Cu
Tố vừa đi vừa khóc, một tay kéo quần, một tay lau nước
mắt. Thật tội cho thằng bé, mới tý tuổi đầu mà phải
hứng chịu quá nhiều đau khổ. Bằng tuổi nó, con nhà
khác thì được học hành đến nơi đến chốn, còn nó,
đang học dở cấp 2 phải bỏ học vì hoàn cảnh gia đình.
Mẹ nó bỏ làng ra đi dễ đến sáu, bảy năm rồi, còn
bố nó là kẻ nát rượu nhất vùng, mỗi khi quá chén lại
thượng cẳng tay hạ cẳng chân, trút lên đầu nó tất
cả sự hận thù về mẹ nó. Nghe đâu, mẹ nó sau một
cuộc mây mưa tình ái với gã hàng xóm, nó được hình
thành từ bận ấy. Không phải lão Phục - bố nó - có
vấn đề về chuyện chăn gối, mà cái chính để mẹ nó
ngoại tình đẻ ra nó là do hoàn cảnh …. Vâng, thì hẳn
là do hoàn cảnh, chứ mẹ nó vốn là người nổi tiếng
hiền thục nhất làng, đâu muốn lão Phục phải nuôi con
người khác. Ngay cả thằng cu Đấu, lão Phục cũng thừa
biết là con của lão Q, nhưng vẫn quyết cưới, vẫn hì
hì cười: “Cá vào ao ta, ta được”, chứ đâu phải mẹ
cu Tố chủ tâm lừa dối. Người làng Trúc Xuân vốn rộng
lượng, nhất là trong hoàn cảnh gia đình cu Tố, nên
nhiều người có vẻ bênh mẹ cu Tố ra mặt, tất tật
mọi chuyện đều đổ lỗi cho hoàn cảnh nó trớ trêu,
nó oan nghiệt, không chịu chiều theo ý người …. Vì
thế, thượng vàng hạ cám, người làng Trúc Xuân đổ
tuột lên đầu lão Phục! Thật tội cho lão, nghe mọi
người bóng gió, mỉa mai, lão chỉ biết gượng cười.
Lão không thích phân trần, vì đấy không phải bản tính
của lão, hơn nữa, nếu có nói, cũng không ai chịu
nghe, càng không ai chịu tin. Xưa tới nay, ở cái
làng Trúc Xuân này, có ai coi lão ra cái thá gì? Trước
mặt thì cười cười nói nói, ra vẻ thân tình, thương
mến lắm, nhưng vừa đi khỏi dăm ba bước là những cái
bĩu môi, những lời châm chọc chạy theo lưng lão.
Ôi!
Sự đời thật chua chát! Không ai chịu hiểu, chịu tin
lão cả! Cũng chẳng có ai là người để lão hiểu, lão
tin cho được! Thật chua chát sự đời! Thật uất ức số
phận! Thôi, kệ những lời công kích, kệ những lời đàm
tiếu, lão cứ thản nhiên mà sống, cứ thản nhiên mà
cười, coi như chưa hề có những lời độc địa kia đã
bóp nát cái hạnh phúc nhỏ nhoi mà lão cố công bồi đắp.
Có lẽ, cũng bởi tại lão cứ nhởn nhơ mặc kệ mọi
chuyện, muốn ra sao thì ra nên lời ong tiếng ve càng thêm
tích tụ. Làng Trúc Xuân không lạ gì cái cảnh: Mỗi khi
thấy lão ngoài đường, là y rằng có những cánh tay chỉ
trỏ, những lời thì thầm to nhỏ, và sau đó, là những
trận cười no nê, sảng khoái của những kẻ “rửng
mỡ”, thích chọc ngoáy vào đời tư kẻ khác, mặc
dù, đời tư của chúng còn bốc mùi khăm khẳm gấp vạn
- đấy là nói theo cách của lão.
Chẳng rõ thực hư
những lời xì xèo thế nào, nhưng quả thực, càng nhìn,
thằng cu Tố càng không có nét gì giống lão, ngoại trừ
ánh mắt buồn buồn, giọng nói nhấm nhẳng của kể yếm
thế thì có vẻ hơi giông giống. Nhưng mà thôi, chuyện
bố con nhà cu Tố có giống nhau hay không là chuyện khác,
chuyện không nên bàn! Vì chuyện đó hiển nhiên ai ai cũng
biết, ai ai cũng rõ, chẳng có gì là lạ. Chuyện lạ là
không hiểu vì sao, mấy ngày hôm nay, hễ cứ nghe tiếng
khóc của cu Tố, không ít kẻ làng Trúc Xuân phải cúi
mặt thở dài….
*
Chuyện
xảy ra cũng khá lâu rồi. Cách đây chừng mười tám,
mười chín năm thì phải. Ngày ấy, mẹ cu Tố vẫn chưa
về làm dâu nhà họ Nguyễn, vẫn còn là cô thôn nữ ngây
thơ với tình yêu trong sáng đầu đời. Người làng Trúc
Xuân bảo: Không biết nàng Kiều của cụ Nguyễn Du đẹp
đến mức nào, chứ mẹ cu Tố thì chao ôi là đẹp. Con
gái thôn quê gì mà nước da cứ trắng nõn trằng nà,
trắng đến nhức cả mắt. Lại còn đôi mắt nữa chứ.
Mỗi khi giận dỗi hay ấm ức điều gì, đôi hàng mi cong
vút chỉ khẽ chớp chớp vài cái, thì hỡi ơi, dù đấng
trượng phu có đang đằng đằng sát khí cũng phải chùng
lòng, phải cố mà ngọt ngào, xu nịnh, để đôi mắt kia
đừng nhỏ lệ. Chung quy cũng chỉ tại mẹ cu Tố đẹp.
Nếu không thì làm sao mà đàn bà, con gái ở chốn
quê, quanh năm giỏi mỗi việc chổng đít lên trời lại
thích lườm nguýt mẹ nó! Xấu xí đến ma chê quỷ hờn
như Thị Nở, đương nhiên là có tội với dòng giống,
xóm làng. Mà quá đẹp như mẹ cu Tố thì lại càng có
tội! Tội lớn là đằng khác!
Tạo hóa thật bất
công! Mọi nét đẹp của thế gian này dường như đều
dồn hết cho mẹ cu Tố. Đến cả người đàn ông tràn
trề nhựa sống, là niềm tự hào duy nhất, là nỗi khát
khao vật vã từng đêm của các cô gái làng cũng bị mẹ
nó nhăm nhe cướp mất. Của đáng tội, hai người ấy
quả thật rất xứng đôi. Nhưng cũng chỉ tại mẹ nó.
Bao nhiêu trai làng sẵn sang quỳ gối, dâng nộp tất tật
gia tài để được nên vợ thành chồng, vậy mà cứ dửng
dưng, không chịu chọn lấy một ai, lại chọn luôn anh
chàng Q đẹp trai, giỏi giang, và khỏe mạnh nhất làng.
Ban đầu, mọi người bán tín bán nghi, nghĩ mẹ cu Tố
chỉ coi chàng Q như người anh trai tốt bụng. Nhưng từ
cái lần rình trộm, thấy chàng Q ghì chặt mẹ cu Tố vào
vòm ngực vạm vỡ, thì, con gái làng Trúc Xuân
nhảy dựng lên như giẫm phải lửa. Không ai bảo ai. Tất
cả đều hậm hực: Như thế là không được! Như thế
thì thật quá quắt! Đã quá đẹp rồi lại còn muốn
chiếm nốt cái đẹp cuối cùng của làng Trúc Xuân ư?
Không đời nào! Thế gian được vợ hỏng chồng, các cụ
đã nói, cấm có được sai! Yêu ai thì yêu. Lấy ai thì
lấy. Nhưng nhất quyết không được là chàng Q! Nhất
định phải như vậy!
Thế rồi, chẳng hiểu bằng cách
nào mà tin đồn chuyện trai trên gái dưới của mẹ cu Tố
với rất nhiều gã du thủ du thực, phải vụng trộm nên
đến nhà ông lang Thạnh không dưới hai mươi lần, lan
truyền khắp hang cùng ngõ hẻm, xì xèo tới tận làng Đọ
- Đá xa xôi. Lại còn cả chuyện ông lang khuyên mẹ nó
đừng lấy chồng, vì không còn khả năng sinh đẻ, cũng
được mọi người kể lại thật rành mạch, vanh vách cứ
y như chính họ là người bắt mạch kê đơn. Đến ngay
cả cái anh chàng Q phong độ là thế, nam nhi là vậy, mà
còn gạt phắt tất cả lời thề thốt, van xin của mẹ
cu Tố: Làm gì có chuyện dòng máu họ Hà đang lớn dần
trong bụng! Làm gì có chuyện chỉ yêu một người và
trao thân duy nhất cho một người! Chẳng lẽ cả huyện
Thiên Thi này nói sai?
Không thể tin được!. Dòng
họ Hà đã ba đời độc đinh nên không thể! Không thể!
Không thể!
Lần đầu tiên, mẹ nó ngửa mặt nhing trời
bằng ánh nhìn sắc lạnh rồi tức tưởi cười. Lần đầu
tiên, con gái làng Trúc Xuân nhìn theo mẹ nó bằng ánh mắt
dịu lửa. Và cũng lần đầu tiên, người làng Trúc Xuân
thấy chàng Q vật vờ vất vưởng như một kẻ mất
hồn.
Đấy là chuyện của mười tám năm về trước.
*
- Tiên sư thằng Tố! Tiên sư
cái giống mèo mả gà đồng! Mày chết dẫm ở xó nào
rồi. Mày có về ngay không. Lại còn hậm hực cơ à? Mẹ
cha thằng bố con mẹ mày chứ! Mày tưởng thế là hay à?
Gieo nhân nào gặt quả ấy thôi con ạ! Thiên hạ người
ta đều nguyền rủa cái dòng giống nhà mày đấy …. Có
về ngay không hở Tố. Tố ơi là Tố. Con ơi là con. Về
nhà đi con… Tố ơi! Tố!
Đấy. Lão Phục lại chửi
thằng cu Tố. Lại điệp khúc chiều nào cũng bắt thiên
hạ phải nghe. Không nghe không được. Tiếng cứ the thé,
the thé. Lại riết róng lên như thế thì ai mà chịu nổi.
Kể cũng tội cho lão, cả đời nào dám to tiếng với ai.
Ra đường cứ the le the nét, gặp ai cũng không dám nhìn
thẳng thì làm sao dám chửi thiên hạ. Thôi, không chửi
được “chúng nó” thì về nhà chửi thằng Tố cho bõ
tức. Mà cũng tại cả mẹ thằng cu Tố. Ai lại bỏ chồng
bỏ con đi biền biệt như vậy? Gì thì gì, cũng phải về
thăm nó vài bận, hoặc không cũng phải tin về cho lão
biết sống chết thế nào… Đằng này… Cũng tội cho cả
lão. Vò võ nuôi hai thằng con hộ vợ. Ăn đói mặc rách,
vất vả không kể được, chỉ mong khi mẹ nó về, nhìn
thấy chúng nó như ngô như ngỗng là lão mừng.
Vậy mà thiên hạ còn độc mồm thối miệng, cứ xỏ
xiên lão, cứ nhắm vào tim lão mà đâm, mà xoáy.
Lão
nhớ lắm chứ. Lão quên làm sao được cái tối ấy, ừ,
cái tối của mười tám năm về trước, cái tối mà mẹ
cu Tố định gieo mình xuống sông tự vẫn. Lão đã phải
quỳ xuống, van xin mẹ nó đừng làm điều dại dột. Lão
xin được cưới mẹ nó với lời hứa, dù trai hay gái
cũng yêu thương như con đẻ của mình. Lão đã làm được,
thậm chí còn quá xuất sắc là đằng khác. Thì đấy,
lấy nhau gần chục năm trời, đã bao giờ lão để mẹ
cu Tố phải đói khát, khổ sở? Đã bao giờ lão đánh vợ
đánh con? Chưa? Đúng! Chưa một lần! Lão biết, mẹ cu Tố
lấy lão chẳng qua vì tình thế bắt buộc. Còn lão? Lão
yêu mẹ cu Tố thật lòng, yêu hơn bất cứ gã đàn ông
nào, kể cả với lão Q cũng vậy. Ngay cả cái đận đẻ
thằng cu Tố, bao người khuyên lão bỏ mẹ cu Tố
mà cưới vợ khác, nhưng lão không nghe. Lão yêu hai mẹ
con cu Đấu. Lão cũng yêu cái sinh linh bé nhỏ vừa oe oe
cất tiếng khóc chào đời. Thiên hạ nói sao cũng mặc.
Chỉ cần mẹ cu Tố đừng bỏ lão là được. Khổ sở
thế nào, lão cũng không sợ. Lão yêu và tôn thờ mẹ cu
Tố như con chiên ngoan đạo. Mà cũng tội nghiệp cho mẹ
cu Tố. Cũng đồng cam cộng khổ với lão, cũng hay lảm
hay làm, cũng hết lòng vun vén cho gia đình, chứ đâu ăn
trắng mặc trơn như những người khác. Đấy, cái đận
lão ốm thập tử nhất sinh, tưởng khó qua được, mẹ
cu Tố chẳng thức trắng bao đêm, hai mắt thâm quầng, gò
má trơ hết cả xương vì lo lắng cho lão đấy thôi…
Nhà còn bao nhiêu thóc, bán bằng sạch, thậm chí, còn
chạy đôn chạy đáo, vay mượn tiền bạc chữa chạy
cho lão. Thế mà thiên hạ còn ngứa mồm, bảo
rằng vợ lão không hề yêu lão, chỉ mong lão nhanh chết
để dễ tằng tịu với gã nhân tình. Chao ôi! Miệng lưỡi
thế gian, khác gì nọc độc của lũ mãng xà. Lão mà có
sức khỏe như mấy gã lực điền, thể nào cũng khối
thằng bị lão đấm cho vêu mõm, cho hết thói ăn quàng
nói bậy.
Ôi! Lão thèm được quay lại cái trận ốm
ấy biết chừng nào. Lão thèm được sống lại cái phút
giây mẹ cu Tố ôm lão, vật vã thét gào:
- Anh ơi, đừng
bỏ mẹ con em. Ông trời ơi, đừng bắt anh ấy phải
chết!
Gớm! Lúc ấy sao mẹ cu Tố gào to thế, thảm
thương thế. Bao nhiêu năm làm nghĩa vợ chồng, lão chưa
thấy mẹ cu Tố một lời to tiếng. Lúc nào, cũng lặng
lẽ như một cái bóng. Lúc nào, cũng tỏ ra an phận thủ
thường. Vậy mà…
Cầm bàn tay chằng chịt lằn gân
xanh của vợ, lão thấy nghẹn đắng trong lòng. Muốn nói
những lời thật dịu ngọt, nhưng cứ nhìn thấy đôi mắt
thâm quầng, nụ cười héo hắt của vợ, lão lại nghẹn
lời. Lão muốn an ủi đôi câu, rằng lão đã khỏe, rằng
lão không muốn nhìn thấy vợ hao gầy như thế, nhưng
miệng lão cứ cứng đờ như người trúng gió. Lão hận
ông trời, không cho lão khéo ăn khéo nói như mọi người.
Lão hận chính con người lão, trình độ văn hóa cao nhất
làng, gì thì gì cũng học xong tú tài, thế mà một lời
“có cánh” cũng không nói nổi. Lặng lẽ nuốt lệ vào
tim, lão quyết tâm chiến đấu với bệnh tật. Lão phải
sống, phải bù đắp những khổ cực cho mẹ cu Tố. Lão
phải sống, phải nuôi dạy hai thằng con khôn lớn nên
người. Gia đình của lão cần có lão! Lão không
thể chết!
Lão thật có lỗi với mẹ cu Tố!
Lão
cũng có tội với dòng họ Nguyễn nhà lão!
*
Lão nuôi hai đứa con từ lúc
còn đỏ hỏn. Lão yêu thương chúng như con đẻ của
mình. Nhưng lòng lão vẫn cứ thấy trống trải. Lão thèm
được ôm ấp, được chăm bẵm một sinh linh bé bỏng
mang dòng máu của mình. Bao ngày, bao đêm, lão tưởng
tượng cảnh bồng con đi chơi, cảnh thằng bé tè ướt
cả áo. Lão sẽ không cáu gắt mà khì khì cười. Sẽ đặt
nó lên đầu, bảo nó cứ tè nữa đi. Tè nhiều vào, thậm
chí có ỵ lên đầu bố cũng được. Giá lúc bấy giờ,
cu cậu có đòi bố thơm vào cái mẩu tre xinh xinh của nó,
lão cũng thơm một cách hãnh diện. Đúng! Lớn lên, lão
sẽ dạy nó cách bắt ếch, nhìn thế nào để biết hang
nào có ếch, hang nào không có?... Mà không. Ai lại truyền
cho con cái nghề mạt hạng ấy. Phải cho nó học đến
tận Đại học. Phải lo cho nó thành ông kỹ sư,
hoặc ông cử nhân gì gì đó chứ nhất quyết không thể
để nó lại giống lão, quanh năm suốt tháng chỉ quẩn
quanh với khóm tre làng. Lão đã từng khao khát, đã từng
van xin nhưng mẹ cu Tố cứ khất lần, trốn chạy. Giờ
thì lão đã già, đã kiệt sức để làm lại từ đầu.
Lão cũng chẳng giận mẹ cu Tố nữa đâu. Lão cũng chẳng
ép mẹ cu Tố đẻ cho dòng họ Nguyễn một đứa con nào
nữa. Lão không giận. Lão thề đấy. Lão chỉ cần
mẹ cu Tố sớm trở về.
Nhưng… biết đến bao giờ
mẹ cu Tố mới trở về làng?
*
Người ta bảo, mẹ cu Tố không chịu được
cái mùi thum thủm mỗi khi bố nó ghé vào tai mẹ nó thủ
thỉ điều gì, hơn nữa, chẳng biết có thật hay không,
chỉ nghe người làng Trúc Xuân truyền miệng là bố nó
thần kinh có vấn đề sao ấy, trước khi làm bất cứ
việc gì, dù là chuyện sinh hoạt vợ chồng cũng phải
tắm táp sạch sẽ rồi “phát biểu cảm tưởng” chừng
15, 20 phút. Chẳng biết vì ác cảm với lão Phục mà
người làng Trúc Xuân gán cho lão cái tính khí khác người
đó? Hay vì thương lão mà nại ra lý do để an ủi lão:
Tuy có hai thằng nối dõi nhưng lại là “con hoang con
gửi”, không phải con do lão tạo ra. Người làng Trúc
Xuân cũng bảo mẹ nó không yêu bố nó, lại cộng thêm
tính cách đỏng đảnh đến lập dị của bố nó mà mỗi
lần bố nó đòi hỏi cái chuyện vợ chồng thì
mẹ nó đều sợ hãi, trốn chạy. Cuộc sống gia đình
với mẹ nó tựa như địa nguc, không hơn không kém nên
mẹ nó buồn, buồn lắm. Nghe đâu, mẹ nó đã mấy lần
tự tử nhưng không thành, lần vì có người phát hiện
cứu sống, lần vì thương anh nó sớm cảnh mồ côi nên
mẹ nó “hoãn” chuyện tự tử. Lẽ ra sẽ không có nó
hiện hữu ở cõi đời nếu không có buổi tối ấy, cái
buổi tối mà mẹ nó nhục nhã trong hạn phúc, nhơ nhuốc
trong tự hào, cái tối mà bố nó - hay chính xác là bố
hờ nó, tức lão Phục, không say xỉn…
Hôm ấy, trời
lâm thâm mưa, mẹ nó đang lầm lũi bôi vôi vào chân cho
bố nó dã rượu. Chẳng hiểu vì quá chén, hay lão Phục
đốc chứng thế nào mà co chân đạp thẳng vào mặt mẹ
nó, lè nhè mắng nhiếc mẹ nó là loại người đĩ bợm,
nhơ nhớp … Lão chửi vợ thậm tệ, chửi hệt như mấy
bà bị mất gà mất vịt. Lão không kiêng nể gì, lôi cả
bố mẹ vợ ra chửi, mà chửi thật khéo, thật hay, đố
ai dám bảo lão là người say thật. Nghe lão chửi, hàng
xóm như được nghe một bài tuyển chọn những bài chửi
“đặc sắc”. Không! Phải gọi là một kiệt tác chửi
vợ thì mới đúng! Không ai bảo ai cứ dỏng tai lên mà
nghe, cứ tấm tắc khen: Có học có khác, chửi vợ như
thế mới đáng gọi là chửi, chứ như thằng Q, thằng D
chẳng biết chửi vợ gì cả, đặc quê mùa, đặc
ít học. Có lẽ do quá mệt hay bài chửi vợ đã đến
câu kết, lão Phục lăn ra ngủ. Chỉ chờ có vậy, hàng
xóm vỗ tay đôm đốp, thậm chí có người còn réo lên
đề nghị: Ông Phục ơi! Chửi lại cho bọn cháu nghe với.
Chắc nhận ra sự vô lối của mình, người đó vội vàng
cải chính: - Cháu xin lỗi! Khuya rồi để ông còn nghỉ,
mai có rảnh ông lại chửi tiếp nhé. Lại rộ lên tiếng
cười. Làng Trúc Xuân như vừa được nghe vở hài kịch
đặc sắc không mất tiền - mà lời thoại mới tuyệt
làm sao, ngoa ngôn làm sao!
Có lẽ do tủi hận, vợ Phục
rón rén ra ngoài, khe khẽ kéo vạt áo chấm chấm những
giọt lệ. Trời lúc này đã tạnh mưa, trăng đã chênh
chếch rắc ánh vàng và gió thì cứ mơn man, nhè nhẹ. Vợ
Phục cứ đi, như mộng ảo, như bị trời đêm quyến rũ.
Bao nỗi hận, bao dồn nén lâu ngày cứ vơi dần, vơi dần,
khi ngọn gió đêm cứ mơn man, ve vuốt cơ thể. Đến gốc
đa cuối làng, hình như đã mệt mỏi, hoặc cũng có thể
thị (Vâng, từ giờ phút này ta gọi vợ Phục là thị
cho tiện, cho dễ gọi) muốn ngẫm nghĩ về số kiếp hẩm
hiu, đen bạc của thị, hoặc cũng có thể thị muốn
chiêm ngưỡng, tận hưởng sự quyến rũ của màn đêm
nên không nhìn trước nhìn sau, cứ thế ngồi xuống. Ngồi
một lát, chừng vài phút gì đó, thị cảm thấy không
ổn, có cái gì lạ lạ khác thường. Thị nhìn
ngang nhìn ngửa… và thị hoảng hốt: Trời ơi! Cái gì
thế này? Một gã đàn ông đang cởi trần nằm ngủ. Thị
vùng đứng dậy bỏ chạy. Được quãng vài mét, thị
đứng lại thở, và thị tò mò muốn biết kẻ nào dám
liều lĩnh đến vậy. Rón rén lại gần, từ từ cúi
xuống… Thị rủn hết người: Gã Q! Sao gã lại nằm ở
đây giờ này? Có thể gã đi đổ đó đêm, mệt quá ngủ
thiếp đi chăng? Hay gã chán vợ?... Thị định đánh thức
gã dậy nhưng thị ngại. Thị sợ những gì gã sẽ làm
khi tỉnh giấc. Thị nghĩ ngợi. Thị lưỡng lự. Thị đắn
đo khá lâu và rồi lý trí mách bảo: Không được! Mi còn
chồng, còn con, còn danh dự! Thị rùng mình bỏ chạy,
nhưng rồi cũng như lần trước, chạy được vài bước,
thị không thể chạy được nữa vì đôi chân cứ
nặng trĩu, đầu óc cứ quay cuồng. Thị cố gạt khỏi
đầu hình ảnh người đàn ông tuổi tứ tuần với những
múi thịt cuồn cuộn trên cơ thể cường tráng, với bộ
ngực vạm vỡ và cái mùi mồ hôi rất bẳn gắt, rất
khê nồng, rất đặc trưng đàn ông của gã, nhưng… thị
không thể làm được. Hình ảnh cơ thể rất đàn ông,
rất quyến rũ và cái mùi mồ hôi đậm đặc chất “đực”
của gã cứ theo làn gió bám riết lấy thị, xoắn xuýt
lấy thị, len lỏi vào tận trong cơ thể của thị làm
thị khát, khát đến khô cuống họng. Thị muốn trốn
chạy nhưng đôi chân dường như hóa đá. Người thị cứ
nóng dần, nóng dần, nóng đến ngột ngạt. Vậy mà trời
đêm lại cứ như vào hùa, như đồng lõa, như trêu tức
cơn khát đang cồn cào trong thị làm thị càng bức
bối, khổ sở. Thị không làm được! Thị ngồi bệt
xuống thở dốc và hiêng hiếng ánh mắt dõi về phía gã.
Đêm thì hoang vắng, tiếng dế lại nỉ non, ánh trăng thì
cứ đĩ bợm rắc bạc lên con người gã, càng làm cho
những bắp thịt của gã cuồn cuộn, căng đầy sức
sống. Đầu óc thị như quay cuồng, như sắp nổ tung. Thị
không thể chịu đựng thêm được nữa. Thị không
thể!
Thị từ từ đứng dậy, từ từ đi đến, cổ
họng rát bỏng, hơi thở gấp gáp…
*
Người làng Trúc Xuân sẽ không đả động
đến chuyện đó nếu như bố cu Tố không say rượu mà
gây lộn. Kể cũng tội cho lão Phục, người cứ còm
nhom, gân guốc, cái miệng cá ngão cứ ngoác ra trên bộ
mặt xương xẩu, dù muốn giấu nhẹm đi nỗi nhục của
thằng đàn ông nhưng không thể giấu được, vì hai thằng
trời đánh thánh vật ấy, càng lớn càng chẳng giống
lão tý nào, cứ phổng phao béo tốt, cứ đen sạm đen xì
và đặc biệt cứ giống như tạc gã hàng xóm của lão.
Thế mới chết lão! Thế mới khổ cho lão! Ôi, cái thằng
Tố, giống bố đẻ từ cái dáng đi khuyệnh khoạng, nước
da đen nhẻm đến cái khịt mũi lắc đầu… mà bố đẻ
nó có xa xôi gì đâu, cách nhà lão chỉ dăm bảy ngôi
nhà.
Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu hôm đó lão
không đi dự tiệc mừng bà Nga về nhà mới. Trời xui đất
khiến thế nào mà gia chủ lại xếp lão ngồi cùng mâm
với lão Q. Lão cũng đã đề phòng sẽ có chuyện gì đó
xảy ra nên thoái thác nhưng bà Nga cứ khẩn nài, lão đành
tặc lưỡi: Cứ coi như không có “nó” ngồi cùng mâm
là được, mà nó có nói gì mình cứ coi như điếc là
xong. Nghĩ vậy, lão mới tủm tỉm cười ngồi xuống.
Nhưng sự đời không chiều theo ý lão, bởi sự đời vốm
đã đỏng đảnh, cong cớn mà trong hoàn cảnh của lão
thì… Những câu khen thằng cu Tố đẹp trai giống bố
làm lão điên tiết, nhưng vì thể diện, lão cắn răng
chịu đựng. Tợp nhanh ngụm rượu, lão và lấy và để,
nuốt không kịp nhai, cốt cho xong bữa mà ra về, nhưng
lão vẫn không được buông tha. Hình như những
người cùng mâm không chịu cảm thông cho nỗi khổ của
lão, hay họ cố tình “chơi đểu” lão mà cứ chuốc
rượu, bắt lão cụng ly, vì thằng cu Tố với tướng tá
ấy sau này đẹp trai phải biết, sẽ tài giỏi nhất
vùng. Lão Q còn đểu giả, nhăn nhở hàm răng “ba sáu
chín không” vàng khè, cụng ly chúc lão có hai thằng con,
thằng nào cũng đẹp trai giống bố. Cầm cả bát cơm,
lão ném thẳng vào mặt lão Q. Bữa rượu mừng bà Nga về
nhà mới trở thành cuộc tử chiến. Vốn đã thâm thù,
hận nhau đến tận xương tận tủy, giờ lại thêm men
rượu, mọi sự thật được phơi bày…
Cuộc “tử
chiến” sẽ không kết thúc nếu cu Tố không cầm hòn
gạch đáp trúng đầu lão Q làm lão Q bất tỉnh. Với tư
thế là kẻ chiến thắng, lão Phục ôm chặt cu Tố, hôn
lấy hôn để rồi ngẩng cao đầu nói giữa đám đông:
Ai còn dám nghi ngờ thằng cu Tố không phải là con tôi?
Khổ thân thằng Tố, mặt cắt không còn giọt máu, bị
“bố Phục” kéo riết về nhà, vừa đi vừa cười ngặt
nghẽo, vừa lảm nhảm: Cu Tố đích thực là con của bố
Phục, đích thực cu Tố nhỉ…
Hồi ấy, cu Tố mới
bảy tuổi.
*
Từ ngày
ấy, cu Tố mất mẹ. Nghe đâu, người làng Trúc Xuân bảo,
sau khi lão Q tỉnh lại đã bỏ làng ra đi, còn mẹ cu Tố
cũng khăn gói khỏi làng. Không biết lão Q có đi cùng mẹ
cu Tố hay không? Người thì bảo mẹ cu Tố cùng lão Q
ngược Lạng Sơn buôn hoa quả. Người thì lại bảo mẹ
cu Tố lên Hà Nội làm ô sin, còn lão Q vào tận Đồng
Nai trông coi xưởng gỗ cho thằng em họ. Chẳng biết đúng
sai thế nào, chỉ tội cho thằng cu Tố, kể từ bữa đó,
luôn bị bố Phục chửi bới, đánh đòn.
Và hôm nay,
cũng như mọi bận, cu Tố lại vừa đi vừa khóc, dân
làng Trúc Xuân lại nhìn nhau cố nén tiếng thở dài.