Jennihoang Thưa anh, cái phút ban đầu anh khám phá ra mình là nhà thơ là vào lúc nào và nó như thế nào? Nó có phải là vào một đêm mưa gió bão bùng không?
Nguyễn Trọng Tạo: Tôi không nhớ rõ, nhưng có lúc tôi đã viết về “sự cố” đó thế này:
NGHIỆP VÀO THÂN
Hồi nhỏ tôi học giỏi toán, từng đỗ đầu vào lớp 8 chuyên toán của tỉnh, nhưng do địa phương "làm chậm" thủ tục nên tôi không vào học ở đấy. Tuy nhiên, điểm văn hàng năm của tôi vẫn không thua gì điểm toán (5/5), và thầy dạy văn vẫn thường giao cho tôi phụ trách một số buổi ngoại khóa văn học cho lớp hoặc toàn khối. Có lẽ thầy giáo đã phát hiện ở tôi có một năng khiếu gì đó về văn học chăng?
Lúc ấy, tôi không ý thức về năng khiếu văn học của mình. Nhưng từ nhỏ tôi vẫn ham đọc sách. Con mọt sách là tôi đã gặm hầu hết tủ sách của cậu (bố) tôi còn sót lại sau cải cách ruộng đất, chỉ trừ những cuốn chữ Nho và chữ Pháp thì cậu tôi phải kể lại cho tôi nghe. Tôi gặm nhanh những cuốn sách mới mua về cùng với những cuốn sách mượn được của bạn bè, có cả những cuốn sách chép tay mà sau này tôi mới biết là sách của Tự lực Văn đoàn, loại sách đặc biệt bị cấm kỵ lúc bấy giờ. Nhưng chủ yếu là sách truyện, còn thơ thì hầu như rất ít. Vả lại, tôi ít thích những bài thơ trong sách giáo khoa, đại để như "Hà Nội có cầu Long Biên - Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng" quá giản đơn, hoặc những câu khó hiểu đến kỳ quặc như "Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt - Đảng ta đây xương sắt da đồng" của Tố Hữu... Những thứ thơ ấy làm tuổi nhỏ của tôi bị dị ứng. May thay, trong tủ sách của cậu tôi còn một cuốn sách cũ đã rách bìa và mất mấy trang đầu, viết về thi sĩ Hàn Mặc Tử. Những câu thơ, bài thơ được trích dẫn ở đây khiến tôi bàng hoàng như bị một ma lực kỳ diệu cuốn hút. Thơ và cuộc đời Hàn Mặc Tử thực sự ám ảnh tôi. "Người đi một nửa hồn tôi mất - Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ". Tôi lấy sổ tay chép lại những bài những câu tôi thích. Đến câu: "Bây giờ tôi dại tôi điên - Chắp tay tôi lạy cả miền không gian" thì hình ảnh thi nhân hiện lên trong tôi đầy thương cảm. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi thẫn thờ suốt buổi chiều như người nhiễm bệnh. Đêm hôm đó tôi không học bài được. Và đúng là bệnh thi sĩ đã nhiễm vào tôi. Thế là nỗi ám ảnh về Hàn Mặc Tử, về kiếp thi nhân đã trào ra đầu cây viết của tôi, đứa trò nhỏ của người thầy tự chọn. Bài thơ của tôi được viết ra không có đầu đề:
Tôi nằm nhoài giữa ánh trăng
Lưng tôi thảm cỏ rối hăng hương nồng
Bạn ơi, trăng hóa dòng sông
Tôi như thuyền nhỏ trôi trong nỗi niềm
Bây giờ tôi dịu tôi hiền
Biết đâu tôi dại tôi điên bao giờ
Mai sau tôi chết trong thơ
Hay là thơ chết bên bờ hồn tôi
Trăng trên ngọn liễu trăng ngồi
Tôi trên ngọn liễu tôi rơi bây giờ
Bạn ơi, trăng quá ngây thơ
Còn tôi cằn cỗi già nua thế này
Bao giờ tôi hóa làn mây
Hẳn tôi muôn thuở sum vầy cùng trăng…
Tôi đưa cho cậu tôi đọc. Cậu tôi hỏi: "Con chép ở đâu ra đấy?" Tôi thưa:"Con đọc cuốn Hàn Mặc Tử rồi con làm". Cậu tôi "à" một tiếng, rồi đọc lại bài thơ. Xong, ông nói: "Con làm thơ lục bát được đấy. Học Hàn Mặc Tử nên có những ý lạ. Nhưng thời nay người ta không thích loại thơ này đâu. Cất đi. Nhưng khi nào thích làm thơ thì con cứ làm cho vui, chứ thành nhà thơ thì khổ lắm. Cổ kim có nhà thơ nào sung sướng gì đâu. Hàn Mặc Tử tài là thế mà đâm bệnh chết. Cụ Nguyễn Du nói rồi: "Đã mang lấy nghiệp vào thân - Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa". Tôi hiểu là ông vừa can ngăn vừa khuyến khích tôi.
Mười năm sau tôi in tập thơ đầu tiên và mang về tặng cậu tôi một cuốn. Ông mừng lắm, thưởng cho tôi một chén rượu. Đọc xong tập thơ, ông hỏi: "Sao không thấy bài thơ lục bát anh làm hồi còn đi học?". Tôi giải thích: "Hồi đó cậu bảo con cất đi, bởi người ta không thích loại thơ ấy mà. Về sau con thấy cậu nói như vậy là đúng, nên con không đưa in đâu cả". Cậu tôi lại "à" lên một tiếng rồi nói: "Thôi thì cứ phải tùy thời. Rồi cũng có lúc in được đấy".
Mấy tập thơ sau đó, tôi đưa bài thơ ấy đều bị gạt ra. Mãi đến năm 1989 nó mới được in trong tập thơ Gửi người không quen của tôi. Đấy là lúc văn học đã bước qua thời "Đổi mới". Nhưng cậu tôi không còn sống để được đọc bản in bài thơ đầu tiên của tôi, ông đã yên giấc 12 năm trước đó.
truonglapnng Những nhà thơ trẻ sau này hình như họ lấy cái táo bạo, để hơn nhau, càng loạn càng táo tợn càng hơn người, càng vô luân càng bay cao. Ông có nghĩ thế không?
Nguyễn Trọng Tạo: Sao lại “càng vô luân càng bay cao” được nhỉ? Cái gì cũng có quy luật của nó, có giá trị thẩm mỹ (hay đạo đức) của nó. Nếu không, thế giới sẽ loạn, văn chương sẽ loạn. Ý bạn muốn nói rằng, văn chương thời nay đang “loạn chuẩn”? Quả cũng có vậy, nhưng nếu chịu lắng lại chút, chờ đợi chút thì thế giới lại “đâu vào đấy” cả thôi. Đừng nôn nóng hỡi các bạn trẻ. Nghệ thuật hay sự phát triển tài năng không thể “đốt cháy giai đoạn”. Sự táo tợn của tuổi trẻ là cần thiết. Sự bức xúc của tuổi trẻ trong sáng tạo là cần thiết. Nhưng, “hãy đợi đấy”. Đừng tưởng bơi qua ao là bơi qua được Thái Bình Dương.
Nhiều bạn làm thơ trẻ đã nhận biết được mình thực sự là ai sau cơn bột phát tài năng từ năng khiếu. Nhưng không ít bạn trẻ đã ngộ nhận tài năng và phải trả giá đắt. Đó là bi kịch của ảo tưởng. Hay hiểu cách khác thì đó là sự hợm hĩnh kiêu ngạo, coi thường nghệ thuật, coi thường công chúng.
ngthitrtrang Thưa ông, ông có đọc nhiều những tác giả Miền Nam? Tác giả đã ra nước ngoàỉ Lần đầu tiên ông đọc văn chương Miền Nam, cảm giác của ông thế nào?
Nguyễn Trọng Tạo: Tôi đọc khá nhiều “tác giả miền Nam”, nghĩa là tác giả Sài Gòn trước 1975 cũng như các tác giả Việt hải ngoại sau đó, cũng nghe nói có người nổi tiếng lắm nhưng tôi chưa được đọc. Tuy nhiên, đọc các tác giả miền Nam trước 1975 lần đầu tiên, tôi có cảm giác ngôn ngữ văn chương của họ bị cũ. Cũ về cách dùng từ. Hình như những năm 1960 – 1970 họ dùng nhiều từ của thời tiến chiến, thời thơ mới, nhiều từ Hán-Việt. Ngay cả Vũ Hoàng Chương trước tôi thích nhưng đọc những sáng tác về sau lại thấy cũ. Lúc đó ở miền Bắc đã qua thời văn chương bình dân mới, đến sự thách thức của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, thời “bác học xô bồ” thời chiến tranh, rồi đến lượt các nhà thơ “thế hệ chống Mỹ” cách tân… Cũng cựa quậy lắm, cũng đồng quan niệm với nhóm “Sáng tạo” cả thôi, nhưng muộn hơn. Đặc biệt sau 1975 thơ miền Bắc táo bạo cách tân hơn phía Nam. Một hồi người ta nói “Văn Bắc báo Nam” cũng có nguyên cớ gì đó. Cái cảm giác “văn Sài Gòn cũ” nó ám ảnh tôi hơi bị lâu. Ngay cả Bùi Giáng là người tôi thích, tôi vẫn cảm giác ngôn ngữ của ông bị cũ. Vì thế, cái gì thích của ông thì tôi rất thích. Ngược lại cái gì tôi không thích thì rất… không thích. Có lẽ thời đó, không nhớ rõ lăm, tôi thích thơ Nhã Ca, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, đặc biệt Nguyễn Bắc Sơn đầy cá tính. Thích tiểu luận Mai Thảọ Về sau thích Võ Phiến khi ông viết cuốn Văn học miền Nam. Du Tử Lê thì tôi thích khoảng sau hơn. Có điều lạ, không hiểu sao trước 1975 tôi lại rất thích lời ca trong ca khúc Trịnh Công Sơn hay truyện ngắn Bình Nguyên Lộc. Nó có gì đó rất mới, mà không xa lạ. Có thể chủ nghĩa hiện sinh ảnh hưởng vào Sài Gòn tức thì, một ít người “hợp tạng” thì tiếp thu được, còn thì bị quá thái hoặc ngô nghê.
Nhưng giờ thì mọi việc đã khác. Văn học đã đi con đường đầy đa dạng và phức tạp. Văn Bắc, văn Nam hay văn hải ngoại không còn phân biệt nữa. Nhưng có một xu thế gần đây khiến tôi rất lo ngại thực sự là: văn chương đang quay về “bình dân hóa” kiểu Phonclo. Đấy là sự đi ngược xu thế phát triển của văn chương – từ dân gian tới bác học.
Johnny Thỉnh thoảng cháu có đọc bài chú trên báo nước ngoài. Chú đăng bài như vậy, chú gặp khó khăn không?
Nguyễn Trọng Tạo: Câu hỏi này có vẻ quan tâm cho vận mạng chính trị của tôi lắm. Nhưng bạn yên tâm, bởi tôi là tôi chứ không phải tôi là đài báo của nước nào cả, phe nào cả. Cách đây gần 20 năm, chị Thụy Khuê, nhà bình luận văn nghệ xuất sắc của đài RFI có hỏi tôi như thế, và tôi đã trả lời chị ấy rất vui: Chị nghĩ tôi là cái loa của đài chị hay đài Hà Nội sao? Cám ơn bạn, và hãy tin như thế.
Hà Nội, 19.4.2010
NTT