Sau nhiều chục năm giữ riêng cho mình hãnh diện, đồng thời thảm kịch, Nguyễn Thị Nga My, người con gái thứ ba trong một gia đình có tới 4 chị em (*) mà, dung nhan của họ, như bốn huyền thoại nhan sắc một thời vàng-mười, giữa rêu phong, cổ tích Huế - Đã ngậm ngùi, nhìn lại đời mình, trong hồi ký “Đời Hoa Thầm Kín” (ĐHTK).
ĐHTK dầy gần 200 trang khổ lớn, nhiều ảnh màu, gồm ba tuyển tập. Tuy nhiên, người đọc cũng có thể hiểu là 3 đoạn đời của một trong 4 người con gái họ Nguyễn, nức tiếng nhan sắc một thời của đất Thần Kinh.
Tuy không phải là một nhà văn chuyên nghiệp, nhưng ngay tự những dòng chữ đầu tiên của hồi ký, tuyển tập thứ nhất, tựa đề “Những cô gái Huế đất Thần Kinh xưa,” Nguyễn Thị Nga My đã cho thấy khả năng mô tả một cách linh động những nét đẹp, không chỉ của các cô gái Huế cách đây trên dưới nửa thế kỷ mà, tác giả còn đi sâu vào những góc khuất kín của truyền thống con gái Huế nề nếp, trước mọi biến động của thời thế, xã hội - Dù cho họ là những người con gái mà, chỉ cần nghe tới tên của họ, giới thanh niên, trí thức đã nôn nao thổn thức trông, đợi...
Tôi không biết giai đoạn này có phải là giai đoạn giàu có hạnh phúc và, hãnh diện nhất, một đời thiếu nữ của tác giả? Nhưng, hiển nhiên đó là những năm tháng mà, mỗi bước đường của cô là một lẵng hoa chào đón, reo vui cùng tiếng chim, tiếng khánh thánh thót hân hoan, dẫn đường.
Đó là những năm tháng mà sự thành đạt trên lộ trình học vấn, tỷ lệ thuận với nhan sắc của người con gái, như một biểu tượng dung nhan trời đất dành riêng cho cố đô khói-sương-lãng-mạn-nghiêm-cẩn.
Đó cũng là thời gian, Nguyễn Thị Nga My, như bất cứ người nữ nào, dù ở hoàn cảnh hay điều kiện nào, cũng đều được quyền vẽ riêng cho mình một “vương quốc tương lai.” Nơi người nữ sẽ lên ngồi nữ hoàng hạnh phúc... Cô gìn giữ phẩm hạnh đời mình, cho một tương lai mà (cũng như mọi người) cô tin, vốn trong tầm với...
Nhưng, giữa khi Nguyễn Thị Nga My thấu hiểu những gì Thượng Đế đã ưu ái, hào phóng dành riêng cho cô, từ một nhan sắc (đáng mơ ước của nhiều người) và, một sở học căn bản, một vốn ngoại ngữ đủ sức tung cánh không chỉ trời Đông mà, cả trời Tây nữa thì, những dự báo bất thường về những cơn lốc xoáy hủy diệt tàn khốc, có thể ví với những trận sóng thần, đã manh nha ở cuối đường. Đó là một kỷ niệm đẹp như một tiếng thở dài của quá khứ in sâu, khi cô từ chối lời “xin một đứa con” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, khi họ tình cờ gặp nhau ở Đà Lạt, 1969.
Ký ức liên quan tới gặp gỡ vừa kể, đến nay vẫn còn như một câu hỏi, chỉ định mệnh hàm hỗn mới có thể trả lời cho Nga My, được cô viết lại nơi Tuyển Tập Hai, tựa đề “Một kỷ niệm về Trịnh Công Sơn.”
Ở tâm bão của kỷ niệm đẹp nhưng không đủ sức bay lên tầng trời cao rộng, Nga My viết:
“Một tuần tại Đà Lạt qua rất nhanh, đáng lẽ ngày nghỉ phép của tôi đã qua hết, nhưng S. năn nỉ tôi ở lại thêm. Vậy cho nên, thay vì về lại Nha Trang để lấy máy bay về lại Saigon theo kỳ hạn (tôi đã mua vé máy bay khứ hồi), tôi phải đánh điện về SCAG (một chi nhánh của tòa Đại Sứ Mỹ) xin nghỉ thêm một tuần lễ nữa, lấy lý do là bị bệnh. S. đề nghị tôi sẽ theo xe hơi của Khiêm (chồng Phùng Thăng) về lại Saigon sau này. Vì ở Đà Lạt lâu thêm, tôi có cơ hội gặp một người anh bà con xa bên ngoại. Anh đã lớn tuổi, về hưu, một mình, cô đơn trong một ngôi nhà nhỏ,
có một khu vườn khá rộng, không được chăm sóc kỹ, nhưng nên thơ với cái
cổng bằng tre đơn sơ. Trong vườn, tôi thấy mấy giàn su le và vài giàn đậu ngự, có mấy chú gà và một, hai cô gà mái đẻ trứng nữa. Tánh anh rất nghệ sĩ, thường thích làm thơ và ngâm thơ. Nhưng anh ngâm thơ quá dở cộng thêm điệu bộ, lối ngâm ngớ ngẩn làm ai cũng bật cười. Anh và S. rất
hợp nhau, anh Thuần của tôi cũng bị lôi cuốn ngay khi gặp S. lần đầu và
hai người không biết nói chuyện gì mà trông hợp lắm. Tôi thì bận rộn nấu cái món mà tôi gọi là Soupe Bouillabaisse nhưng thật ra chỉ có ít rau cải, su le, cà rốt, khoai tây và vài con cá nhỏ. Tôi nấu thêm một món chè đậu ngự. Anh Th. đãi S. món dưa chua làm bằng cọng của bông cải trắng (chou-fleur) và món cá kho đặc biệt của anh. Tôi thấy S. ăn cá kho
ngon miệng lắm, còn món chè đậu ngự của tôi thì S. chỉ ăn một, hai muỗng cà phê mặc dù tôi nài ép. Đàn ông uống rượu thường không thích ăn ngọt, S. không gầy sao được vì dù soupe có bổ khỏe cũng không ăn bao nhiêu. Buổi tối hôm đó, trời lạnh và khuya quá, nên S., Thao và tôi phải
ngủ lại nhà anh Thuần. Trên lầu, trong một phòng dư, chỉ có một cái giường. S. nằm giữa, Thao một bên và tôi một bên. Tôi có một cái chăn riêng. Tuổi trẻ rất dễ thích nghi, nên dù không có quần áo ngủ để thay và phải mặc quần ban ngay, tôi vẫn ngủ ngon giấc. Nửa đêm tôi chợt tỉnh giấc và có lẽ S. cũng không ngủ được, tôi nghe S. hỏi: 'My có thể thể cho S. một đứa con không?' Tôi sợ quá, sợ chú Thao nghe thì kỳ quá, nên tôi vội trả lời vắn tắt: 'My còn trinh trắng, tại sao lại cho S.?!’ Sau đó tôi nhớ hai đứa không nói thêm nữa và tôi ngủ thiếp đi khi nào không biết. Tôi nghĩ lời cầu xin của S. chân thành, chứ không phải là một câu nói ham muốn tầm thường...” (ĐHTK, tr. 80, 81, 82).
(Còn tiếp một kỳ)
(*) Ba người kia là Trà My, Kiều My vai chị và, Diệm My, em gái của Nga My.