Cách đây chưa lâu,
một người bạn không thuộc giới làm thơ hay viết văn,
nhưng là người nặng lòng với văn chương Việt, ông hỏi
tôi, đại ý: Theo tôi thì trong hàng ngũ những người nữ,
viết văn, làm thơ sau biến cố tháng 4-1975, ai là người
có được cho mình, sự thành tựu ở cả hai phương diện
thi ca và văn xuôi? Chừng sợ tôi không nắm được câu
hỏi, ông mượn một hình ảnh rất “ấn tượng” trong
kho chuyện chưởng của Kim Dung: Hình ảnh “song kiếm hợp
bích”.
Tôi hỏi lại trí nhớ mình. Trí nhớ tôi, sau đấy, đã cho người hỏi câu trả lời, đại ý:
“Theo cảm nhận riêng của tôi thì một trong những nữ đạt tới mức độ “song kiếm hợp bích” đó là Nguyễn Thị Khánh Minh”.
Người bạn tôi lại hỏi:
“Vậy tôi có bao giờ viết về người nữ trẻ có được hai đường kiếm “hợp bích đó?”
Tôi đáp có và, hứa với ông, sẽ lục tìm; gửi lại ông, đôi bài viết về Nguyễn Thị Khánh Minh, ngay khi tìm được.
.
Dưới đây là một bài viết, đúng hơn một đoản văn, tôi viết từ tháng 4 năm 2010, sau khi đọc mấy bài thơ mới của Khánh Minh (thời điểm đó):
“Tôi không biết Nguyễn Thị Khánh Minh đã chọn thi ca như con chim cô quạnh, chọn rừng sâu để phủ dụ những vết thương thời thế ngược ngạo sớm tìm đến cô? Hay, thi ca đã tìm đến cô, như tìm đến một người tình? (Một người tình có đủ những yếu tính mà nó hằng mòn mỏi?)
Tôi không biết.
Có thể chính Nguyễn thị Khánh Minh cũng không biết.
“Nhưng điều tôi biết được, cho đến ngày hôm nay thì, Thi Ca và Nguyễn Thị Khánh Minh chính là một hôn phối lý tưởng. Mỗi phía đã tìm được nửa phần trái tim thất lạc của mình.
Tôi gọi đó là một hôn phối lý tưởng vì, khởi tự cuộc phối ngẫu này, những con chữ đằm đằm chân, thiết ra đời.
Những con chữ được sinh thành từ tình yêu Thi Ca / Nguyễn thị Khánh Minh, khoác nơi tay nó những hình tượng mới mẻ, hắt bóng trên dặm trường nhân thế, những chiếc bóng lấp lánh thương yêu và, những nhịp chuyển, dịch mới, tách, thoát hôm qua.
Dù cho đôi lúc, nghỉ chân nơi dọc đường gập ghềnh trí tuệ cam go, Nguyễn Thị Khánh Minh chợt thấy: “Thương niềm đau từng mặt chữ long lanh…”
Tôi cũng gửi người bạn nặng lòng với văn chương 2 bài thơ, của tài hoa thi ca Nguyễn Thị Khánh Minh:
Chân kiến
Nỗi đường trường
ứa lệ
Bước chân tôi, con
kiến bé u buồn
Đêm vực sâu, ngày
dồn sóng bể
Bước chân mù, con
kiến bé, tăm phương…
Tìm
Thắp bao nhiêu lần
ngọn lửaĐốt bao nhiêu lời
Vẫn không tận mặt
được Thơ
Dễ biết mấy để
nói dối
Con đường lời
quanh co
Thương trái tim trần
thân bão tố
Mỗi khoảnh khắc
là mỗi quay lưng
Thói quen của đi
tới là quên
Thương nỗi nhớ
còn ràng chân quá khứ
Mỗi nụ cười là
mỗi xóa
Hạt lệ cũ
Thương niềm đau
từng mặt chữ long lanh…
.
Dõi theo bước chân thi ca của Nguyễn Thị Khánh Minh, trên đăm trường chữ, nghĩa, ba năm sau, tôi viết:
“Những ngày gần đây, với tôi, Nguyễn thị Khánh Minh là nhà thơ nữ có được cho mình một mùa thơ bội thu. Chẳng những họ Nguyễn không trở lại con đường mình đã đi - - Gặt, mót những vụ mùa đã cũ - - Hoặc lai-tạo hoa, trái từ những đời cây đã được chỉ danh… Mà, Nguyễn Thị Khánh Minh còn đẩy thơ mình, tới những tìm kiếm lao lung. Để sau đấy, cô có thể “Thản nhiên bóc ra từ tôi những giọt lệ” Vì nơi đó, “Là tấm gương soi cảm xúc tôi từng lúc” - - Nhưng “Chẳng phải bằng con ruồi giả - như người ta câu cá.”
(Những cụm từ trong ngoặc kép, là những câu thơ tôi trích từ bài “Thơ ơi” của Nguyễn Thị Khánh Minh.)
“Cũng thế, “Phút mong manh của những từ” của Nguyễn Thị Khánh Minh, bài thứ hai, trong giới thiệu lần này, với bạn đọc, thân hữu, tôi nghĩ chúng sẽ “…mãi còn dư âm cái trườn mình của dòng chảy”…
Một dòng chảy thơm ngát tài năng và trí tuệ. Một dòng chảy mênh mang trên mọi bế tắc, loay hoay phổ cập những giả hình, tôi nghĩ”.
.
Sau đấy, tôi cũng mời người bạn của tôi, đọc thêm 2 bài thơ khác của Nguyễn Thị Khánh Minh. Bài “Thơ ơi” và “Phút mong manh giữa những từ”.
1.
“Thơ,
Có khi Nó cõng tôi
qua một cơn phiền muộn
Có khi Nó cho tôi
một giấc mơ bình yên
Với những lãng
quên cần thiết
Đôi khi Nó khiến
tôi thành con bé
Nhìn mọi điều với
con mắt mơ mộng cả tin
Có khi lại bằng
góc độ già nua khắc nghiệt với những điều làm tổn
thương lòng tin cậy
Nó trao tôi trong nỗi
buồn chứa chan lời hy vọngNó sẻ chia niềm cô
độc trên mỗi bước tôi đi
Tình cờ thôi, trong
một chớp giao cảm đặt vào lời tôi ánh sáng một đôi
cánh
Nghĩa là Nó làm tất
cả để cho tôi sống
Cho tôi bay cao
Chỉ riêng nỗi đau
từ chính Nó gây ra
Nó lại không làm
gì cả
Chỉ thản nhiên bóc
ra từ tôi những hạt lệ...
Cứ tưởng viết
xong một bài thơ là đã vơi được nước mắt
Nhưng chấm hết
Vẫn thấy còn khắc
khoải
Cứ thế, trang giấy
mở mãi theo những giòng lệ …
Lời tôi viết
Là tấm gương soi
cảm xúc tôi từng lúc,
Tôi viết nên bài
thơ
Chẳng phải bằng
con ruồi giả - như người ta câu cá-
2.
Khó mà thoát khỏi
sự cám dỗ
Tôi mải miết
Điều gì được
khi tôi đặt dấu chấm hết một bài thơ?
Sau một vụ mùa
Tôi chỉ đem về
nhà được đôi ba hạt lúa chín
Chút màu vàng của
nó lấp lánh trên tay
Làm tôi đã vô cùng
sung sướng
Giống như tôi đã
tắm, đã hưởng
Tất cả những ngọt
ngào mát mẻ của con sông
Và dẫu tôi không
mang về một hạt nước nào của nó
Nhưng làn da tôi thì
mãi còn dư âm cái trườn mình của dòng chảy
Bài thơ hoàn tất,
dù là một điểm hẹn quyến rũ,
Nhưng phút mong manh
giữa những từ
Lại là lúc những
đoá hoa đang nở. Đang tỏa hương.
Tôi có gì đâu phải
vội”.
.
Gần hơn nữa, phải nói là mới đây thôi, sau khi đọc bản thảo tản văn “Bóng bay gió ơi”, tôi đã viết xuống vài cảm nghĩ của mình. Lần này, có phần dài hơn, vì những trang văn-xuôi-như-thơ của cô:
“Không nhớ bao lâu, tôi chưa có dịp gặp lại Nguyễn Thị Khánh Minh - - Sau khi người thơ nữ từng có được cho mình những “mùa thơ bội thu”, phải nhập viện, giải phẫu cột sống!
Tôi cũng không biết, những chùm hoa “tử uyên ương” trong thơ của Nguyễn còn đỏ tươm một góc vườn? Hay đã thẫm. Chiều. Những tách trà son, nhạt. Bơ vơ hành lang yên, ắng. Đìu hiu?
Tôi cũng không biết, Nguyễn còn di chuyển bằng chiếc walker mà, từ những bước chân gập ghềnh kia, từ ghế ngồi nọ, thơ có được cho nó, những hôn phối mới? Những hôn phối giữa chữ, nghĩa đằm thắm, tỏ tình kín đáo cùng tâm thức, nhậy cảm.
Nhưng tôi biết, gần đây, Nguyễn đã có được cho mình, một cõi-giới văn xuôi - - Không chỉ là những chấm-phá-thi-ca. Với tôi, cõi giới ấy còn như những luống-hoa-thi-ca, thấy được, rực rỡ từ cánh rừng tâm hồn Nguyễn - - Nắng, gió mưng, mưng.
Tôi không rõ Nguyễn gọi những trang văn xuôi vun đầy những luống-hoa-thi- ca của mình kia, là “tùy bút” hay, nhiều phần là “tản văn” (theo cách gọi hôm nay ở VN)?
Tuy nhiên, dù với chỉ danh nào thì, tôi vẫn muốn nói, tôi thích lắm, những trang thơ-văn-xuôi ấy.
Nơi bất cứ một trang văn xuôi nào của Nguyễn, tôi cũng được thở ngạt ngào hương thơm của những động tự hay, tĩnh tự bay lên từ hồi ức Nha Trang, những ngày mới lớn. Saigòn, những ngày Duy Tân. Quê người, những ngày đi tìm cái tôi, thất thổ, lênh đênh: Những Nguyễn!”
Du Tử Lê
(còn tiếp một kỳ)