Đọc chưa qua một "Đêm nguyệt bạch" tập truyện ngắn của Lê Trâm, sách đầy đặn hơn 220 trang in, gồm 16 truyện ngắn, do NXB Trẻ cấp phép vừa mới phát hành, ấy vậy mà tác giả của nó lại tiếp tục trình làng tập tản văn "Về yêu xứ rượu hồng đào", sách do NXB Đà Nẵng cấp phép, cũng gần 200 trang in đằm tay không kém. Chỉ mới mươi ngày nửa tháng thôi mà hai đầu sách mới tinh tươm xuất xưởng in. Đấy là chưa nói cách nay mới độ tròn năm, Lê Trâm cũng đã tưng bừng tổ chức giới thiệu tập truyện ngắn "Phía gió biển không còn ai" tại hai nơi Đà Nẵng và Tam Kỳ. Lao động chữ nghĩa vừa miệt mài vừa " tốc hành" kiểu Lê Trâm, quả thật hiếm hoi trong làng văn đất Quảng.
Nếu quan niệm rằng: một truyện ngắn hay, gieo vào lòng bạn đọc được những thiện cảm, là một truyện ngắn phải xây dựng cho được cái cốt truyện độc đáo, chỉ ngần đó tiêu chí thôi thì quả Lê Trâm đã " vắt não" và đã phần nào thu được cái kết quả đó. Ví như, từ " Đêm của bướm" ( Phía gió biển không còn ai) cho đến "Một trang giải phẩu sinh lý người"( Đêm nguyệt bạch). Dường như với Lê Trâm, kinh nghiệm của hơn 40 năm cầm bút đã đặt cái vị thế nhà văn luôn nghiêm cẩn trước trang viết một đòi hỏi vừa khắc nghiệt, nhưng cũng vừa là sự thách thức, rằng nếu không lạ lẫm, không độc đáo thì tốt hơn hết là không viết gì. Niềm ưu tư tôi đọc trong anh, có lẽ cũng là sức sống thẩm mĩ tạo nên sức chuyển động trong truyện ngắn Lê Trâm, cho dù không phải truyện ngắn nào của anh cũng thỏa mãn được khát vọng ấy.
Nhưng sự độc đáo dẫu có lạ hóa đến chừng nào, kiểu như thủ pháp huyền ảo trong "Đêm của bướm", hoăc nhuốm màu truyền kỳ pha chút yếu tố " đường rừng" như trong "Đêm nguyệt bạch" thì linh hồn của mỗi truyện vẫn phải tựa vào điều căn cơ cốt tử, ấy là dự phóng của cái tôi nghệ sĩ. Nói như Rainer Maria Rilke - một thi sĩ lừng danh của văn học Đức: "Một tác phẩm nghệ thuật chỉ tuyệt vời, có hồn phách, là khi nào nó xuất phát từ một sự đòi hỏi nhu cầu nội tại. Chính bản chất nguồn gốc của nó sẽ phán định về nó"( Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi. Bản dịch Hoàng Thu Uyên, An Tiêm xuất bản, tr- 16).
Với Lê Trâm, dường như mấy mươi năm cầm bút cũng là mấy chục năm anh đứng trên bục giảng. Môi trường sư phạm ấy hẳn là thế giới đã mài mòn những con đường nhà văn đi qua. Thế nên chắc chắn một điều, thế giới đó không còn là ngoại giới (exterieur) - một đối tượng để mô tả,mà là thế giới tự nội (immanence), từ đấy những nhân vật của nhà văn bước ra, là Đàm Hưng, là tôi trong một "Chúc ban mai tốt lành", là ông Dưỡng trong " Một trang giải phẩu sinh lý người", hoặc là cô giáo Hạnh trong "Đêm nguyệt bạch". Nếu hiểu bút pháp như là thứ của riêng của mỗi nhà văn thì cái cách hành văn nhẹ nhàng mà đằm sâu, giản dị mà sáng sủa, tất cả đã tạo nên một phong cách Lê Trâm đĩnh đạc, điềm tĩnh, chừng như anh xa lạ với mọi kiểu sức phóng túng, cầu kỳ. Thử trích một đoạn văn Lê Trâm để minh họa cho nhận định này: "...Tôi hiểu vì sao nhiều đứa lại chọn nghề dạy học. Một cách lựa chọn nhanh nhất, yên ổn nhất.. Để rồi không bao giờ sửa được. Quậy phá và ngổ ngáo như Đàm Hưng vẫn chọn nghề dạy học được huống hồ chi tôi! Tôi mười tám nào đã hiểu biết gì ngoài những bài học, những rung động từ mối tình một phía mong manh như sương khói và nồng nàn màu phượng đang từng phút từng giây cháy lên trong tim" (Chúc ban mai tốt lành).
Nhưng nếu hiểu bút pháp của nhà văn còn là một thứ bẩm sinh bí mật, nó chính là cái tạng cái giọng văn, là hơi thở tiếng nói bước đi dáng đứng tự bao giờ sơ khai đã hình thành, khu biệt là vậy song thời gian, sự tác động của ngoại giới, thời đại chẳng hạn, chắc chắn sẽ ít nhiều có làm ảnh hưởng đến kỹ thuật viết. Thậm chí đến cả tư tưởng cũng dịch chuyển, càng trưởng thành càng dạn dày kinh nghiệm. Tuy vậy, cái tạng văn, cái giọng văn thì khó làm thay đổi hết. Đến nỗi người ta có thể nghe văn, đọc và thẩm văn là có thể nhận ra người viết. Thể hiện rõ nhất là khi đọc tập ký và tản văn " Về yêu xứ rượu hồng đào" của Lê Trâm.
Tuy rằng tác giả đã bố cục sách ra làm hai phần với hai chủ đề, một là "Dấu xưa", và tiếp phần hai - cũng là tên chung của sách "Về yêu xứ rượu hồng đào". Dường như để tương ứng với bố cục, nhà văn cũng xếp thể loại của sách là: ký và tản văn. Nhưng thú thật, có khi đấy là chuyện hình thức, bởi tôi đọc đến khi gấp sách lại vẫn cứ miên man theo xứ rượu hồng đào, thế nên nếu gọi đây là một tập tản văn thì cũng chả sai tí nào. Trong văn học phương Tây, thì đây là văn loại chỉ độc nhất một tên gọi là "Essai", tức là tùy bút, tiểu luận hay tản văn gì cũng chỉ mỗi "essai" mà gọi.
Đọc tản văn Lê Trâm mới thấy hết cái tâm hồn khoáng đạt của anh cũng lãng mạn như rượu hồng đào chưa nhấm mà say. Mộc mạc, dung dị mà lại mênh mang thăm thẳm tình yêu theo từng lối xưa quê nhà. Ở mỗi nơi như đèo Le, dấu xưa An Hòa hay chỉ là một chiếc nón lá..., anh như người say cổ tích có dịp phơi bày cái kho trí nhớ lâu ngày không khéo rêu lại lên xanh!
Gấp tập tản văn của Lê Trâm lại rồi mà niềm cảm hứng từ nhà văn tuồng như lan tỏa vào tôi. Chừng như trong khoảnh khắc mơ hồ cho vô thức lên tiếng, tôi thấy "Về yêu xứ rượu hồng đào" hay là "Sơ khai du mục tầm phương thảo" của Bùi thi sĩ cũng chỉ thế thôi! Bởi lẽ hương hoa cỏ ngày xưa bây giờ là những lối vô tận đâu để mà du mục đi tìm cho thỏa.
Gác khói bay, Thu 2018
N N T
(*) Nhân đọc tập truyện ngắn "Đêm nguyệt bạch" NXB Trẻ và tập tản văn " ê yêu xứ rượu hồng đào" NXB Đà Nẵng của nhà văn Lê Trâm vừa mới phát hành 6/2018.