Câu chuyện đời tư của thầy Từ Thức tôi giữ trong lòng lâu lắm và không nghĩ đến việc viết thành truyện. Chuyện của một ông thầy tu lại càng phải giữ kín. Có lẽ nội tâm của thầy bị thúc bách, buộc thầy tìm cơ hội giải toả. Có lẽ thầy vẫn còn vương vấn mối tình đầu khi mình còn trẻ mới biết yêu. Thời gian thầy kể cho tôi thì cô Lượm đã hai mươi, thầy cũng đã ba mươi tám. Người thầy muốn cởi mở tâm sự phải là người lớn tuổi hơn chứ. Thầy đã tâm sự với sư phụ mình là đủ lắm rồi. Câu chuyện của thầy xãy ra lúc thầy mới mười tám và chưa đi tu. Hơn nữa thầy mới gặp tôi có một lần trong đêm giao thừa tình cờ mà đã nhận xét tôi là người có thể gởi gấm nỗi lòng. Cho dù thầy muốn tâm sự với tôi cho nhẹ nhàng bớt sự dằn vặt chắc cũng không hiệu quả vì nghe xong là xong câu chuyện.
Vài tháng sau câu chuyện được kể, tiện đường tôi ghé thăm chùa. Thầy mừng. Thầy trò lại hàn huyên bên tách trà ở mái hiên sau. Vườn sau của chùa tôi nhớ có một cây khế trái rất nhiều, mà là khế chua. Vì cây khế chua này mà một lần tôi nghĩ ông thầy tu trẻ này biết ăn trầu vì trên cái sạp ngồi có một bình vôi của mấy bà già trầu."Tôi không ăn trầu, nhưng thích ăn khế, mà cây khế này chua quá tôi phải dùng vôi bôi cho nó thành ngọt". Tôi thử, ngọt thật. Từ đó mỗi lần lên chùa hai thầy trò đãi nhau ăn khế chua ngọt. Cây khế thu hút những con nhồng kéo nhau về vừa ăn vừa kêu vang, trái rụng đầy sân.
Hôm nay thầy nhắc lại chuyện Từ Thức "Mỗi lần gặp anh tôi chỉ muốn trở lại vai tay cùng tử Từ Thức thôi. Chuyện của tôi kể cho anh hôm trước cũng với một mục đính để anh nhìn con người thật của tôi. Chiếc áo tôi đang mặc chỉ là phương tiện cho tôi trốn đời, nhưng mình đâu có trốn được lòng mình". Tôi mập mờ đang hiểu thầy muốn nói gì nên hỏi "Sao thầy chọn con?". Thầy trả lời làm tôi bất ngờ "Để anh viết nó ra. Có lẽ nhiều người đọc làm cho tôi cảm thấy mình không giả dối với ai hết. Tôi đi tu không phải để giải thoát, để đi trốn chính mình hơn". Rồi Từ Thức kể hai câu thơ trong chiếc nón cời chính là chìa khoá thôi thúc mình chọn con đường ẩn thân mà không cảm thấy chạy trốn. Nhưng vì mặc cảm còn nặng nên mặc cảm chạy trốn vẫn còn. "Tội nghiệp mẹ tôi. Mẹ có đứa cháu nội trong lòng dù sao cũng vui lắm nhưng xã hội lại không tha thứ. Mẹ phải quyết định đưa con và cháu "đi trốn". Mẹ đang dạy học phải xin nghỉ ngắn hạn để tìm nơi ổn định gia đình. Mẹ con dắt díu đi vào Nha Trang. Tìm thuê được căn nhà nhỏ giữa vườn rau bát ngát, ngay dưới chân núi Hải Đức". Nghe đến đây tôi giật mình vì thời gian đó tôi cũng sống ở dưới chân núi này. "Sáng sáng nằm nghe tiếng chuông chùa từ trên núi vọng xuống đã làm tôi thấy được con đường mình nên chọn. Và ngày nào cũng thấy bóng các tăng sinh vui vẻ đi học. Anh thấy đó "Vẵng bên tai một tiếng chày kình" là vậy đó. Mẹ tôi cho tôi đi tu một cách dễ dàng làm tôi ngạc nhiên. Bổn sư tôi là thầy trú trì Hải Đức. Các thầy vẫn để tôi tiếp tục đi học. Mẹ mời bà ngoại tôi vào giúp mẹ nuôi cháu. Ngày tôi xuống tóc mẹ đi dự để khuyến khích tôi. Mẹ hy sinh hết cho tôi để tìm lại con người được tự do".
Từ Thức đi tu rồi mẹ vẫn ở dưới chân núi Hải Đức nuôi cháu. Ngày xưa Từ Thức đi học mẹ ở dưới chân núi Ghềnh Ráng "Anh thấy mẹ tôi cứ chọn nhà dưới chân núi".
Truyện Từ Thức cho tôi một niềm vui trong Văn Đàn Phố Núi. Ông chủ quán cà phê mà nhóm văn đàn sinh hoạt muốn đứng ra tổ chức Đêm Dạ Văn và muốn in tập Vòng Sân Cát trong đó gồm những truyện tôi đăng rải rác bấy lâu nay mà truyện chủ đề là Từ Thức.
Từ Thức tiếp nhận bản thảo câu chuyện của chính mình đã nói với tôi "Anh viết đời tôi giống như anh đi trong bụng tôi. Cám ơn anh". Nói xong thầy dắt tôi lên bàn thờ Phật đặt bản thảo Từ Thức dưới toà sen, thắp nhang. Tôi đứng bên cạnh chắp tay cứ nghĩ thầy dâng hương sám hối nỗi lòng mình với chư Phật. Thầy nói với tôi sau khi lạy xong "Tôi muốn dâng lên mẹ tôi để đền ơn". Tôi lặng người thật lâu, đứng bên thầy không biết nói gì. "Mẹ tôi mất sau khi con bé Lượm của tôi lấy chồng".
(Vòng Sân Cát)