Ngày xưa vua Phục Hy thấy chim Phượng đậu xuống cây ngô đồng thì biết đây là cây quý, liền sai lấy gỗ cây làm nhạc khí gọi là Dao cầm. Nhắc chuyện cổ đại hồng hoang vì những con chim huyền sử. Huyền sử dẫn đến huyền thoại để ở đó ly tao dâng lời. Tiếng dao đã ngân, hồn lâng về đâu trong đêm mưa? Thơ ngập lời cổ điển. Cổ điển ở chỗ những lời ấy bây giờ ít ai nói đến vì nó đã thành sáo ngữ. Chỉ có nội công thâm hậu mới vực dậy đem về sức sống mới,
Còn tôi lơ đãng
nhặt
hồn cỏ hoa
Một ngày qua
một người xa
Một ngàn thu khóc
chiều tà rưng rưng...
(Hồn cỏ hoa)
Cỏ hoa đã bay, như bông liễu trong câu thơ Tô Đông Pha,
Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo
(Tô Đông Pha)
Lìa cây bông liễu phiêu bồng
Ven trời vạn nẻo cỏ hồng muôn phương
[Mây ngàn cỏ nội đâu không là nhà ?]
(Vũ Hoàng Thư phỏng dịch)
Chỉ mình nhà thơ đứng đó giữ lại phần hồn, lơ đãng cầm nắm trong tay tinh cốt cỏ hoa. Ôi, phiêu hốt làm sao! Chữ Một lập lại trong hai câu lục bát cuối như muốn nhấn mạnh gợi khêu miên trường trông ngóng, và kết tụ thành lệ rưng rưng. Rưng rưng vì sầu dâng mà phải ngăn, kìm hãm lại. Hay đằng đẳng đợi chờ trong một khúc lục bát ngắt dòng khác,
Gọi người từ phía tà dương
có chờ ta
cuối con đường trắng mây
(Gọi)
Thi sĩ đang tự nhủ lấy mình hay thi sĩ nói giùm nhân gian những điều bất khả, những cơn mộng giữa chừng về đâu đó ở đêm khuya, bởi chưng “cuộc sống đã trót mang hình giọt lệ”. Tài tình ở chỗ gọi điều xa xăm rồi đem về bỏ lửng. Để làm gì? Không cần thiết phải giãi bày, có chăng bật dậy nỗi mong manh của nhân sinh, của lựa chọn khôn hàn tư lự,
Đừng chờ...
đâu chắc ngàn sau...
Hãy chờ...
có lẽ ngàn sau...
sẽ là...
(Mây)
Thiền sư cởi áo che quỳnh
Nghe trong khuya khoắt...
trở mình,
hạt sương...
(Đêm chờ quỳnh hé nụ)
Có lúc nỗi nhớ quê vỡ bùng trong niềm bất lực lưu vong, nâng chén hừng ca nhưng chốn ấy đã xa tít không còn. Thi sĩ hiêu nhiên mang hồn kiếm sĩ, chỉ muốn một vung tay chém rụng chia cách nghìn trùng. Thơ đẹp như một khung gương, rồi vỡ nát thành muôn mảnh như cõi lòng,
Chém xuống dòng sông trăm nhát kiếm
Nước vỡ... như lòng ta trưa nay...
(Bài tặng Doanh Doanh)
Nhà thơ luôn ngậm mối cô đơn một mình bởi vui buồn đó là nỗi riêng, trần gian kia đùa vui trong kệch lạc, gào khóc khi khắc khổ nghịch đường. Cứ mặc kệ họ cất bước đưa chân, thi sĩ đứng lại. Vì sao? Bởi vì... Bởi vì và ba dấu chấm, không nói và bỏ ngưng nhưng có lẽ tự đáy sâu tiền kiếp đã chứng nghiệm cái vô lý của cuộc đời,
Trên con đường mọi người đang đi
Tôi một mình đứng lại...
Bởi vì...
(Chữ)
Rất nhiều câu thơ của Thu Dung chấm dứt bằng ba dấu chấm. Sự bỏ lửng để cho độc giả mường tượng những gì kế đến? Sự mời gọi lên chung chuyến tàu cùng hồn hoang lơ đãng? Hay mọi thứ chỉ là hai mặt sấp ngửa, lựa chọn nào mà không có hư hao?
Những ai mất niềm tin
Hãy tin: mình đã mất
(Tin)
Say từ khi... lạc dạ
Hay... lạc dạ rồi say?
(Thiền sư)
oOo
Tập thơ “Con chim nhặt hạt ngô đồng / Còn tôi lơ đãng nhặt hồn cỏ hoa” với hơn một trăm bài thơ dàn trải qua nhiều chủ đề. Hầu hết là những bài thơ có vần điệu, những bài lục bát đẹp, ở lời cũng như ý, như “Hồn Cỏ Hoa” được trích hai câu từ bài thơ làm nhan đề tập thơ. Tôi lướt nhanh tập thơ trong đêm mưa, mưa bên ngoài cùng những rầm rì tương ứng bên trong. Viết vội đôi lời biểu cảm vì chưa có cơ hội đọc hết nhưng đã cảm nhận được một hồn thơ kín đáo ngậm ngùi, có khi quắt quay cuồng nhiệt, và lắm khi thăm thẳm cõi bờ thơ mồng bằng một phong thái kỳ thú, thi vị. Người thơ Tôn Nữ luôn để lại trong lòng người đọc một khí hậu lãng đãng của luyến nhớ, kỷ niệm và mất mát, không nói ra nhưng đều hướng về một chốn nơi đã không còn, quê hương. Ngay cả khi ấm áp nhất, nàng vẫn quạnh hiu hồn lẻ, mang mang lữ thứ,
Và nắng cũng buồn hơn thuở xưa...
(Đừng)
Cảm tạ nhà thơ Tôn Nữ Thu Dung đã có nhã ý tặng sách, cũng như đem đến nhân gian một trời thơ vô ngần hoa cỏ.
Vũ Hoàng Thư
Tháng 11, 2022