Trish Nguyen:
Văn chương của Đông Phương (Việt
******
Hoàng Chính:
Sao (nỡ) hỏi làm chi cái câu ngặt nghèo!
Bạn Trish Nguyen thân mến. Tôi than thở như thế là thật lòng bởi tôi chỉ đọc được sơ sài tiếng Việt, loáng thoáng tiếng Anh và rất lưa thưa tiếng Pháp, nên văn chương Việt Nam thì đọc được bản gốc còn văn chương nước ngoài dù là Đông phương hay Tây phương nếu không viết bằng Anh ngữ thì đành đọc qua bản dịch; vì vậy tôi phải uống thuốc liều mới dám mạnh miệng trả lời câu hỏi của bạn.
Văn chương mênh mông như biển và khó nắm bắt như những con sóng; nhận diện chúng chưa rõ nét thì khó có thể phát biểu và so sánh thứ này với thứ kia một cách tỏ tường.
Thôi thì chúng ta cứ thử liều mạng chuyện trò về văn chương Việt Nam qua những gì tôi may mắn có dịp đọc qua, và nhắm mắt (đưa chân) đưa ra một vài nhận xét nho nhỏ xem sao nhé.
Sau khi đọc khá nhiều tác phẩm văn chương tiếng Việt và một số lượng tương đối vừa phải văn chương Tây phương; đặc biệt là văn chương Anh ngữ, tôi có những nhận xét (rất nhỏ nhoi và võ đoán) như thế này:
(1) Không gian và thế giới của nhà văn nước ngoài đặc biệt là phương tây rộng hơn không gian và thế giới của nhà văn Việt
Kết quả là tầm nhìn chúng ta bị thu hẹp. Dường như ngay cả những nhà văn tên tuổi của Việt
Lịch sử cho thấy chúng ta luôn bận rộn với chiến tranh, nhưng cái tầm của những tác phẩm tiếng Việt viết về chiến tranh cũng thu hẹp trong không gian của một chế độ, một cuộc đấu tranh. Chúng ta hiếm (hoặc không có được) cái nhìn bao quát (the big picture) trong góc nhìn của tác giả. Văn chương tiếng Việt không bước ra được phía ngoài hàng rào kẽm gai của biên giới địa lý, văn hóa, ý thức hệ. Tác giả Việt
Giả dụ người Việt Nam có mặt trong cuộc Thập Tự Chinh ngàn năm trước, hoặc tham gia thế chiến hai, hồi đầu thế kỷ hai mươi; và giả như có tác giả Việt Nam viết về những cuộc chiến ấy thì chúng ta chắc cũng lại loay hoay quanh vai trò người lính lê dương, những buồn phiền tha hương; thương mẹ hiền, nhớ người em gái nhỏ… chứ không có được cái tầm - cả bề sâu lẫn bề rộng - của những tác phẩm hiện đại nước ngoài mà The English Patient là một ví dụ.
(2) Tôi cũng thấy văn chương Đông Phương đặc biệt là Việt
Văn chương tiếng Việt của chúng ta hiếm khi làm cho người đọc cảm thấy được như họ đang có mặt ở nơi xảy ra sự việc, và đang tham dự vào niềm vui hay nỗi buồn của nhân vật. Tác giả Việt
Nói chung là người đọc của chúng ta dễ tính và đơn giản. Cái dễ tính và đơn giản ấy khiến người viết trở nên lười biếng và hài lòng với cái tầm thường.
Và văn chương của chúng ta trở thành thứ văn chương mặt bằng, chứ không phải văn chương 3D.
(3) Văn chương tiếng Việt chúng ta (cũng như nhiều ngành nghệ thuật khác của Việt
Chúng ta bị “ám” bởi những tên tuổi lớn; nhất là những tên tuổi nước ngoài. Nhiều tác giả viết tên thánh bổn mạng của mình lên mảnh giấy, rồi dán lên trán hay đeo trên cổ như bùa hộ mạng khi sáng tác. Chúng ta thờ các ông Đốt (Dostoevsky), các ông Kierkegaard, các ông Nietzsche, các ông Hölderlin, các ông Gide, các ông Goethe, các ông Heidegger, các ông Marquez, các ông Sartre, các ông Steiner, các ông Mayakovsky, các ông Bùi Giáng, các ông Phạm Công Thiện các ông vv và vv… như thần linh; chúng ta chọn họ làm thánh bổn mạng. Suy nghĩ, nói năng, viết lách… không ra ngoài bài giáo lý, trang kinh bổn của các đấng ấy. Chẳng khác gì ngày xưa các cụ nhà ta cứ Khổng Tử viết thế này, Mạnh Tử viết thế kia... Dạo trước tôi có ông bạn họa sĩ khá thân, mỗi lần anh mở miệng là có ông-thánh-tác-giả “Bông Hồng Vàng” hiện ra, đứng lù lù bên cạnh. Và những chuyện anh ấy nói không thoát ra được cái vòng phấn mà thánh Paustovsky quy định. Ấy là mới chỉ nói về các vị thánh trong văn chương và triết học, chưa bàn đến các vị thánh có vòng hào quang chính trị quấn quanh đầu.
Nói thì nói vậy thôi chứ tôi nghĩ khi nhắc tới những thành phần đóng vai trò tạo dựng nên một nền văn chương, ngoài người viết có lẽ chúng ta cũng nên nghĩ tới người in (ra tác phẩm) và người đọc. Trong ba “thứ” người ấy thì người viết thiệt thòi nhất bởi anh hoặc chị ta bị gán cho nhiều “sứ mạng” nhất. Và là người đầu tiên chịu hình phạt khi trách nhiệm không hoàn tất. Họ như kẻ lao động chân tay thiếu ăn, được chủ (nô) trao cho một thân cây xù xì và bảo hãy chạm, hãy khắc một pho tượng thật đẹp. Dù tay nghề có khéo nhưng bụng đói tay run, nhiều khi phải bóc luôn vỏ cây ra để nấu chút canh lỏng, ăn cho qua cơn đói; và nếu do một sự may mắn nào đó, bức tượng thành hình, kẻ hưởng lợi lại nằm trong cái nhóm thứ hai kia. Thành ra bắt những anh chàng ốm đói phải đoạt huy chương vàng trong cuộc thi thế vận thì chẳng công bằng chút nào.
Chết rồi, nãy giờ ham vui, quên mất câu ngày xưa Mẹ vẫn dặn dò: “Không biết, dựa cột mà nghe!”
Bạn Trish Nguyen thân mến. Bầu trời tự ngàn xưa là một vòng tròn. Vòng tròn ấy mầu đỏ hung sớm mai, trắng chói lòa ban trưa và đen thẫm lúc đêm về. Đêm tối, cái vòng ấy lấm tấm sao. Vòng tròn ấy thay mầu ba lần trong một ngày. Ấy là bầu trời của con ếch ngụ cư dưới một đáy giếng. Mặt trời, mặt trăng không bao giờ lân la qua cái vòng tròn miệng giếng. Chỉ có những vì sao lấp lánh lúc đêm về. Con ếch ấy là tôi. Con ếch quả quyết mặt trời, mặt trăng không bao giờ có thật. Con-ếch-tôi cũng là một người viết tiếng Việt và dĩ nhiên nó cũng tầm thường như những con ếch hèn mọn khác. Chuyện trò cho vui vậy thôi, bạn Trish Nguyen đừng vội tin những gì con ếch nói, dù đôi khi trong mớ chiêm bao hỗn độn, con ếch ấy thấy nó (và các bạn bè nó) to lớn như những con bò.
Dù sao cũng cám ơn bạn đã đặt câu hỏi tạo điều kiện cho tôi tìm tòi học hỏi thêm; đồng thời cho tôi sống lại cảm giác ngay ngáy lo âu những ngày thơ bé, ham chơi, đua đòi chúng bạn, quên lời mẹ dặn dò.
Bây giờ tôi phải đi tìm một cây cột nào thật chắc, dựa vào cho khỏi ngã.
Thân mến.