiêng ngửa, về vận nước nổi trôi.
Hai tập thơ: Sinh nhật của một người không còn trẻ và Những giấc mơ tôi là sự song trùng về những dằn vặt nội tâm, những giằng xé không ngừng trước cuộc đời ông đã chứng kiến, đã trải qua và cảm thấu, như một khải thị về sự đau khổ, luôn đè nặng lên đôi vai của người lữ hành cô độc.
Thơ ông không ẩn dụ, chẳng mật ngôn, chỉ loang loáng những vệt trắng buồn như những cơn mưa mùa đông xứ Huế mà ông đã sống qua, thời niên thiếu. Những cơn mưa vật vã trắng đục, vật vã lạnh buốt đâm thấu vào cõi tiêu điều trần gian, sụt sùi mộng tưởng đến tan nát mảnh đời trầy trượt, tan nát lòng chưa kịp ấm. Ông luôn đeo mang những vật vã ấy, đeo mang những sùi sụt đến tận miền đất khách xa xôi như một “chiếc xe buýt chạy vòng không bến đỗ”. Chiếc xe chạy qua nghĩa địa đìu hiu, qua những ngã tư không đèn tín hiệu, không cả bóng người, chỉ thấp thoáng bong bóng mưa xao… Hình ảnh này, phải chăng cũng là một phần đời trong ông? Và cũng khốn khổ thay, tôi nghĩ, cảnh giới bên ngoài bong bóng mưa xao, là những thấp thoáng bóng dáng ông xiêu ngã, chếnh choáng men khổ lụy, ẩn nấp xa xôi hình ảnh mờ ảo, nhòa nhạt của những Rimbaud, Verlaine một thời xiêu xiêu trên góc phố Montparnasse với những ly rượu rỗng không soi tận đáy đêm sâu. Ông cũng vậy, khi cầm ly rượu đỏ trên tay tràn nỗi nhớ và nhìn khói thuốc lang thang khói cũng ngập ngừng, là tâm trạng hụt hẫng, lẻ loi trước vòng tròn im lặng của thời gian. Ông đang tìm điều mà M. Proust đã tìm. Ông đến tận cùng nơi chốn đã mất. Và chẳng còn gì! Tất cả đều hiện lên như một ảo giác, trước mặt ông, và trong tâm trí ông. Khoảnh khắc lãng đãng khói sương khiến ông mang cái khổ đau tạo thành cái đẹp, và ngược lại. Nó thoáng qua, mộng mị, không thật; lộng lẫy đến hiu hắt:
Quán hoa giấy chiều nay lãng đãng
Uống ngụm nắng tàn trong chiếc ly không
Những ly rượu không rượu, tưởng tượng một chút men cay, cũng là một cái cớ để nhớ về người bạn thiết của ông, cả đời tìm kiếm cái đẹp để dâng hiến cho cuộc đời:
Hai chiếc ly thủy tinh
Lóng lánh rượu vàng
Giữa sương khói – khói hương.
Những cái bóng của đam mê, đau khổ, lãng mạn với chút lửa chiều đông. Ông cũng vậy, mang cõi hiu quạnh vào thơ và thong thả bùi ngùi cất lên giọng hót của con chim lạc đàn:
nghĩa địa mùa này trơ mộ chí
và lòng ta cũng mộ chí gập ghềnh.
Đó chẳng phải là những hụt hẫng nối tiếp nhau giữa cõi đời lởm chởm gai góc, lăn lóc những xương xẩu rũ mục? Đến cả những điều mà ông hớn hở gọi là hạnh phúc vào một ngày mùa đông, bên cây thông giáng sinh, khi hồi tưởng về chốn cũ, vẫn là những ray rức không cùng, rồi lý giải rằng sự bình yên là lúc nỗi cô đơn dịu dàng. Cảm giác có thật như một bất chợt hiện về trong tâm trí, đến nỗi cô đơn dẫy tràn trong thơ ông và trở thành thuộc tính của thơ ông.
Những hồi ức của Lữ Quỳnh là chuỗi dài những cô đơn với tâm trạng rã rời bởi những mất mát, khổ lụy cõi trần, không ai cởi được dây trói, không ai có thể làm cuộc hồi sinh những gì đã vĩnh viễn thoát ra khỏi chốn trần gian triền phược. Ông cũng vậy, một mình, cô đơn đến tận cùng, như hoàng tử bé con từ một tinh cầu lạ, lạc vào sa mạc cát mênh mông của Saint Exupéry:
Thèm rượu mà ta không uống được
Bạn thì xa tri kỷ cũng đi rồi
Tay với trời cao không thấu nổi
Tuổi già mất bạn cũng mồ côi
Và rồi, những giấc mơ cùng đến, lộn xộn không hình hài bởi trước đó những hình hài kia đã vội vã ra đi không hẹn trước. Vì vậy cuộc đời còn lại là một sân khấu thênh thang và rực rỡ bóng tối, u nhòa rong rêu bám dính trên từng ô cửa. Hơi thở nhẹ tựa màn sương. Tiếng động mỏng tang như lớp khói chiều ngày cuối năm ngóng đợi. Hiu quạnh đến trống không âm thanh, trống không sắc màu:
Có tiếng vỗ tay râm ran
Trên từng hàng ghế trống
Lạnh lẽo gió thiên đường
…
Để lúc tỉnh ra
Ngồi một mình trong bóng tối
Quạnh hiu.
Cùng với giọng nghẹn ngào, thổn thức đó, những bài thơ viết trước năm 75 là tâm trạng chung của cả một thế hệ, nói như Lữ Kiều lịch sử chọn chúng ta chứ chúng ta không có quyền chọn lịch sử! Trắng ra là những âm mưu và quyền lực đã nghiền nát tuổi trẻ Việt Nam thời nội chiến. Tan thương, kinh hoàng… và hàng chục tính từ không viết hết trên trang giấy với Huế Mậu Thân, đã được gọi lên với hàng trăm ngôn ngữ khác nhau về một thảm cảnh, chỉ khác nhau giữa lò hơi ngạt và những viên đạn trực diện với những người, một thời là bằng hữu. Cảnh tượng đó, đối với những trái tim mẫn cảm trước nỗi đau đồng loại, không thể không run rẩy, nức nở. Bài thơ Mùa xuân ở Huế ông viết năm 1968 lạnh băng như tuyết giá nhưng cồn cào nỗi đau đến vô tận:
Bây giờ thành phố đó
Đạn rền khắp ngoại ô
Bạn bè anh ngã xuống
Chết đi như tình cờ
…
Mùa xuân không pháo nổ
Chỉ súng dội quanh ngày
Với một trái tim như vậy, ông còn nghẹn nấc với một Hoàng Sa, với một Trường Sa, Fukushima!
Quê hương không khước bỏ, đoạn lìa một ai. Và cũng không một ai đủ gan dạ đoạn lìa xứ sở. Họ là những kẻ bị đẩy ra khỏi mảnh đất, quê hương như bầy người Do Thái hàng ngàn năm trước!
Lữ Quỳnh cũng lang thang bởi những hình nhân không tim không óc, để cuối cùng ở tận phương trời xa lắc, ông bật nấc lên:
Tôi không còn trẻ để cầm tay em nữa
Nhưng lòng luôn sẵn lửa cho em.
Câu thơ không ám chỉ, không định hướng nhưng đọng lại, ngoài những điều ông gọi “hồi ức buồn” là cả một trái tim rực cháy, luôn hướng về phía trước.
Lữ Quỳnh là vậy, ông luôn tìm ghép lại một nửa đã mất trong ông.
NGUYỄN LỆ UYÊN
Tuy Hòa, tháng 2- 2014