Mắt Thù (Tác Phẩm 07)

22 Tháng Sáu 20214:21 CH(Xem: 4125)
Mắt Thù (Tác Phẩm 07)


MatThu_W

Mắt Thù


Truyện dài. Tác phẩm thứ sáu của Du Tử Lê, tranh bìa của NGỌC-DŨNG, Nguyệt-san VĂN-UYỂN ấn-hành lần thứ nhất, số 18 Tháng Mười, 1969.
In tại nhà in riêng của Cơ-sở VĂN, xong ngày 22 tháng 10 năm 1969. Ngoài ấn bản thường, có in riêng... (Mất mấy chữ)

______


Trên bao lơn nhìn xuống, vườn hoa hình chữ nhựt. Những khóm dừa dại, những cụm trắc bách diệp mới trồng, lá có khía lăn tăn. Hai luống hoa tím, tên gì, tôi không biết, chia khu vườn thành hai phần đều nhau. 

    Từ đầu hôm, không biết đây là lần thứ mấy, tôi đứng nhìn xuống, vẩn vơ như thế này. Đêm từng vũng trên những bụng lá ngửa đầy sương. Tòa nhà trước mặt chắn  ngang tầm mắt, làm tôi không nhìn thấy biển. Nhưng sóng vỗ thì nghe rõ lắm, nhất là về khuya. Càng khuya, sóng vỗ càng mạnh. Từng đợt, từng đợt, tấp vào bờ, ì ào, lúc xa, lúc gần, như tiếng gọi kêu không nguôi về một cảnh đời đã mất. 

    Những cơn gió, như cũng thấm cảm nỗi đơn lẻ, âm thầm của một kiếp rền rĩ, gửi âm thanh vào đất liền, hoài hoài, để rồi không nhận được một dội vang nào tạt lại. 

    Tôi thấy tâm hồn tôi mở lớn, mở lớn mãi theo cùng cảnh vật. Tôi nghĩ tới những con dã tràng, nhỏ xíu, trong khuya này, không biết chúng có ngủ yên? Hay những thì thào của gió, những vật vã của biển, đã rủ rê chúng dời khỏi lòng cát ẩm… 

Những viên cát của những con dã tràng ấy, chính là những cọng rơm hạnh phúc, tôi đã ngậm, đã tha về cho cuộc đời riêng, từ ngày bước chân vào đấu trường đời sống. Không, đúng hơn là từ ngày tôi biết yêu, và yêu lần đầu tiên vào năm tôi mười lăm tuổi. Những con dã tràng hoài công kia chính là những năm tháng đã chồng chất lên hai mí mắt tôi, và những con sóng xô dồn, đuổi lấn ấy, chính là dư âm của những cuộc tình đã sớm lụn.

Kể ra thì tôi thuộc loại phụ nữ lãng mạn, yêu đương quá sớm. Bây giờ, tôi không còn muốn suy nghĩ gì về con người tôi hay tìm hiểu xem mình đang khát khao những gì? Cũng có  thể tại tôi đã nghĩ quá nhiều lắm, nhưng kết quả cuối cùng, cũng chẳng đi đến đâu. Thỉnh thoảng, tôi vẫn tự hỏi tôi: Muốn gì? Mày có muốn gì không hở Nữ. Hở Nữ, đứa con gái vừa qua tuổi vị thành niên?

Nhưng tất cả, cũng như những đốm đèn vàng dăng ngang thân dãy núi Bà Hỏa, phía tay phải tôi, yếu đi rồi mờ dần. Nhiều lúc bị khao khát ham muốn, nóng dậy, cháy bừng, hực lửa điên cuồng, tôi tưởng có thể chạy phăng phăng, thoát khỏi khu nội trú tù hãm này, vào thành phố, kiếm tìm một người yêu, nhặt gom hạnh phúc cũ.


Nếu có mười lần như vậy, thì cả mười lần tôi sôi sục đều tan đi rất nhanh. Chỉ một thoáng thôi, trí óc tôi chảy nhiễu, lợn cợn những vẫn đục không tên…

- Vào ngủ đi chứ Nữ. Khuya rồi. Tôi giật mình, không quay lại. Đây là lần thứ tư, tôi được nghe giọng điệu đó, hoặc khó chịu, hoặc thương xót, của những con bạn học. Như con Thủy ở phòng năm, nó thường rêu rao với mọi người rằng tôi khùng, tôi có máu “tốc”. Tôi nhớ, một đêm, tôi cũng đứng thế này, ngay trước cửa phòng nó. Nó chạy ra, bảo: Chị về cửa phòng chị mà đứng, chỗ chúng tôi ngủ. Tôi biết, nó cũng như con Tuyết, con Nhung, con Lợi, không ưa gì tôi. Tôi quay lại nhìn nó định làm mặt khinh bỉ, nhưng nghĩ thế nào, tôi lại cười nhạt, bước xích sang cửa phòng bên cạnh. 


Có tới hơn tháng này, tôi bị bệnh mất ngủ và thường hay hoảng hốt. Thỉnh thoảng tôi máy mắt bên trái, con Uý ngủ chung phòng tôi bảo máy mắt ăn xôi, máy môi ăn thịt. Tôi nghĩ mà cười hoài. Thật khôi hài. Thời buổi này, còn gì mà ăn nữa. Dù nghĩa đen hay bóng thì cũng không còn gì hết. Chúng ta chỉ còn máu và nước mắt. Không lẽ uống máu thân nhân và nuốt nước mắt bằng hữu! 

Những bồn chồn hoảng hốt của tôi, quả không thể giải thích được. Từ ngày dời Đà Lạt về đây học, tôi vẫn nhận được thư gia đình đều đặn, tháng hai cái. Mẹ tôi vẫn trợ cấp cho tôi hai ngàn rưởi, bù thêm tiền học bổng quá ít oi, hai trăm một tháng. Ở một xã hội loạn lạc liên miên thì còn cái gì được coi trọng nữa. Kể cả nhân phẩm danh dự, tổ quốc quê hương… 


Huống hồ chi đối với chúng tôi, những đứa chỉ có mảnh bằng tú tài nhất, thất nghiệp, thì đi làm cái nghề gõ đầu trẻ, gọi là kiếm thêm chút cơm, chút cháo, đỡ cho chồng con sau này. 

 

Đúng ra thì không hẳn thế. Quả thực nhiều lần tôi đã nghĩ tới chuyện chồng con. Người phụ nữ nào khi yêu, chẳng mơ tưởng tới lúc được lấy người yêu. Nhưng tuyệt nhiên, tôi không hề nghĩ tới chuyện phải có nghề gì chắc chắn, để dễ bề kiếm chồng. 


Tôi biết tôi đẹp, tuy không đẹp lắm. Với nhan sắc trung bình và những nét dịu dàng, có vẽ kín đáo, cộng chung cùng đôi mắt lúc nào cũng buồn (theo nhận xét của thiên hạ), tôi tin đủ để có thể lấy chồng và hy vọng có chồng khá. 


Một lần, Tấn, người tình thứ hai của tôi nói: Làm con gái như Nữ, đã là một đóng góp quý hóa cho cuộc đời rồi, anh nghĩ, Nữ chẳng cần phải làm gì khác hơn ngoài những nhiệm vụ làm con gái rồi làm đàn bà. Không phải tôi không biết đó là trong những cách nịnh của bọn đàn ông con trai, nhưng Tấn nói cũng có phần hữu lý. Tôi cho là thế. 


Rồi tình tôi với Tấn tan, khi Tấn gặp một người đàn bà đáng tuổi chị cả của Tấn. Một góa phụ. Bà ta có ba con khá lớn. Nhưng đáng nói nhất là bà ta có một gia tài đồ sộ do chồng để lại. Khi biết được sự thực chua chát, tôi không oán hận gì Tấn cả. 

Trái lại, tôi còn lấy làm may vì suýt nữa, tôi có một người chồng coi đồng tiền to như cái bánh xe. Trong khi gia đình tôi, cố gắng lắm mới đủ ăn, lấy đâu ra của chìm của nổi, chia cho Tấn! 


Ba tôi thường bảo: Con trai ngày nay, nó không trọng nghĩa khinh tài như trước đâu. Con phải nhớ kỹ thế. Có thể có nhiều đứa nó yêu con, nhưng nó yêu để lợi dụng con hoặc để… yêu khơi khơi vậy thôi. Chớ lúc lấy vợ, bao giờ chúng cũng chọn vợ giàu, hoặc ít ra cũng phải có một nghề ngỗng gì, tương đối bảo đảm được đời sống gia đình. Nhà mình thì nghèo, con đã biết. Sắc đẹp khuynh nước khuynh thành con không có. Một trong hai nghề chính của con gái thời này là bán Bar và đi làm cho Mỹ con cũng không chịu. Thử hỏi làm sao con có thể dễ dàng về đường chồng con cho được. Vậy con nên có một nghề nuôi thân… 

Mặc dù tôi được nghe rất nhiều bài thuyết trình của bố mẹ tôi về cách sống trong thời buổi gạo châu củi quế thế này, óc tôi vẫn không hề bật lên một chương trình kiến thiết tương lai nào đến. Lý do tôi xin thi vào sư phạm để rồi đây mình dời nơi khốn khổ khốn nạn này, không phải vì tôi thấm lời khuyên nhủ của bố, mẹ tôi. 

Tại tôi buồn, buồn đến muốn tự tử không thiết sống nữa. Chắc các bạn đã đoán được bệnh trạng của tôi. Thất tình ? Vâng, tại tôi thất tình. Chẳng là năm ngoái, tôi gặp Đạt là sinh viên Võ Bị Quốc Gia đang học năm chót. Không biết tôi có bị bùa mê bả ngự gì không mà vừa gặp Đạt, tôi đã yêu chàng ngay. 

Tôi yêu Đạt chẳng phải vì Đạt to lớn, hay ở Đạt luôn tỏa thoát một sức sống mãnh liệt, tưng bừng một cái vẻ đàn ông. Tôi yêu và mê Đạt chính ở lối nói chuyện dí dỏm và nhất là chiếc miệng đặc biệt quyến rũ. Hồi ấy tôi đã nghĩ rằng, bất cứ lúc nào, chiếc miệng ấy ghé gần môi tôi xin hôn, chắc tôi sẽ không đủ can đảm để từ chối. 

A, tôi phải nói cho đầu có đuôi chứ. Phải rồi, Đạt là bạn thân của Quang. Quang quen biết với tôi từ trước. Quang yêu tôi điên dại và đã ngỏ ý với gia đình tôi, khi ra trường sẽ xin cưới tôi. Quang hiền lành, hơi khờ khạo. Mẹ tôi chú ý lắm. Bà cụ bắt mỗi tuần đi phép, Quang phải về nhà tôi ăn cơm. Tôi thì chỉ có cảm tình với Quang thôi. Yêu thì không bao giờ. 

Tôi không hề nào chịu nổi người chồng thuộc loại gọi dạ bảo vâng như một cái máy. Xã hội này đã bị máy móc hóa nhiều rồi, lại còn đeo thêm bên đời sống riêng của mình một cái máy khác nữa quả là số của một kẻ bất hạnh. Thấy Quang chưa một lần ngỏ lời thẳng với tôi, thây kệ, mặc cho anh chàng tơ tưởng. Tôi không tỏ dấu lạnh nhạt, cũng chẳng có thái độ vồn vã. Tôi coi Quang hệt như một người bạn, không thân, sơ. 

Một buổi sáng Chủ Nhật, Quang dẫn Đạt về nhà tôi. Ý chừng Quang muốn khoe với bạn rằng có người yêu là tôi đó. Nhưng chẳng may cho Quang, như trên tôi đã nói, tôi yêu Đạt ngay buổi gặp đầu này. Dĩ nhiên chúng tôi yêu nhau lén lút để khỏi bị gia đình ngăn cản cũng như tránh cho Quang cái mặc cảm tủi nhục, hèn yếu. 

Xui cho chúng tôi là những ngày Đạt được đi phép thì Quang cũng được đi, vì hai người ở chung một toán. Chúng tôi chỉ có thể đi chơi riêng với nhau vào những ngày thường, những chiều hay đêm Đạt chui rào, trốn khỏi trại. Tôi và Đạt hợp nhau ở nhiều điểm lắm. Càng ngày, Đạt càng cho tôi ý nghĩ Đạt là người tình lý tưởng của tôi. Chẳng hạn Đạt nói Đạt chỉ thích có được một căn nhà nhỏ, nhỏ thôi, với một người vợ hiền, thật hiền, chỉ biết lo bếp núc và săn sóc chồng con. Đạt cũng cố ý cho tôi hiểu rằng người vợ hiền ấy phải là tôi, với một bầy con xinh ngoan. Bầy con ấy, chúng sẽ có nước da mát mịn của mẹ, chiếc miệng của bố, chiếc mũi của mẹ, đôi mắt của bố… Nghĩa là chúng tôi chia nhau đều… thật đều. 

Đạt đã cho tôi những giây phút thần tiên như thế. Những giây phút mà tôi tưởng chừng như mình bay bổng trong một không gian ngọt ngát hương hoa, hay đang được ngụp lặn giữa đại dương chan chứa yêu thương, ứ tràn hy vọng. Dĩ nhiên, khoảng không gian hay đại dương xanh ngát ấy, mang tên Đạt. 

Mỗi ngày trí tưởng của tôi một nở lớn, tâm hồn tôi một no căng, ắp đầy cảnh tượng tương lai hạnh phúc. Theo từng lời phủ dụ, từng ánh mắt mơn trớn, từng nụ cười đắm đuối, từng cử chỉ vuốt ve, săn đón tế nhị của Đạt, nổi trôi, tôi bềnh bồng, lâng lâng, như một dải lụa mây, một cánh chim vỗ về phía mặt trời nắng ấm… 

Lần đầu tiên, Đạt chạm tay vào da thịt tôi là lần Đạt đưa tôi ra ngồi ngoài hồ. Một buổi tối, gần mùa hè, hình như Tháng Ba. Lúc Đạt đặt tay lên lưng tôi, tôi không ngờ bàn tay đó tỏa ra một sức mạnh kỳ diệu, khiến tôi phải rùng mình, nổi gai ốc. Thật không thể ngờ được. Cái bàn tay mà thầm nguyện không bao giờ cầm nắm đã làm tôi chếnh choáng, ngây ngất. Tôi không muốn cầm nắm những ngón tay dài, sần sùi, như củi khô ấy, bởi khi người ta nghĩ tới cầm giữ, là lúc ít nhiều bị ám ảnh vuột mất. Trong khi tôi là đứa con gái rất nhiều tự tin. 

Tự tin nơi mình cũng như tin nơi tình yêu bốc lửa của Đạt. Hơn nữa, đôi khi tôi có cảm tưởng lẩn thẩn rằng, nếu, một phút tình cờ nào đó, tôi nắm lấy nó, có thể, nó sẽ dòn tan, vụn vỡ.

Dưới mắt tôi nó không còn là một vòng tay bình thường, nó chính là một nhành củi khô, mục nơi những chạc cây ấy, tôi đã treo, đã mang tâm hồn mình, như những giọt sương dính trên cuống lá.

Nhiều lần Đạt thì thầm bên tay tôi: Nữ biết không, trời sinh hoa nên phải sinh bướm, cũng như trời đã sinh Nữ nên phải có thêm anh. Nếu không có Nữ, đời anh sẽ chả còn nghĩa gì và ngược lại, nếu không có anh, ai hiểu được tình Nữ! Ai đón nhận được hết những gì Nữ không nói, qua đôi mắt buồn, buồn như hai giọt mưa lớn.

Những lần nghe Đạt nói, tôi đã cảm động ứa nước mắt.

Phải, nếu không có Nữ đời anh sẽ còn gì? Sẽ còn gì? Thời gian đã phũ phàng đem đến cho tôi lời giải đáp.

Ngày mãn khóa, Đạt không gửi giấy mời tôi, chỉ có Quang. Tôi không quan tâm điều ấy lắm, nghĩ rằng chắc Đạt bận nhiều chuyện, nên vô tình quên mất.

Tôi mua sẵn cho Đạt một cặp lon và một chiếc phù hiệu của trường Võ Bị Đà Lạt, định bụng sẽ trao cho Đạt, ngay sau khi nghỉ lễ mãn khóa chấm dứt. Tôi tưởng tượng vẻ mặt cảm động, ánh mắt hân hoan, sung sướng của Đạt, khi nhận quà mừng, lòng tôi rộn rã rưng rưng…

Nhưng số kiếp tôi có lẽ chẳng hơn số kiếp con dã tràng là bao. Một đời chỉ hoài công xe cát. Mộng tưởng của tôi vỡ vụn ngay bước chân vào cổng trường Quang đón tôi và cho biết Đạt bận tiếp “thân nhân” từ Sài Gòn mới lên. Tiếng nói ấp úng của Quang, đã như một loạt đạn ghim nát tâm hồn tôi. Tôi hiểu. Tôi nói vậy, với Quang và lảo đảo muốn ngã. Đi thêm được dăm bước, tôi thấy như muốn kiệt sức rồi.

Chân tay rời rã lún xuống, như sợi dây cao su bị kéo căng quá mức. Đầu tôi nặng ê ẩm như bị một vật nặng đè lên.Tôi dừng lại đưa gói quà cho Quang: Lên thăm anh và anh Đạt. Định chung vui với các anh. Nhưng bỗng dưng tôi bị nhức đầu. Có lẽ trúng gió, lúc xe xuống đèo. Tôi gửi tặng anh món quà mọn này và thành thực xin lỗi anh, phải bỏ dỡ cuộc vui này. Quang cầm gói quà ngơ ngác.

Trong mắt Quang, tôi đọc được vẻ nghi ngờ thoáng hiện. Kể cũng tội nghiệp cho Quang. Tôi lẩm bẩm trên đường về. Bấy giờ tôi mới hiểu lý do nào, Đạt nằng nặc tôi phải trao thân cho Đạt. Đạt bảo có như thế mới chứng tỏ được tình yêu tha thiết, chân thực.

May mà tôi không nghe theo. Tôi không nghe theo, không phải vì tôi không tin Đạt. Tại tôi thấy chưa có hoàn cảnh thuận tiện. Người con gái một khi đã yêu, nào có tiếc gì. Chẳng qua sự vì sự vội vàng hấp tấp của Đạt làm tôi sợ. Nếu Đạt từ tốn và đừng tỏ quá nôn nả, chắc tôi đã hiến đời con gái cho Đạt rồi!

Hôm sau, Đạt lại từ biệt. Tôi bảo em tôi nói: đi vắng. Thực ra tôi nằm khóc trong buồng và nghĩ tới “thân nhân”, tới vợ chàng.

Phải chăng người đàn bà được sinh ra để giúp vui và lấp đầy phần nào khát vọng, tự ái ngút đỉnh của người đàn ông? Tôi cũng vậy nữa sao? Cũng chỉ là một thứ dụng cụ thí nghiệm, một hy sinh cho bản năng tình dục hay tính háo thắng của người đàn ông? Không. Không thể đê mạt như vậy được. Tôi không là nạn nhân của ai hết.

Mỗi người chỉ có thể là nạn nhân của chính dục vọng mình mà thôi. Tôi yêu Đạt. Tôi ý thức được điều đó, tôi hoàn toàn chủ động đời tôi. Tôi tự an ủi tôi như vậy.

Buổi chiều Quang lại. Tôi định từ chối luôn lời khẩn khoản xin được gặp mặt của Quang. Nhưng lúc nhớ tới Đạt, bỗng dưng tôi ra gặp Quang, tôi muốn ban phát cho Quang những gì mà tôi chưa cho Đạt. Những gì mà Đạt còn khao khát, thèm muốn nơi tôi. Đây là phản ứng tự nhiên, mù quáng của một kẻ bị phụ tình.

Tôi nhận lời đi chơi phố với Quang dù mặt tôi hốc hác, mắt còn đỏ hoe. Quang đưa tôi vào tiệm cà phê… Lúc ra đi tôi hỉ hả bao nhiêu vì nghĩ mình đang trả thù được Đạt, thì lúc ngồi trong quán, nhìn vẻ mặt quan trọng đăm chiêu một cách lung túng, bứt rứt ngô nghê của Quang tôi lại càng thấy chán chường bấy nhiêu.

Suốt buổi, Quang nói với tôi rất nhiều chuyện. Những gì, tôi không nghe rõ và cũng chẳng buồn hỏi lại. Trạng thái tôi lúc đó, là trạng thái của một người đang đứng trên đỉnh đồi tuyệt vọng. Tôi thấy tất cả đều trở thành khôi hài. Khôi hài vô cùng. Ngay cả tình yêu.

Trong khi Quang nói, nói mãi, như say sưa, như đắm cả tâm hồn mình trong câu chuyện. Hình như Quang kể nhiều về người chị dâu đi lấy Mỹ, sau khi anh Quang chết trong một trận phục kích của VC ở đèo Cù Mông. Mẹ Quang nửa điên, nửa tỉnh, suốt ngày uống rượu, và chửi con, cháu… Sống giữa khung cảnh ấy, Quang vừa đau lòng vừa tủi nhục, không chịu được, đành bỏ đi lính… Quang còn nói lung tung về nhiều vấn đề khác. Khi Quang dứt lời, tôi chẳng ghi nhận được gì. Và dĩ nhiên, tôi im lặng, không ý kiến. Sự im lặng nhận chìm Quang vào cô quạnh, lẻ loi, sượng sần. Tôi cũng chẳng hơn gì. Tôi lúc ấy, cũng lều bều tan nhiễn trong một khoảng rỗng tuếch, chán chường, cùng cực. Tôi nghĩ, lúc đó, nếu Quang nói thẳng với tôi, hỏi lấy tôi, chắc tôi sẽ không ngần ngại, nhận lời. Tôi cũng chẳng biết tại sao tôi lại có cảm tưởng như  vậy! Xui cho Quang và cũng có thể là may cho Quang, ở chỗ đó. Làm sao nói trước được. Có điều Quang đã quên rằng khi người đàn bà chán nản tuyệt vọng, họ có thể từ chối tất cả hoặc ngược lại, chấp nhận tất cả, luôn những cái mà trước đây họ ghê tởm khinh bỉ, hoặc không hề nghĩ tới. 

Tôi đem chuyện này kể cho Thúy nghe. Thúy bảo: Thế bây giờ nó hỏi mày, mày có bằng lòng không? Tôi lắc đầu: Không bao giờ, dịp may chỉ dành cho những kẻ ngu khờ một lần mà thôi. Tuy hắn vẫn còn liên lạc thư từ với gia đình tao và đôi khi cả tao. Bây giờ giữa tao và nó, chỉ còn là tình bạn. Thứ tình bạn gượng, về một phía. Không phải tại giờ tao có người yêu, nên tao nói thế. Như mày biết, tao không hề thêm một người nào, từ khi vào học ở đây. 

Sau vụ Đạt ít lâu, tôi có yêu thêm hai người nữa. Cũng ở Đà Lạt. Một người là giáo sư, một người là sĩ quan. Nhưng cả hai tên này đều bỏ rơi tôi rất mau. Một tên chán vì thấy gạt gẫm tôi mãi mà không ăn thua gì. Một tên bỏ sau khi vớ được một đám khác giàu có và bề thế. Cái lầm lẫn lớn nhất của người thứ nhất là hắn chưa tạo được một niềm tin tưởng mãnh liệt nơi tôi, hắn đã để lộ bộ mặt thật bẩn thỉu. 

Thật ngu ngốc, bọn con trai. Chúng đóng kịch rất khéo ở những màn đầu, nhưng lại quá vụng về, hấp tấp những màn cuối. Một khi yêu đắm đuối tôi nào có tiếc gì. Tôi vẫn thường đinh ninh như vậy. Và tôi tin, quan niệm của những người phụ nữ khác, cũng không khác biệt với tôi là bao nhiêu. Sở dĩ tôi dám bạo phổi nói vậy, bởi tôi xét ngay trong cái xã hội thu nhỏ là số hơn trăm nữ sinh lưu trú tại đây. 

Nếu chúng tôi có phần nào khác nhau thì cái khác đó chỉ là phần nổi trên bề mặt, cái mà người ta quen gọi là cá tính, của mỗi người. Cái lộ bên ngoài đó, theo tôi, có từ bản chất hoặc từ mặc cảm từ những cố tình làm ra vẻ như vậy. Chứa ẩn bên trong, tôi biết, chúng tôi đều như nhau. Cùng một lứa tuổi, một hoàn cảnh sống người ta thường có những ao ước, những thèm khát, giống nhau. 

Như cách đây vài tháng, tại ngôi trường này, chính tại những phòng học tối tăm trước mặt tôi đây, đã xảy ra một vụ mà chúng tôi gọi là “truyền thống nội trú”. 

Đó là chuyện con Hoa ở phòng một, yêu ông Tước dạy môn tâm lý học. Cái cảnh trò yêu thầy hoặc thầy tằng tịu với trò, ở xã hội chúng ta ngày nay, nó thường đến độ tất nhiên và gần như không có gì đáng nói. 

Riêng trường hợp con Hoa, có thê thảm, kinh khủng quá, khiến tinh thần chúng tôi, không khỏi bị giao động, xao xuyến. Bây giờ con Hoa đã chết rồi. Mồ nó, chắc cỏ mọc đã xanh. Tôi nghĩ, có đem chuyện nó ra kể cũng không có hại gì cho nó.   

Con Hoa người Quãng Ngãi. Sinh trong một gia đình gia giáo, Hoa hiền lành và ngoan ngoãn có tiếng. Nó đã có một ý trung nhân làm sĩ quan, đóng ở Đà Nẵng. Bởi nó quá hiền lành và kín đáo, nên không ai biết nó bắt tình với ông Tước. Ngay cả hôm người thuyền chài, nhặt được chiếc bào thai khoảng bốn năm tháng của ai, vứt ngoài bãi biển. 

Dân chúng trong vùng đồn ầm lên, cho là của nữ sinh lưu trú. Chúng tôi chỉ nghỉ cho những đứa nổi tiếng lăng nhăng từ trước, chứ tuyệt nhiên, không ai nghĩ tới nó. Mãi cho đến một buổi trưa, con Hoa treo cổ tự tử trong phòng ngủ, để lại một lá thư thú nhận tội lỗi. Lúc ấy chúng tôi mới ngã người ra… Trong lá thư tuyệt mệnh, con Hoa không nói tới tên người đã hại đời nó. Một tuần sau, khi ông Tước, nổi cơn điên, cắn lưỡi chết bất đắc kỳ tử ngoài bãi biển, ngay chỗ người thuyền chài nhặt được chiếc bào thai của con Hoa người ta mới biết ông ta là tác giả. 

Nhân vụ án tình ly kỳ này, người ta kể rất nhiều chuyện báo oán của những đứa trẻ bị chết oan như vậy. Không biết bao nhiêu kẻ bị hồn thiêng theo đuổi, báo thù, nhiều khi nó báo oán tới ba bốn đời chưa hết. Như con Hoa và ông Tước bị vật chết ngay thế là còn có phước đó. Tôi thì tôi cho rằng số con Hoa xui xẻo, chẳng may bị, chứ thiếu gì những đứa ở trong này, cũng như nó… Chỉ khác là chúng may mắn hơn không “ bị” mà thôi. 

Từ ngày con Hoa buộc dây thừng vào chiếc quạt trần, thắt cổ chết giữa phòng, tôi không dám nhìn lên chiếc quạt trần trong phòng tôi nữa. Tôi sợ cả tiếng cạch cạch đều đều của nó… 

Hễ cứ nhìn lên là tôi lại hình dung thấy con Hoa chới với dưới cánh quạt, lưỡi lè ra, dài ngoằng, tím bầm mắt trợn trừng, nước ứa thành dòng ở hai khóe. Lúc hạ nó xuống, tôi không dám đến xem, nhưng con Thúy kể rằng vừa đặt nó nằm xuống đất, máu tươi từ mồm con Hoa trào ra, lênh láng… 

Gió lay động những luống hoa dưới thấp. Tôi rùng mình lạnh tanh cả hai má. Tiếng ú ớ của con Dung ở phòng tôi vọng ra, nghe xa xôi như tiếng gọi mơ hồ vẳng lên từ cõi chết. Dãy núi Bà Hỏa cùng ngọn đèn báo của đài kiểm soát đặt trên đỉnh núi, mờ đi và tôi có cảm tưởng như nó đang xích lại gần tôi hơn. 

Tôi nhìn đồng hồ. Hơn mười một giờ. Tôi không muốn vào phòng tý nào hết. Với lại, tôi sợ phải giáp mặt Nhiệm, người đàn ông mà tôi đã gặp trong phòng, sáng nay. Tôi không hiểu ai đã cho phép chàng lên phòng tôi từ mấy ngày hôm nay. Và tôi không hiểu tại sao bao nhiêu cương quyết, tự nhủ không nói chuyện với chàng của tôi đều tiêu tán trước sức thu hút lạ lùng của con người kỳ dị ấy. Tôi tiếp chuyện chàng say sưa, thật say sưa, để rồi sau đó, khi chàng đi khỏi, tôi mới lại âm thầm tự trách. 

Tôi cũng không biết có phải chính chàng là người đã cắm một bông hoa đỏ trên cửa sổ gần giường ngủ của tôi, mỗi sớm mai, lúc tôi còn ngủ? 

Lúc đầu, tôi lấy làm thích thú vô cùng khi thấy hoa đỏ mượt ướt sương đêm. Tôi kiêu hãnh và càng tự tin hơn nữa, nơi sắc đẹp và sức quyến rũ mà trời đã ban cho riêng tôi. 

Sau, màu đỏ trở thành một đe dọa, ám ảnh tâm trí tôi, đến độ, nhìn vào đâu tôi cũng thấy màu đỏ tươi ấy. Thoạt tiên nó còn là một khoanh tròn, nhỏ như bông hoa, sau nó lớn dần, lớn mãi và cứ thế nó lớn cho tới lúc tôi thấy chóng mặt, xây xẩm, quay đi, muốn ngã…

Ngày đầu tiên, tôi thấy bông hoa đỏ cùng mấy con bạn thân của Hoa tổ chức cúng trăm ngày cho nó. Không biết có sự liên quan nào giữa bông hoa đỏ và con Hoa không? 

Tôi chỉ dám nghĩ thầm chứ không đem kể cho con Thúy nghe. Sợ nó bàn ra tán vào, chỉ tổ cho tôi lo sợ thêm. 

Một lần, đánh bạo, tôi đem chuyện bông hoa kể cho chàng nghe, thử xem thái độ của chàng ra sao. 

Nhưng chàng chỉ cười úp mở nói: Màu đỏ là màu đắc thắng, màu của tươi vui hạnh phúc. Nữ vẫn thích màu đỏ cơ mà. Sao lại sợ vô lý vậy. Tôi không biết trả lời chàng thế nào định tâm hôm nào sẽ dậy thật sớm, làm bộ nhắm mắt ngủ để rình thử xem ai là người cắm hoa. Nhưng lạ một điều là dù tôi có thức sớm mấy chăng nữa, lúc hé mắt nhìn, lần nào cũng thấy bông hoa ở sẵn đó rồi. 

Tôi vào phòng, lúc trăng hạ tuần đã lên ngang đỉnh núi. Tôi lẳng lặng ngồi vào bàn viết, ghi mấy chữ vào nhật ký, theo thói quen… “Ngày thứ I2, tôi nhận được bông hoa đỏ. Vẫn chưa hề biết danh tánh người cho. Nếu một ngày kia tôi chết, dù trong trường hợp nào, như Hoa chẳng hạn biết đâu, xin những người còn yêu tôi, hãy trồng trên mộ tôi một bông hoa đỏ. Để mỗi sớm mai, bông hoa ấy được ướt mượt sương khuya… như bông hoa ngày mai, khi  mở mắt tôi hy vọng sẽ lại được trông thấy…”

Tôi đọc lại mĩm cười một mình. Tôi chợt thấy mình có vẻ lãng mạn quá, cái lãng mạn của những thi sĩ thời… trung cổ. 

Tôi thiếp đi trong ánh mắt ai đắm đuối, cúi xuống, cùng tiếng sóng biển vỗ điều ngoài xa… hay tiếng gọi kêu khôn nguôi của một oan hồn, vọng về một cảnh đời đã mất. 

Hai giờ sư phạm thực hành qua trong chán nản, nhạt nhẽo. Sáng nay, trở dậy lần đầu tiên, tôi không thấy bông hoa đỏ. Chỉ có những giọt nước chảy dài trên tấm gương soi mặt. Tôi nhìn sát và tưởng mặt mình loang lổ đầy vết máu. Lúc xuống phòng ăn sáng, tôi cũng không gặp chàng đứng chờ ở chân cầu thang. Điềm gì đây? Điềm gì đây? Ba tiếng ấy rền vang trong trí óc tôi. Thấy vẻ mặt tôi lo lắng, thảng thốt. Thúy ái ngại hỏi: Mày xanh quá. Đêm qua lại mất ngủ hả? Tôi cúi mặt nói với Thúy nhưng chính là nói cho riêng tôi: Tao tin có điềm gở. 

Tiếng kẻng ra chơi, cứu tôi thoát khỏi không khí nặng nề nghẹt thở của buổi học. Tôi bước thật nhanh, ra khỏi phòng. Hình như tôi gặp ngay thầy Sáu giám thị ông ta có ý chờ tôi từ trước. Ông ta bảo: Cô có thư khẩn ở Đà Lạt gửi đó. 

Tôi cám ơn và uể oải xuống văn phòng. Tôi nhận được hai lá thư, một của em tôi, một của ai đó, nét chữ lạ và không đề tên người gửi. Tôi mở thư của em tôi trước, ngoài bì có chữ khẩn. Tai họa đã xảy đến cho gia đình tôi?  Nhưng không. Không có gì hết. Gia đình tôi vẫn thường. 

Đoạn chót, em tôi viết. À thưa chị anh Quang đã chết hôm chín tây tại đèo Nhông trong cuộc hành quân Thần Mã 6. Mẹ bảo báo tin cho chị hay! Tôi nhẩm đọc lại đúng. Quang đã chết ngày chín. Trong một thoáng rất nhanh không hiểu mãnh lực nào đã bật mở  trí nhớ tôi. 

Ngày chín… ngày chín… chính là ngày tôi nhận được bông hoa đỏ lần đầu tiên. Hôm nay là ngày 22… 

Tôi bàng hoàng như kẻ mất hồn, chạy lên phòng ngủ, gục đầu xuống nệm, khóc nức nở. Tôi cũng chẳng biết vì lý do nào, tôi lại khóc mùi như vậy. Trong khi thâm tâm, đến giờ phút này, tôi vẫn không mảy may yêu Quang… 

Tôi lau mắt, ngửng lên, định trở lại phòng học. Bỗng tôi lạnh người, thấy một bông hoa đỏ, còn ướt mượt sương đêm, ai đã lén cắm trên cửa sổ tôi, từ bao giờ?



1                                       

Sự xuất hiện của chàng như một cơn bão lớn, một kinh hoàng, một tai họa phủ chụp xuống đời tôi. Tôi có thể nói thật điều đó mà không e ngại bởi chàng đã dời khỏi đây. Chàng đã như một cánh chim hút mù chân trời lạ. Hay chàng đã trở về đời sống riêng của chàng, ở đó, một dĩ vãng, với một người con gái, tóc dài như tôi, mắt cũng buồn và tôi chắc người ấy phải đẹp. Nếu không thì nàng cũng phải là một cô gái đoan trang, dịu dàng, như một dải nón, mềm mại và thướt tha như nhánh sông, hay như chính một kỷ niệm xa xôi thầm lén nào… Tôi có ý nghĩ vẩn vơ như vậy bởi tôi thấy chàng tỏ vẻ tôn thờ và kính trọng người ấy lắm. 

Tôi không biết tên người con gái đã có may mắn đến với chàng, trước tôi. Tôi cũng chưa bắt được chàng phải cung khai lý lịch về người đó. Tôi nghĩ sớm muộn thế nào ta cũng biết, nên tôi cũng kiềm chế được tính tò mò, nôn nả của mình. Vì sự thực hiển nhiên là tôi chưa thể nhân danh một tư cách nào cho hợp lý để chất vấn chàng. Mặc dù thái độ hấp tấp và cái bản chất tò mò của tôi rất đàn bà. 

Ấy, chưa có gì vậy mà tin chàng mê tôi và ngược lại, tôi yêu chàng, đã được loan đi rất nhanh trong thế giới bưng bít của một thứ xã hội thâu hẹp này. 

Ai là người đã loan tin đó, tôi không quan tâm, bằng việc con Liên ra mặt gây sự với tôi. Nói là nó đã mở cả một chiến dịch để tấn công tôi mới đúng. Với con Liên, trước đây, tuy không thân, nhưng giữa chúng tôi cũng có chút tình bạn học. Con Liên mới chỉ sinh chứng từ sau ngày tôi gặp chàng. 

Nếu đàn ông có thể vì một người đàn bà mà chém giết lẫn nhau, thì đàn bà cũng có thể, hoặc, hơn thế nữa, vì một người đàn ông. Tôi nhớ có lần đã phải than thở với Thúy rằng: Tao thấy không gì nhục nhã, xấu hổ cho bằng ghen ghét, hận thù nhau chỉ vì một thằng đàn ông. Đàn ông tất nhiên là một cần thiết, nhưng cần thiết đến đâu thì cũng có giới hạn của nó. Tao nói thiệt với mày chứ, chỉ cần con Liên nói với tao một tiếng thôi, tao sẽ cắt đứt mọi liên lạc với chàng, tao sẽ nhường lại cho nó. Thúy cười, bảo: Nói như mày chẳng hóa ra cái gì cũng có thể sang nhượng một cách giản dị như vậy sao? 

Dù thằng đó nó chẳng là cái chó gì hết, nhưng con Liên nó cũng tức chứ. Đứa nào không tự ái. Ví thử mày ở trường hợp nó, mày cũng lồng lộn lên chứ bộ không chắc. Mày phải nhớ là con Liên nó gặp thằng Nhiệm trước mày. Tính nó lại tự tin và kiêu căng một cách vô lối. Nên sau lần gặp chớp nhoáng đó, không biết thằng Nhiệm tán tỉnh nó những gì mà nó đã yên trí là thằng Nhiệm mê nó. Rồi chính cô ả đi khoe lung tung với bạn bè. Đùng một cái, người ta thấy thằng Nhiệm cặp kè với mày. Do đấy, nó không động nọc sao được. 

- Ừ, thì cho là như vậy thật đi. Nhưng nó phải hiểu rằng tao không thiếu gì chứ. Ngay thằng Hiển, cứ lấy thí dụ thằng Hiển thôi, cho gần, nó chạy theo tao trong khi biết bao đứa ở đây mê nó, mà tao đâu có thèm. Thực với mày là tao không một mảy may cảm động trước những cử chỉ, lời lẽ van lơn của nó. 

- Đâu phải ai cũng như mày tưởng. Chính vì mày ưa suy bụng ta như vậy nên mày mới ngạc nhiên khi thấy thái độ bất thường của con Liên. Riêng tao, tao không ngạc nhiên chút nào hết. Tao còn biết rằng ở đây có rất nhiều đứa ghét mày. Nó ghét mày hoặc vì nó không được bằng mày, hoặc vì nó cho là mày làm bộ, hoặc chẳng vì gì hết. Chỉ vì mày là mày thế thôi. 

Tôi không nhìn Thúy, nhếch miệng cười tỏ ý khinh thị. Thúy vẫn đều giọng: Nhân đây tao cũng báo luôn cho mày hay, để mày liệu đề phòng. Tôi giật mình, cái gì? Thúy nhìn quanh, mặt nghiêm trọng.

- Mày biết con Hải ở lớp ba không? Tôi lắc đầu. Không. Con Hải là cái con tóc ngắn Kiểu Nhật Bổn đó. Mày không biết thiệt sao? À… à… thế thì tao biết rồi. Có phải cái con mặt hiền hiền, hay cười, bạn của con Liên? 

- Ồ đúng đây. Nó đấy. 

- Sao? Tôi hỏi dồn. 

- Thì nó ghét mày thiếu điều đổ đất chôn đi chứ còn sao nữa. Thúy ghé sát tai tôi, nói tiếp: Nó yêu thằng Hiển như điên. Mà thằng Hiển làm như lại không chịu nó. Tao cũng khồng hiểu sao thẳng đó lại chê nó.

Tôi bán tín bán nghi:

- Ai bảo mày biết điều đó? Tao thấy con Hải có vẻ đàng hoàng lắm mà.

Thúy trề môi.

- Bộ đàng hoàng thì nó không biết yêu chắc?

Tôi cười:

- Đã đành. Nó có quyền. Nhưng ý tao chỉ muốn nói, tao không tin nó mê mẩn lăng nhăng vậy. Thằng Hiển hình như cũng dạy bên lớp nó mà.

- Bởi vậy. Cô ả mới si nó. Tụi con trai nó kháo nhau, không biết có đúng không, con nhỏ nhiều lần kẹp thư trong cuốn tập làm bài, nộp cho thằng Hiển. Đâu thằng Hiển nhận thư mà không trả lời. Chúng nó cho rằng lý do là tại thằng Hiển còn đang trong thời kỳ “cay” mày.

- Mày dám chắc thế không?

Thúy giận dỗi: 

- Thấy sao, tao nói vậy. Vì tao nghĩ rằng tao là bạn mày. Còn tin hay không cái đó tùy mày. Tao không là thằng Hiển, tao cũng không phải là con Hải làm sao tao biết rõ được. Muốn chắc ăn, mày cứ hỏi thử người trong cuộc. 

Sợ Thúy giận, tôi vỗ vỗ vai nó: 

- Hỏi là hỏi mày vậy thôi. Chứ trước đây, dù tao chưa biết tên nó, nhưng tao cũng đã nhận thấy, nó có vẻ khó chịu mỗi khi gặp mặt tao. Mấy lần ở phòng ăn, vô tình tao ngồi gần bàn nó. Lát sau, tao thấy nó đứng dậy, đi bàn khác. Tao băn khuăn mãi, không hiểu tại sao nó lại kỵ tao như vậy. Trong khi giữa tao và nó, đâu có chuyện gì. Giờ tao mới vỡ nhẽ. Dẫu sao thì tao cũng phải cám ơn mày đã cho tao biết tin này. 

Để Thúy khỏi nghĩ ngợi thêm, tôi hỏi nó về Phụng. Quả nhiên, nghe nói đến Phụng, mắt nó sáng lên. Nó bảo: Tuần rồi tao có nhận được thư hắn. Hắn hẹn Thứ Bảy này, đến trường đón tao đi phố. 

Tôi pha trò: 

- Gọi đại nó bằng thằng cho rồi. Gớm, lại còn kiêng kỵ, bày đặt… hắn… hắn. 

- Đồ khỉ già. Rồi còn mày nữa đó. Liệu hồn. Thúy cười nói, xong quay lưng đi thẳng. Tôi nhìn theo chiếc lưng cong của nó, nghĩ thầm: Tướng này là mắn con lắm. Anh nào mà vớ được thì đúng là nhà có… phước.  

Tôi trở về phòng và nghĩ tới một biện pháp phải có đối với bọn con Liên. Liên học cùng lớp với tôi. Nó ngồi sau tôi hai bàn. Ngay chỗ cửa ra vào. Nó mở chiến dịch bôi nhọ, chọc tức tôi, bằng cách liên kết với tất cả bạn bè của nó, gồm luôn bọn con trai. Mỗi khi thấy tôi vào lớp, chúng xầm xì bàn tán. Những lần tôi vào lớp trễ, chính bọn con Liên khích tôi bằng những câu như: 

“Người đẹp, người đẹp vô. Hoặc : 

“Người đẹp mà. Đi học hay không là cái quyền. Tụi mình làm sao bì được.”

Đấy là ở trong lớp, còn khi gặp tôi ngoài hành lang hay trong phòng ăn, chúng chọc tôi bằng một giọng khốn nạn, khả ố hơn. Chẳng hạn, một đứa sẽ làm bộ gọi: 

“Nhiệm ơi.” Đứa khác đáp: “Gì vậy em.” Và chúng phá lên cười. Trò nầy thường được mấy đứa con trai chủ xướng. Chúng là những đứa thường để ý hoặc công khai tán tỉnh tôi mà không được. Với tôi, tất cả những hành vi hèn hạ đó, không những không làm tôi nổi đóa mà chỉ khiến tôi khinh tởm chúng hơn, mà lối trả lời của tôi thường là cái bĩu môi, hoặc nhổ nước bọt, quay lưng. Tôi tưởng với thái độ khinh miệt ấy, lâu dần sẽ làm chúng chán và phải thôi, không ngờ giữa lúc tưởng nó bắt đầu nguội thì lại là lúc nó được hâm nóng hơn bao giờ hết vì Hiển.  

Chuyện nào có đáng gì đâu. Cách đây khoảng bốn năm hôm chi đó, một buổi trưa trời nóng quá, tôi ngủ không được thêm nỗi buồn không biết dâng từ đâu đến, tôi đem cuốn chuyện ra dãy nhà sau ngồi đọc. 

Chỗ ấy, xưa là nhà chơi, với những băng ghế dài sau biến thành nhà để xe của giáo sư và nhân viên nhà trường. Riêng tôi, tôi vẫn thích ngồi trên những băng ghế dài cũ kỹ ấy. Vì chỉ có ở vị trí đó, tôi mới có thể phóng tầm mắt nhìn ra biển những buổi trưa bọt trắng, hay ngắm dãy núi bà Hỏa những buổi chiều lãng đãng sương sa. 

Tôi ngồi đó. Buổi trưa, trời xanh ngắt. Biển với những con sóng uể oải vỗ sâu vào chân cát. Tiếng dội vang nghe đều đều như một giọng nói ồ ồ, của một thanh niên đang thời kỳ vỡ tiếng. Tôi mê biển, mê buổi trưa, xanh và ồ ồ như thế. Cũng ở đó, tôi có thể nhìn thấy bãi cát chạy xuôi hút tầm mắt, về phía thành phố. Nắng soi rõ từng chiếc vỏ hến trắng xốp. Cát vàng ánh và hực hơi nóng. Tôi còn có thể nhìn thấy ngoài xa, thật xa, những chiếc thuyền buồm nhỏ, loại thuyền đánh cá của những ngư phủ chuyên lưới cá gần bờ. Vật dụng của họ giản dị lắm. Thường họ chỉ có một cái lưới nhỏ, bốn góc được cột chặt vào bốn đầu của hai cây song bắt chéo nhau. Nếu khá giả hơn, họ có một tấm lưới lớn. 

Nhưng với loại lưới này, mỗi khi đánh cá nó đòi hỏi sự hiệp lực của mấy chiếc thuyền khác, mới có thể kéo từ sâu dưới mặt nước lên. Nắng chói chang và biển xanh mênh mông, đã hóa thân những ngư phủ này thành vật đen dẹp mỏng, nghiêng ngả theo nhịp sóng táp vào hai mạn thuyền. Mỗi lần lưới kéo lên, tôi không nhìn thấy gì, trừ một vài chấm trắng như bạc lấp lánh dưới ánh nắng. 

Thú tiêu khiển của tôi, những lúc buồn, không có gì khác hơn là ngắm nhìn những người đánh cá ấy. Và cũng chỉ có hình ảnh những người ấy mới đủ mãnh lực triệt tiêu dần, nỗi buồn vớ vẩn của tôi. Có lẽ tại tôi thấy họ gần với tôi, hay đúng hơn, họ là hiện thân của những thiếu hụt, những ước ao thầm kín mà tôi đã bất lực không thỏa mãn cho đời mình. Tôi cho đó là bản chất tự nhiên của con người, vốn thích tự do và gần thiên nhiên. Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng phải tạo lấy cho mình một nghề nghiệp để tự nuôi sống. Nhưng chỉ có những người có được một nghề tự do, mới dễ giữ được tư cách và mới có nhiều hy vọng làm được những việc lớn lao. Đã đành là vẫn có những người giữ được phẩm giá, dù ở trong nghề nghiệp nào, nhưng họ thường là những người quá hiếm hoi và càng hiếm hoi hơn nữa, trong xã hội này. Tôi cũng vậy. Nếu tôi không vì miếng cơm manh áo, không vì mục đích muốn có một nghề bảo đảm hầu đỡ cho chồng con sau nầy, tôi không những thẳng thừng cự tuyệt Hiển, tôi còn làm ầm câu chuyện lên, tôi sẽ chửi thẳng vào cái mặt khả ố của hắn, mỗi khi hắn dở giọng. 

Gió biển mơn trớn da thịt tôi, làm tôi cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, thư thái lâng lâng một khoái cảm dịu nhẹ. Tôi nhìn xuống cuốn truyện chưa mở, ở trên đùi. Hình như tâm trí tôi còn đang bận bịu với những chuyện gì ở đâu đâu… Những cái chưa thành hình và chưa có tên, tôi lúc đó như ở trong trạng thái của một thể đặc, chờ tan thành lỏng và có thể hơn nữa bốc thành hơi. Tôi lều bều nhẹ hẫng, trong cái không gian bằn bặt nhưng ngọt ngào ấy. Tôi muốn được ngồi mãi thế, cho đến chiều, cho đến tối… 

Giữa lúc đang thiu thiu, chợp chờn muốn ngủ, bỗng tôi mơ hồ nghe thấy có tiếng bước chân ai nghiến trên nền xi măng sạt sạt. Hình như người đó đang nhắm hướng tôi đi tới, và y cố gắng bước những bước nhẹ, thật chậm. Nhưng trong cái nhẹ và chậm ấy, tôi vẫn cảm được cái gấp vội, cái lúng túng, nôn nao ở những tiếng rơi không đều… Đúng là số ăn mày. Đã ra đến đây mà còn chưa yên thân. Tôi rủa thầm trong miệng, cúi nhìn đồng hồ 1 giờ 45. Còn những hơn tiếng nữa mới tới giờ học. Tôi đứng dậy, vươn vai định về phòng ngủ. Lúc tôi day lưng lại, chân chưa kịp bước thì Hiển đã đứng sững ngay trước mặt. Vẻ mặt hắn rạng rỡ một cách khó chịu bực mình. Hắn trịnh trọng thẳng người, nghiêng đầu chào. Tôi cố lấy vẻ thản nhiên.  

- Chào thầy. Chiều nay thầy có giờ không mà lại đi sớm quá vậy ạ ? 

- Có chứ Nữ (Giọng hắn rung rung và rè như một sợi dây đàn sắp đứt). Không hiểu sao, gần đây trưa nào tôi cũng bị mất ngủ. Nằm nhà mãi không biết làm gì, nên mang sách vào thư viện đọc cho qua thời gian, chờ giờ dạy luôn. 

- Chắc tại trời mấy hôm nay nóng quá đó thầy. Tôi nói. Hiển lắc đầu, mắt đứng trên mũi giầy. 

- Không phải thế đâu Nữ. Tôi đã tìm ra nguyên nhân nhưng chưa dám chắc nơi mình nên hãy còn phân vân. Nói rồi ngước mắt nhìn thẳng vào mặt tôi. Trong hai hốc mắt sâu, quầng của Hiển, những tia lửa thèm khát đắm đuối lóe lên, hừng hực. Mặt Hiển dài đi, ngơ ngẩn. Bất giác tôi vòng tay ra sau lưng, kéo vạt áo sau, cho tấm áo cánh hở cổ hếch lên ở phía trước, chia bớt phần ở trên ngực. Tôi vờ nhìn ra mặt biển. Sóng vẫn theo nhau vào bờ. Hiển ngập ngừng. Hắn hít một hơi thở dài, trước khi nói: 

- Tôi có chuyện muốn trình bày với Nữ. Nhưng đợi mãi, không có dịp nào thuận tiện. Gặp Nữ lần nào, thì câu trước, câu sau, Nữ đã bỏ đi rồi. Câu chuyện tôi sẽ nói đây, không có gì quan trọng lắm. Nhưng không biết có làm phiền Nữ chăng? 

Tôi bối rối, lo lắng tuy ngoài mặt vẫn làm vẻ cứng cỏi. 

- Dạ thầy quá lời, có điều chi cần chỉ dạy, xin thầy cứ nói. 

Hiển cười. Cái cười mới thật là vô duyên và trơ trẽn. Tôi chắc ở trên đời không thể nào có được một nụ cười vô duyên và trơ trẽn hơn thế. 

- Thầy trò gì. Tôi xin Nữ. Đừng xưng hô như vậy với tôi nữa. Chúng mình đang ở ngoài giờ học. Điều ấy đã làm tôi khổ tâm từ bao lâu nay. Tôi vẫn thầm nghĩ rằng, nếu tôi không phải là giáo sư trường, tôi sẽ sung sướng vô ngần. 

Tôi biết ý Hiển muốn nói gì. Nhưng hắn đã nhầm từ căn bản. Bởi nếu hắn không là giáo sư trường này, thì có bao giờ tôi lại khổ sở mỗi khi gặp hắn và bị bắt buộc phải trả lời những câu nói lăng nhăng của hắn. Vẻ im lặng của tôi có lẽ đã làm Hiển lầm tưởng trạng thái tình cảm tôi lúc đó. Hắn tiếp: 

- Tôi… Tôi xin Nữ coi tôi như một người anh. Một người anh bà con chẳng hạn. Bỏ tiếng thầy đi. Nghe nó xa cách thế nào ấy. Đấy là điều tôi đã thầm mong ước từ lâu. Và tôi nghĩ nó cũng không khó khăn gì lắm, đối với Nữ tôi thiết tha xin Nữ đừng để tôi thất vọng với ước ao nhỏ nhoi đó. 

Tôi không thể nhịn cười được. Cố gắng lắm, tôi chỉ có thể giữ cho nó đừng bật ra thành tiếng. Anh này lại dở giọng tán tỉnh rồi đây. Tôi chậm rãi:  

- Dạ, thưa thầy, tôi đã quen mất lối xưng hô đó. Bây giờ không thể sửa lại được nữa. 

Hiển thất vọng một cách thảm não. Mặt hắn méo đi, môi mím lại. Hai hàng lông mày chụm gần. Mắt hắn nhìn tôi một cách khổ sở, gần như van lơn, cầu khẩn. Trước hình ảnh ấy, tôi cảm thấy không đành. Trong một thoát nhanh, lòng trắc ẩn bùng dậy. Tôi thương hại hắn. Thương hại như thương hại một kẻ khốn cùng, một tên ăn mày, một kẻ sa cơ lỡ vận. Tôi buột miệng nói, không bằng ý thức, vì khi lời nói bay ra, lúc ấy, tôi mới biết và hiểu rằng tôi đã nói gì. Tôi bảo: 

- Xin thầy cho từ từ. Mai mốt, biết đâu khi ra trường rồi, tôi chẳng đổi được cách xưng hô ngày nay. Dẫu sao tôi cũng xin cảm ơn lòng tốt mà thầy đã dành cho riêng tôi. 

Mặt Hiển vụt tươi sáng. Hai bàn tay hắn xòe ra nắm vào một cách vô cớ. 

- Tôi… Tôi mới chính là người phải cảm ơn Nữ. Cám ơn Nữ trước. Và chuyện chính mà tôi muốn nói với Nữ ở đây là… là điều mà… tôi… thấy hình như Nữ có vẻ không ưa tôi. Tôi không hiểu mình có làm điều gì thất thố, khiến Nữ phải phiền lòng? Hay Nữ không ưa một điểm nào đó, ở con người tôi? Tôi vốn là kẻ bản chất biết phục thiện, nếu Nữ cho tôi biết được thì tôi xin sửa chữa ngay và xin ghi ơn Nữ rất nhiều.  

Thật khôi hài. Tôi nghĩ. Điều tôi mong thấy ở ông là ông đừng đá động gì tới tôi hết. Hãy để cho tôi yên. Tôi chỉ không ưa ông mỗi một điều đó. Nhưng chính đó lại là điều ông đang đem đến cho tôi đây. Ông biết không! Tôi thở ra, tiếc cho cơ hội nghìn vàng, có thể yêu cầu Hiển đừng bao giờ tìm cách lại gần tôi. Giữa lúc tôi còn đang loay hoay tìm lời thì Hiển lại bồi thêm, chắc hắn tưởng tôi cảm động vì những lời nói “chí tình” của hắn.  

- Tôi cũng xin nói luôn để Nữ hay rằng, một lời nói của Nữ, có thể khiến tôi biến buồn hay vui, thất vọng hay tin tưởng. Có những buổi không có giờ dạy, nhưng tôi mượn cớ lại thư viện đọc sách để có dịp nhìn thấy Nữ. Dẫu tôi biết chắc rằng Nữ không hề để ý tới điều đó. Nếu Nữ cho rằng đó là hành động của một đứa con nít thì tôi chỉ con nít từ khi tôi gặp Nữ. Và dĩ nhiên tôi chỉ con nít trước Nữ mà thôi. 

Tôi choáng váng trước những cố tình ngỏ ý của Hiển. Tôi bứt rứt, hoảng hốt nhìn. Biển vẫn ì uồm sóng như giọng một thanh niên đang trong thời kỳ vỡ tiếng. Nắng trưa vẫn hừng hực. Tất cả như cùng co rút lại, chao đi cùng với cơn bấn loạn tinh thần của tôi. Tôi loay hoay tính kế thoát thân. Nếu bây giờ mà mình co chân chạy, thế nào hắn cũng túm lại và câu chuyện sẽ vì thế ầm lên. Lúc ấy, mình sẽ còn mặt mũi nào nhìn ai nữa, dù mình là nạn nhân. Trong bất cứ trường hợp nào, người đàn bà cũng là kẻ thua thiệt nhất. Nhưng nếu cứ đứng ì ở đây thì cũng chết. Với một kẻ đã si mê đến độ ngu muội như Hiển thì ai cấm được hắn bầy tỏ tình yêu. Và chưa biết chừng có thể hắn sẽ quỳ xuống, hắn sẽ khóc… Rồi tôi sẽ phải xử trí ra sao ? Không thể để như thế được. Chỉ còn có mỗi một cách là lựa lời nói khéo léo với hắn, xoa dịu phần nào tự ái cũng như khát vọng đang ngùn ngụt cháy bùng trong hắn. Rồi sau đó sẽ tìm cách rút êm. Chỉ còn một cách đó. Tôi nói to trong óc.

Tôi cắn môi một cái thật mạnh để tinh thần tỉnh táo, bình tĩnh trở lại. Tôi bảo hắn:

- Thầy dạy quá lời. Chính ở đây, tôi thấy thầy là một trong những giáo sư đàng hoàng nhất. Thâm tâm, tôi  vẫn kính trọng và nể vì thầy như kính trọng nể vì một người cha, một người anh tinh thần, người đã dạy dỗ chỉ bảo tôi như dạy dỗ chỉ bảo con, em trong nhà.

- Cám ơn Nữ. Nhưng chính vì Nữ mãi nhìn tôi bằng con mắt của học sinh nhìn ông thầy, nên tôi mới đau khổ. Và tôi đã nói với Nữ, tôi chỉ tha thiết xin Nữ một điều là Nữ hãy coi tôi như một người anh… Một người anh bà con…

Đến đây thì tôi không nhẫn nhịn được nữa. Thái độ ngoan cố, dằng dai của Hiển làm tôi vừa sốt ruột vừa bứt rứt. Sức chịu đựng của ai thì cũng có chừng thôi chứ. Già néo đứt dây. Nó là một định luật rồi. Tôi tảng lờ như không nghe thấy lời Hiển. Tôi giơ tay coi đồng hồ, định bụng sẽ nói: Gần đến giờ vào học rồi, xin phép thầy cho tôi về phòng sửa soạn.

- Nữ… Nữ ơi… Tôi… Tôi… yêu Nữ…

Không biết gì nữa, tôi kinh hoàng nhắm nghiền hai mắt và ù té chạy, vừa hay lúc Hiển ngã nhào tới, choàng tay ôm tôi.

Tuy chạy kịp, nhưng tôi có cảm giác như những ngón tay của Hiền đã chạm vào vai vào lưng tôi. Những ngón tay bấu sâu vào lưng tôi. Những ngón tay bấu sâu vào da thịt tôi, như những mũi dùi sắt nung nóng. Tôi chạy. Tôi chạy, trong nỗi kinh hoàng ghê khiếp cùng cực. Miệng tôi há ra tưởng có thể hét vỡ cuống họng, nhưng không một tiếng nào thoát ra… Trước mặt tôi cảnh vật quay tít với một tốc độ tối đa, khiến tất cả hòa tan trong nhau và chỉ còn một màu trắng bệch . Chạy và chạy.

Tôi không biết tôi chạy qua những nơi nào và tiếng chân nện thình thình bên tai tôi, tôi cũng không  phân biệt được là của tôi hay của Hiển. Tôi chỉ biết rõ ràng là tiếng chân đó, nó bám sát, nó đeo dính, ngay sau lưng tôi. Nó dội vào tai tôi, nó làm nghẹn hơi thở tôi. Nó chặn đứng cả mạch máu trong người tôi. Toàn thân tôi nổi đầy gai ốc. Hai bên má và nhất là dọc xương sống tôi, lạnh buốt. Cái lạnh lẽo khủng khiếp của một lưỡi thép sắc liếc qua liếc lại trên da thịt tôi trần truồng, cuối cùng tôi cũng không hiểu bằng cách nào và có thực không, chiếc cầu thang dẫn lên phòng tôi hiện ra, chặn ngang mặt. Tôi chưa kịp định thần thì một bàn tay, của ai đó, đã đưa ra chận ngang ngực tôi. Tới lúc đó tôi mới bật được tiếng hét thất thanh và ngã vật xuống như một chiếc bị nước, đứt dây từ trên cao..



3

Buổi sáng, trời còn mát hơi sương. Không gian rộng, bềnh bồng những cụm mây trắng nhỏ. Tôi ra ban công, lúc bác Sáu đang tưới nước lên những khóm trúc xanh mượt. Bụng lá ngửa ra với những giọt nước đọng lăn tăn. Tôi cảm thấy thân thể nhẹ nhàng như không còn bị một vướng víu nào của áo quần. Nhớ lại chuyện xảy ra trưa hôm qua tôi mỉm cười một mình.

Xuống phòng rửa mặt, tôi gặp Thúy ở trong bước ra. Nó hỏi:

- Tỉnh hẳn chưa cô nàng?

- Định ăn vạ nữa nhưng xét lại ở đây chẳng có ma nào nó chịu được cái vạ của mình nên không muốn tỉnh cũng phải tỉnh.

Thúy cười hóm hỉnh:

- Giá có thằng Nhiệm ở đây thì hay biết mấy.

- Chuyện qua đường mà mầy. Trong giọng nói có pha chút giận hờn, tôi chợt thấy mình vô lý. Chỉ có những đứa ngu ngốc mới tin vào lời hẹn vu vơ của một thằng đàn ông khi nó chưa thuộc về mình mà thôi. Tôi nhớ lại những lời Nhiệm đã nói lúc chia tay. Tôi luôn nhủ tôi rằng, chuyện qua đường, nghĩ làm gì. Nhiệm không phải là của mình. Chàng của một người nào đó, hay không là của ai hết. Mình không có quyền hạn gì cả.

Ấy nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn tơ tưởng về chàng, như tơ tưởng về một kỷ niệm đằm thắm, một dĩ vãng khôn khuây của một người tình chung kiếp. Nhớ đến Nhiệm, có nhiều đêm tôi không ngủ được. Cứ y như chuyện tôi gặp chàng mới xẩy ra hôm qua, hôm kia.

Tôi cong lưng múc nước trong chiếc lu đã cạn. Gió thổi tốc vạt áo ngắn của tôi, cái lạnh chạy dọc theo xương sống. Tôi rùng mình. Đổ nước ra tay, tôi ấp lên mặt. Cảm giác khoan khoái lâng lâng chạy từ những lỗ chân lông trên da mặt. Người tôi nóng dần, nóng dần. Máu dồn dập chảy. Tôi ngó mặt mình trong chiếc gương soi hình chữ nhật, đóng chết trên tường. Hai con mắt sâu đen. Những giọt nước từ hai mang tai chảy xuống, vơi những chấm lấm tấm đậu trên những sợi lông óng ánh. Đôi môi ướt mượt, đỏ và mềm.

- Hôm nay mình có vẻ đẹp hơn mỗi hôm? Tôi cười với bóng mình trong gương. Ý nghĩ mình đẹp làm tôi hãnh diện sung sướng. Tôi lùa tay, vuốt hết tóc về phía sau. Hai tai tôi vểnh ra một cách bướng bỉnh, và có vẻ nũng nịu thế nào ấy. Tôi bĩu môi: Đừng tưởng đẹp nghe con. Suýt nữa đời con tàn về tay thằng Hiển rồi đó. Đẹp để làm gì? Ừ, tại sao đứa con gái nào cũng mong mình đẹp, kể cả tôi. Nếu mình không đẹp thì mình không có chút giá trị nào sao? Tôi thở dài, chặc lưỡi: Ôi dào, hơi đâu mà nghĩ vẩn vơ.

Tôi lên phòng, sửa soạn sách vở và thay quần áo.

Con Quỳ chăm chú nhìn tôi. Đến khi tôi quay lại thì nó cúi xuống nói:

- Hôm qua chị nghỉ học, ông Hiển có giờ bên tôi cũng nghỉ luôn.

Tôi hơi chột dạ. Nhưng vẻ thản nhiên lặng lờ của Quỳ làm tôi yên lòng. Tôi lấy lọ nước hoa bơm vào mặt rồi xoa xoa hai bàn tay.

- Bên chị cũng học ông Hiển đấy hả? Tôi hỏi.

- Vâng. Ông ấy “tốc” thế nào ấy. Lúc vui, giảng hay lắm, còn không thì buồn ngủ chịu không nổi. Quỳ vừa nói vừa cúi là quần áo.

Trong phòng tôi, có lẽ Quỳ là đứa đàng hoàng đứng đắn nhất. Nó không để ý chuyện gì khác hơn ngoài chuyện học hành. Nghe đâu gia đình Quỳ nghèo lắm.

Trước khi vào đây, Quỳ đã đi làm thêm nuôi các em. Mộng ước của nó chỉ là làm sao sớm ra trường, làm cô giáo. Ngoài lý do có tiền, Quỳ còn coi đó là một vinh hạnh, một đích đến cao xa mà Quỳ luôn lo lắng không đạt được. Kể cũng tội nghiệp cho Quỳ. Tôi biết không phải riêng Quỳ ở trong trường hợp đó. Rất nhiều đứa khác nữa. Có điều chúng không dám bày tỏ hoặc không dám nhìn thẳng vào sự thực ẩn kín trong thâm tâm chúng mà thôi. Đời sống càng ngày càng giản lược tâm hồn chúng ta vào những ước mơ nhỏ mọn, thấp hèn, thay vì mơ ước phải được phóng tới.

Tôi ôm luôn sách vở xuống phòng ăn, ăn sáng.  

Con Liên đang ngồi với bạn nó ở ngay chiếc bàn ngoài cạnh cửa ra vào. Thấy tôi chúng nó đột nhiên im lặng. Riêng con Hải lườm tôi bằng ánh mắt sắc và đầy căm thù. Tôi cười, ngước mặt lên cao hơn, ý thách thức. 

Lúc ngồi vào bàn, Thúy bảo tôi: 

- Con Hải đó. Cái con vừa lườm mày đó mày biết chưa. 

Tôi gật đầu, nhún vai: 

- Tao thách chúng nó đấy. Cho tiền chúng nó cũng không dám làm gì tao. Đồ ngu. Sao chúng không tự biết rằng chúng đâu đáng mặt ganh đua với tao. Lũ chuột hôi hám mà cứ đòi đua với người thì lạ thật. 

- Mày kiêu ngạo quá. 

- Không. Tao nói thật đấy. Dưới mắt tao, chúng nó chưa đáng làm em tao cơ mà. Tao có thể nói thẳng với mày rằng, nếu cần, tao có thể “xúc” thằng Hiển một câu thôi, đời tụi nó sẽ khốn nạn liền. 

Mưu toan lợi dụng Hiển để đánh trượt con Hải con Liên lóe bùng trong óc tôi. Có thể lắm chứ. Phải sai bảo bọn đàn ông như thằng Hiển để cười vào mặt những thằng đểu cáng khác, cho chúng biết. Thật khôi hài khi bọn đàn ông mê muội vì gái. 

Sáng thứ bảy, buổi học chậm và chán ngán. Hầu hết học sinh đều nghĩ tới chương trình buổi trưa, sau bữa cơm. Nghĩ đến những người anh “họ” anh  “bà con”… Những nôn nả, những nóng bỏng của nụ hôn, của cánh tay, của những lời hứa hẹn ngọt ngào những tương lai huyền hoặc. Nhưng đời sống nếu không có những hão huyền những lường bịp ấy, nó sẽ không còn là đời sống nữa. Chính tôi gần đây, cũng ao ước được những thứ giả dối ấy, mà không được. Do đó, cứ đến Thứ Bảy, Chủ Nhật là tôi buồn. Buồn vì chúng đi cả trường vắng hoe, chỉ còn mấy đứa con gái thuộc loại già cóc đế hoặc đã có gia đình. Nhìn những khuôn mặt trì trệ, bì bì đó, dù có yêu đời mấy cũng đâm chán nản. Mà quái ác thay là ngày thường tôi thèm ngủ bao nhiêu thì Thứ Bảy, Chủ Nhật lại ít ngủ bấy nhiêu. Đã bao buổi trưa tôi trằn trọc khổ sở không ngủ được vì cái không khí rạc rời uể oải của những buổi trưa ngày nghỉ tan tác. Những chiếc giường trắng muốt, những bộ quần áo vắt bừa bãi, tất cả chỉ đồng thanh nhắc nhở người còn lại sự vắng mặt của những chủ nhân. Những kẻ vừa thoát khỏi cảnh giam hãm vây bọc của ngôi trường và họ đang hỉ hả, tíu tít bên người tình ở một góc phố, trong một rạp xi-nê, ngoài bãi biển hay ở những nơi nào kín đáo khác. 

Từ ngày Thúy có Phụng, đời sống tôi cũng vì thế mất đi một phần nào an ủi. Vào những ngày nghỉ, nó không còn quanh quần bên tôi. Nó đã có tình yêu nó phải chăm chút tình yêu của nó chứ. Tôi đâu lấy quyền hạn gì để cấm cản việc nó dành thời giờ cho hạnh phúc riêng. Tôi cũng không thể nhân danh cái gì để ghen tỵ với nó. 

Trái lại tôi mong nó lấy được Phụng. Nếu Phụng chịu lấy nó là Phụng làm một công việc có tính cách thiêng liêng cao cả như hành động cứu rỗi mà Chúa ban cho một con chiên đau khổ. Thì có gì khác nhau đâu. Cứu rỗi là gì nếu không phải  là nâng dắt một tâm hồn một con người một kiếp sống đã gần kề tuyệt vọng. Hơn nữa, Chúa có hay không, vấn đề còn được xét lại. 

Tôi có thể nói rằng tôi hiểu Thúy hơn chính nó. Người phụ nữ, đến một tuổi nào đó, sẽ không còn một thiết tha nào khác hơn thiết tha lấy chồng và có con. Lấy chồng, hai tiếng ấy là hai tiếng kêu thương não nùng nhất của số kiếp đàn bà chúng tôi, một khi tuổi quá cao. Ở đây không phải chỉ riêng Thúy bị ám ảnh hãi hùng đó. Nói đúng ra có đến ba phần tư đàn bà con gái Việt Nam bị dày vò, khốn đốn vì chuyện lấy chồng. Lý do ư? Giản dị lắm mà. Thực tế trước mắt đã cho chúng ta thấy chúng ta bị mất đi quá nhiều đàn ông. Trai thiếu gái thừa là một trong những thảm trạng bi đát xã hội bị chiến tranh. Cũng vì chiến tranh mà người phụ nữ bị đẩy dồn xuống mức tận cùng của bậc thang giá trị. Họ bị giản lược vào vị trí của một đồ vật, một thứ phương tiện giải trí. Và đau đớn hơn nữa là mặc dù biết mình bị nhìn ngó trong tư thế của một đồ vật, nhưng họ vẫn cam đành chịu nhận sự thật bỉ ổi, phi lý. Đã đành là cũng có một số phụ nữ, hiếm hoi lắm, vượt cảnh trạng, và hiến dâng đời mình cho lý tưởng này nọ. Trong trường hợp đó, tôi nghĩ, họ không còn là đàn bà nữa. Họ đã từ chối từ căn bản thân kiếp đàn bà của họ. Tôi chỉ đề cập tới cái đại đa số, là đàn bà, ngay khi họ được sinh ra và lớn lên trong cái mệnh số đàn bà của mình.

Hôm kia, tôi bảo Thúy: “Mày cần lấy chồng. Đứa con gái nào cũng phải cần điều đó. Nhưng chính vì thế mà phải rán coi chừng. Nếu vì nôn nả có chồng mà mày buông thả thì sự buông thả đó sẽ không đem đến cho mày kết quả mong muốn đâu. Tao không dạy khôn mày, nhưng dẫu sao thì tao cũng là người ngoại cuộc, tao sáng suốt hơn. Mày phải nhận điều đó. Thúy hiểu ý tôi. Nó bảo mày cứ yên chí. Tao đâu có ngô ngọng để đến nỗi bị lợi dụng nữa. Tại tin Phụng đàng hoàng và có vẻ thực tình muốn xây dựng không lẽ đời tao lại lỡ thêm một lần nữa ?” 

Theo lời Thúy tâm sự thì hồi còn đi học ở Huế, Thúy có yêu một tên sĩ quan pháo binh. Tên này hứa hẹn với Thúy rằng thể nào cũng lấy, dù gặp trở ngại. Tin nơi lời hứa hẹn, lại thêm thấy tên kia tỏ vẻ sốt sắng, săn sóc, thực tình đắm đuối yêu thương. Thúy đã trao thân cho hắn. Sau khi đã hái được đời con gái của Thúy, tên kia mới lộ mặt thật sở khanh, khi nghe Thúy nói có thai và giục nó cưới,  không những tên đó không an ủi hoặc dàn xếp gì với Thúy, nó còn trắng trợn nói với Thúy rằng nó không tin cái thai kia là của nó. Và nó dựng đứng câu chuyện thấy Thúy đi với một người đàn ông khác xuống ngủ đò ở bến An Cựu. Thúy biết mình đã lỡ lầm với một tên sở khanh, nhưng Thúy cũng cố năn nỉ thêm vài lần nữa. Tên kia vẫn không một mảy may xúc động hồi tâm. Nó một mực từ chối, nửa tháng sau, nó xin đổi đi khỏi Huế. Những trót dại, những lỗi lầm đại loại như thế, ở xã hội nào và thời đại nào cũng xảy ra, nhưng chưa bao giờ thấy xẩy ra ở đây nhiều như bây giờ. Nói thế không có nghĩa là bi quan mà là thực trạng. Một thực trạng phũ phàng mà ít ai chịu nhìn nhận hoặc lên tiếng. Người con gái chỉ nghĩ tới giữ gìn khi họ còn là con gái. Sau đó, không còn gì đáng nói cả.

Nắng hắt vào hành lang. Tôi lơ đãng nhìn ra ngoài sân cát. Mấy con sẻ xòe cánh tắm cạn, dũi dũi mình xuống cát. Những chiếc cánh nhỏ đập tung từng đám bụi cát bị gió hất lên không trung. Cái êm ả ì ì của buổi sáng đã cao, dội vào lòng tôi một nỗi tiếc nhớ mù mờ, như những kỷ niệm nào đã xa đang lần bước tìm lối về.

Tôi chợt thấy nắng mềm đi và loãng tan trong đó, có cả nỗi buồn vu vơ của tôi. Một thứ vu vơ dịu nhẹ như thuở nào chớm dậy thì.

Tôi day mặt liếc nhìn con Thúy. Nó đang chăm chú nghe giảng, mắt dán vào tấm bảng đen trải rộng. Tuy thế, tôi dám chắc rằng tâm hồn nó không đậu lại ở đó. Nếu nó không lạc đến Phụng thì nó cũng dạt về đâu đó, một chốn nào, khác hơn cái khung cảnh cố hữu này. Tôi chua xót nghĩ tới ngày dời khỏi nơi đây, mỗi đứa một phương. Không biết là với thời gian, có giờ phút nào chúng tôi nghĩ đến nhau chăng.

Tôi bần thần cúi nhìn cuốn vở mở trước mặt. Vẫn chưa một hàng chữ, ngoài hai chữ N rất nhỏ, ghi ở lề vở, chẳng biết tôi viết từ lúc nào. Tôi lấy bút xóa vội vã hai chữ đó, ngượng thầm. Thay vào đấy, tôi viết hai câu thơ của Cao Bá Quát: “Nước sông Tương một dải nông sờ, cho kẻ đấy người đây mong nhớ”.

Nhẩm đọc, tôi thấy không được. Làm sao ấy. Kỳ quá. Tôi xé bỏ cả trang vò nát rồi nhét vào hộc bàn. Thúy  nhìn tôi, cười. Tôi viết cho nó mảnh giấy con. “Tao buồn quá, chiều nay, tao nhận đi chơi với chúng mày”. Viết xong, tôi búng lên bàn trên cho nó.

    Nắng bắt đầu gắt hơn. Gió lặng. Bên tai tôi chỉ còn tiếng sóng vỗ thì thào từ xa.




4

Trưa chín hực trên những hạt cát bỏng. Thúy hối hả giục tôi về phòng. Bữa cơm đã qua trong tẻ nhạt lạnh lùng của những ý nghĩ riêng chất đầy trong mỗi đứa.

Tôi lấy cái vội vàng gấp gáp của Thúy. Ít ra thì mình cũng có việc trong chiều nay. Nhìn hạnh phúc của người biết đâu chẳng là một thú vui.

Dùng trọn buổi chiều nay cho cuộc tình của Thúy và không nghĩ rằng mình sắp thủ vai nhắc tuồng trong màn kịch chưa đoán được đoạn kết. Tôi hỏi Thúy:

- Nói thiệt đi, có thêm tao, có trở ngại gì cho mày không? Nghĩ cho kỹ, không rồi tiếc.

- Bậy nào. Thúy nhăn mặt. Tụi tao mới. Đâu đã có gì. Tao muốn có mày để mày khách quan xét xem Phụng có yêu tao không?

- Cái quan trọng, theo tao không phải là Phụng có yêu mày hay không mà mày có chắc yêu nó không, đấy mới là vấn đề tiên quyết. Nếu mày thực bụng thì cứ việc tiến đến. Hạnh phúc của một người có ngay từ lúc trái tim người đó rung động.

- Mày lúc nào cũng ưa lý luận vặt. Thúy chê. Cái gì mày cũng nói được.

Tôi làm bộ giận hờn: 

- Thì mày cứ trả lời tao đi đã.

- Ơ... ơ thì tao cũng có cảm tình với hắn nên mới nhận lời đi chơi chứ.

- Đã đành là cảm tình, nhưng cảm tình thế nào mới được chứ.

- Mày. Rắc rối vừa chứ. Thúy phát vào vai tôi. Tao… tao không rõ đã yêu hắn chưa, nhưng xa thì nhớ, mà gần rồi lại càng nhớ hơn.

Tôi cười lớn: 

- Thế là yêu rồi đó bà. Say đòn rồi đấy nghe con. Coi chừng à.

- Ừ thì tao mê. Thôi tao van mày. Nhanh nhanh một chút không hắn đến giờ.

Thúy ngồi ngay đơ cho tôi đánh phấn và tô một lớp son mỏng. Phấn son vào trông nó cũng còn “độ” lắm. Chưa đến nỗi nào. Thúy hỏi tôi nên mặc áo màu gì. Tôi bảo, chỉ có hai màu, một là xanh hai là trắng. Mặc thế vừa có vẻ trẻ trung vừa ra dáng học sinh đàng hoàng đứng đắn. Nó chọn áo màu xanh nhạt.

Xuống tới sân thì đã thấy Phụng chờ sẵn. Thấy tôi, Phụng hơi ngạc nhiên nhưng có vẻ mừng rỡ:

- Có cả Nữ nữa? Hay quá.

Tôi nghĩ bụng có tôi thì ăn nhằm gì đâu. Không lẽ bạn lại muốn bắt cá cả hai tay.

Phụng hỏi tôi về Nhiệm. Tôi trả lời không có tin tức gì hết và đáng lẽ câu hỏi ấy phải để dành cho tôi, Phụng đùa:

    - Nữ mà không có tin của nó thì còn ai có được bây giờ. Nhiệm nó đi như chim. Nhưng con chim đó bắt đầu muốn dừng chân xếp cánh ở đây rồi. Tôi không nói gì, lặng lẽ theo Thúy, lên xe.

Con đường dẫn về thành phố chạy men bờ biển. Trong bộ thường phục, Phụng có vẻ hào hoa, lịch thiệp. Thúy luôn nhìn lên và mỉm cười âu yếm.

Nó uống giọng:

    - Anh cho bọn Thúy đi đâu bây giờ 

    - Tùy Thúy đó. À, Thúy hỏi thử xem Nữ muốn đi đâu?

    Phụng nhìn tôi, chờ đợi. Tôi lắc đầu:

    - Tùy ông bà.

    Thúy cười rích rích, cấu vai tôi, nói nhỏ:

    - Khỉ nào. Trong câu trách đó, tôi đọc được ý cám ơn và sung sướng của nó.

    Phụng giữ vẻ nghiêm trang:

    - Hay là mình đi uống nước đi. Bây giờ trời còn nắng quá. Có đi đâu cũng không tốt.

Thúy tán đồng. Tôi liên tưởng tới quán cà phê cây đa ở khu gia binh Pleiku ngày nào.

    Phụng đưa chúng vào một quán nước ở trung tâm thị trấn. Ngay bên hông rạp xi nê.

    Quán sâu hoắm và hơi tối. Khách hầu hết là những thanh niên mặc đồ lính. Họ nhìn chúng tôi chòng chọc. Mặt họ, lộ hẳn vẻ chán chường khinh bạc. Nhưng có lẽ đó chỉ là cái chán chường khinh bạc giả tạo, vay mượn. Họ còn trẻ lắm. Sợ còn nhỏ tuổi hơn tôi nữa. Chỉ chừng hai mươi hay dưới hơn. Tôi không cảm thấy bất mãn chút nào, khi chạm phải những ánh mắt sòng sọc đó. Tôi thấy thương họ nhiều hơn. Nếu tôi là con trai, chắc chắn tôi cũng sẽ như họ. Tôi phải gánh chịu cái dĩ vãng đau thương của thế hệ cha anh, trong khi, lý ra, trên nguyên tắc, chúng tôi không có một chút trách nhiệm nào về cái dĩ vãng mà mình không tạo nên đó.

    Nhạc bập bùng mấy điệu mấy bước, quanh cái gọi là tình lính và tình người em hậu phương. Không khí trong quán ngột ngạt nặng nề vì khói thuốc. Tôi cố gắng giữ vẻ bình thản để cuộc vui của Thúy không bị phiền lây. Phụng bảo tôi: Vẫn uống nước cam vàng nhưng ít hơn hôm ở Pleiku. Tôi nói, làm sao được. Khi chúng ta không sống trong khung cảnh cũ. Không gian và thời gian chính là cái dấu ngắt hay dấu chấm của tư tưởng, nếp sống mỗi chúng ta. Cho dù có ở chỗ cũ, giờ khắc này, chúng ta cũng không thể như xưa được nữa. Phụng cười cho rằng ý Phụng không muốn nói thế. Phụng thì nhắc tới sự thiếu vắng của một người mà thôi.

    Tôi ngụy biện:

    - Thì những lời tôi vừa nói với anh, cũng chỉ dẫn đến kết luận duy nhất, không thành lời đó mà thôi.

    - Anh có biết địa chỉ của anh Nhiệm không?

Thúy hỏi. Tôi nhìn Thúy dọ hỏi.

    - Không, nhưng Thúy cần gì? Phụng trả lời.

    - Thúy hỏi xem anh có biết thì liên lạc thử với anh ấy xem anh ấy có thường không.

    Tôi nhìn Thúy, cám ơn. Tôi bảo điều ấy không cần thiết. Hãy để Nhiệm yên với đời sống của chàng. Liên lạc làm gì khi người ta không cần đến liên lạc đó. Phụng ghé sát tai Thúy, nói gì tôi không nghe rõ. Thúy cười thật tươi gật gật đầu.

    Trời đang nắng gắt bỗng đột ngột đổ mưa lớn. Những hạt mưa rào rào đập xuống mặt đường. Chỉ một thoáng, nước chảy thành từng dòng lênh láng, đỏ đục. Mưa to nữa làm sao đi. Thành phố không có hệ thống ống cống mà. Tôi nói trong óc. Mấy chiếc xe nhà binh chạy ngang, tạt nước tung tóe. Tiếng bánh nghiến trên mặt đường sàn sạt, nghe như có một vật gì lăn lộn trên cát. Mấy chiếc xe khách trú bán hàng vặt, chạy vào hông rạp xi nê. Quán báo bên lề đường vội hạ cánh cửa tôn, mở hé bằng chiếc que chống ngăn. Tôi chỉ còn trông thấy hai cánh tay cô bán báo cầm cuốn tiểu thuyết mở rộng. Những ngón tay của cô ta đen và to như mấy cặp lạp xưởng nướng. Chiếc cà rá nhận mặt ngọc thạch to gần bằng mặt chiếc đồng hồ tay, đeo lệch nơi ngón tay út cô ta, như một thách đố, xỉ vả người nhìn nó. Mấy tốp vợ lính nhớn nhác băng qua đường. Họ có vẻ vướng víu, lúng túng và hình như cũng ra chiều hãnh diện trong những tấm áo dài ny lông màu đỏ ké hay xanh thắm.

    Một lát. Mưa nhỏ lại và đều hạt hơn. Những cọng lá me thi nhau nhỏ giọt mái quầy báo như những nốt nhạc thánh thót gõ sâu vào khu vườn dĩ vãng ấu thơ của tôi. Những ngày ở Hà Nội. Ngày đã quá xa, thật xa và ký ức tôi không ghi nhận được đầy đủ.

    Ngày ấy, tôi còn bé lắm. Khi người anh cả của tôi qua đời (bị máy bay Pháp bắn tại Thanh Hóa) mẹ tôi bàn với người anh thứ hai, đưa gia đình về Hà Nội. Lúc ấy tôi đang tản cư tại một vùng gần quê ngoại, vùng Đồng Lạc phía dưới tỉnh Hà Nam. Quyết định của mẹ tôi, một phần dựa vào chị dâu tôi. Ở nhà quen gọi là chị cả. 

    Chị cả có người anh là bác sĩ mở phòng mạch ở đường Gia Long gần lối đi lên hàng Trống. Ông này nhắn chị ra Hà Nội và bảo đã dành sẳn cho chị một việc làm tại phòng mạch của ông ta. Thế là chị tôi đi trước. 

    Sau khi thuê được gian phòng trong của một căn nhà ở phố Huế, chị tôi viết thư về hối thúc mẹ tôi đưa gia đình ra Hà Nội. 

    Ở phố Huế đâu được mấy tháng thì gia đình tôi lại dời nhà về đường Triệu Việt Vương vì căn phòng mới thuê được này rẻ và rộng hơn. 

    Ngôi nhà thứ hai mà chị tôi thuê, mặt trước ngó vào lòng phố Triệu Việt Vương, nhưng bên hông lại có cửa sau, mở vào con  ngõ ăn thông sang phố Huế. Đúng hơn là thông với chợ Hôm. Người ta gọi con ngõ này là Ngõ Tràng An. 

    Những ngày mưa ở ngôi nhà mới này tôi thường ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế da không biết ai gỡ từ chiếc xe GMC của nhà binh, gắn thêm chăn và đem bán cho nhà tôi. Trong chiếc ghế da đặc biệt đó, tôi thả tầm mắt tới dãy nhà ở bên kia con ngõ với những mái tôn thấp, nóc nhà chỉ cao bằng mấy cây đại (hoa sứ) già. Tôi nhìn mưa rơi trên những mái tôn đó hoài hoài không biết chán. Hay không thể không chán vì có chán cũng chẳng biết làm gì khác hơn để giết thì giờ thì cũng vậy. 

    Không biết dạo đó, tôi nghĩ gì khi nhìn mãi cảnh tượng buồn nản đó. 

    Nhưng nếu tôi không nhớ lầm thì đại khái hồi đó tôi hay mơ tưởng tới những miếng khế khô mằn mặn, chua chua. Nhất là thỉnh thoảng được nhai trúng một cái hột khế thì nó bùi tê cả lưỡi, không thể chê vào đâu được. Đôi khi tôi cũng thèm được ngậm những quả táo dầm nước đường vàng vàng ở sân trường Hàng Vôi vào những ngày mùa thu lạnh. Ờ, kể thì cũng ly kỳ. Hồi đó, trường Hàng Vôi lại nhận một số nữ sinh học chung với nam sinh, và tôi là một trong dăm đứa con gái lạc loài ấy. 

    - Nghĩ gì đó Nữ? 

    Tôi quay nhìn Thúy cười. Nghĩ gì? Không tôi chẳng nghĩ gì hết. Tôi đang hồi tưởng về một quãng đời thơ ấu mà tôi đã mất. 

    - Kỷ niệm đẹp nhất bao giờ cũng là kỷ niệm đã qua và mình biết chắc rằng không thể có lần thứ hai để hưởng lại. Câu ấy của ai? Tôi hỏi bâng quơ.  

    Phụng thả vội ngụm khói thuốc. Mùi thuốc hôi hôi, nhưng cũng thoảng một chút gì ngây ngất. Tôi liên tưởng tới Nhiệm. Giờ này chắn chàng cũng đang hút thuốc đây. Tôi buột miệng nói thành tiếng: 

    - Sàigòn mùa này đã mưa chưa nhỉ?  

Tôi biết vì sao Nữ lại hỏi câu vừa rồi. Phụng nheo nheo mắt, nhìn tôi. Biết hay không thì có ăn nhằm gì chuyện đó. Chúng ta sinh ra đâu phải để đi chung một đường. Mọi suy đoán điều đúng hay sai đều vô ích nếu không nhằm đúng đối tượng. Tôi bảo Phụng: 

    - Anh thông minh đấy chứ. Tôi mong có dịp vào chơi Sàigòn. (Tôi cười lơ đãng như không để ý tới người đối thoại). Nghe nói Sàigòn hoài mà không biết thì cũng quê thật.  

    Tôi nâng ly nước cam lên môi. Trời vẫn mưa hạt nhỏ và đều, thánh thót như những nốt nhạc gõ sâu vào khu vườn tuổi thơ tôi tan nát những ngày chạy loạn. 

    Tôi cho rằng một người Việt Nam chỉ đúng nghĩa là người Việt Nam nếu trong đời đã có hơn một lần chạy loạn. Tôi dám nói rằng chưa một người nào mở mắt chào đời trên quê hương này mà chưa một lần thấy máu lửa, sự thực thế đấy. Đã bao nhiêu thế hệ và sẽ còn bao nhiêu thế hệ kế tiếp nữa ? Phải chăng sự thản nhiên chịu đựng, gần đây cũng đã trở thành một trong những đặc tính cá biệt của người Việt Nam? 

    Tôi bảo Thúy: 

    - Mưa chỉ làm buồn thêm những người xa gia đình mà thôi, phải không Thúy?    

    Thúy ngơ ngác: 

    - Gì… À mưa, dai ghê. Mất hết cả ngày giờ.

    Phụng cười. nụ cười lẳng lơ, nhạt nhẽo. Nó không mang một ngụ ý nào ngoài sự đụng đậy của hai cánh môi thâm, hé mở một vệt trắng đục lờ. Tôi chợt thấy tôi xa lạ và hoàn toàn không hề ăn nhập gì với những người đang ngồi trước mặt tôi đây. Tôi cảm thấy rã rời thân thể. Cơn mệt mỏi như nước triều dâng lên cao, cao thêm nữa… Tôi không còn thiết gì nữa… Tôi cũng không thể nghĩ, không thể nhớ gì khác hơn chiếc giường sắt êm ái. Ờ, chiếc giường mấy tầng trong dãy nhà nội trú. Tôi muốn trở về đó. Trở về thật nhanh. Về tới cái thế giới trầm trầm hiu quạnh, tôi không còn cảm thấy hãi hùng nếu bây giờ ném trả tôi về đó. Tôi muốn trở về. Tôi muốn được sải tay, sải chân, cởi bỏ hết quần áo, nằm lăn lộn trên chiếc giường ấy. Ở cái thế giới cô đơn tự do cần thiết đó, tôi không phải đóng kịch với bất cứ ai, kể cả với tôi. Tôi sẽ mặc sức tưởng tượng, mặc sức vẫy vùng trong những hình ảnh do trí tưởng tôi phóng lớn. Tôi sẽ nằm ở đó một mình, trần truồng và gậm nhấm chính cái cô đơn của đời mình. Tôi sẽ ra ban công,  tôi sẽ xuống vườn hoa, tôi sẽ gặp những người con gái già cóc để không có ma nào nó thèm rớ tới. Và dù có yêu đời mấy chăng nữa, tôi cũng sẽ đâm ra bi quan chán nản ngay khi gặp họ. Tôi sẽ viết. Tôi sẽ ngủ. Đúng rồi tôi sẽ ngủ vùi cho thời gian cứ đi qua. Mặc sức mà đi qua, trên những dự tưởng không thành, trên những nhỏ nhen ty tiện, trên những tham vọng ngút trời của cái phận mang tên thú vật trong con người thịt xương nặng nhọc.

    Tôi nghiến răng để cái ngáp tan đi trong miệng, tôi mệt quá rồi. Tôi không chịu được nữa. Cho tôi về. Cho tôi về đi. Trả lại tôi cái thế giới mà tôi đã hãi hùng lẫn trốn ấy. Thà trở về ngục thất mà có đời sống riêng còn hơn được vẫy vùng trong khoảng không mà tan chìm trong đó. Tôi muốn hét lên thật to. Tôi muốn ngã xuống, ngã ngay xuống. Nếu những viên gạch hoa dưới chân tôi đây là chiếc chiếu, nếu những mảng khói kia chính là những đám mây chiều la đà trên ngọn núi Bà Hỏa. Tôi bủn rủn, tôi níu tay Thúy:

    - Nói với Phụng cho tao về trước. Tao mệt quá. Tao chỉ muốn ngủ thôi.

    Thúy kinh ngạc. Nó trố mắt nhìn. Có gì đâu. Đời sống chẳng thường đem lại cho chúng ta những phút chán chường, bất thần sao? Đã mấy ai trong tuổi trẻ không có những ước mơ suy tính của một người luống tuổi.

    Ai mà chẳng thế. Chiến tranh đã hun nóng chúng ta. Nó đã bắt chúng ta phải chín, phải rụng trước khi chúng ta kịp xanh. Nó cho chúng ta rất nhiều ưu tư về lẽ chết. Nhưng lại hầu như không có một chút thời giờ nào để trang điểm ngắm vuốt cuộc đời mình. Tôi cũng thế. Tôi đã già trước tuổi tôi quá nhiều. Tôi không có ý khoe khoang gì về cái đó. Có gì để mà khoe khoang. Nói chính là cái bi đát của tôi. Của một đứa con gái. Đứa con gái nào không mong mình trẻ đẹp mãi mãi. Tôi thường mơ ước được trở về cái tuổi chớm dậy thì mười ba mười bốn. Nhưng tôi đã mất nó. Mất nó từ khi tôi chưa kịp có ý thức gì về nó. Đời sống đã đẩy tôi về với những mơ ước cỏn con. Như mơ ước có một căn nhà nhỏ, có một vài đứa con. Có một chiếc ghế bành (nếu được là chiếc ghế da nệm dày, cậy từ chiếc GMC nhà binh thì càng tốt).

    Để những buổi trưa mất ngủ, những chiều không nắng, những ngày mưa, tôi sẽ thu mình thảnh thơi, không bận rộn, không suy nghĩ không mưu toan, ước muốn gì hết. Tôi chỉ muốn nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi trong tiếng thánh thót của những giọt mưa nhỏ và đều (phải thật đều mới được). Và tôi sẽ có những phút bùi ngùi, ngó nhìn lại tôi, ngày nào khi những giọt mưa thánh thót ấy, bắt đầu gõ nhẹ, bắt đầu mở hé cánh cửa dẫn vào khu vườn dĩ vãng ấu thơ. Tôi sẽ thấy lại chị dâu tôi nay đã già.

    Tôi sẽ thấy lại mẹ tôi, nay tóc người đã bạc, lưng đã còng, răng đã bắt đầu rụng nhiều. Tôi sẽ thấy, tôi sẽ thấy, cảnh tượng đời tôi, từ những ngày khuất sớm. Tôi cũng chẳng sung sướng gì khi ngắm nhìn lại cái mình đã mất. Nhưng tôi vẫn muốn nhìn tôi khao khát thèm muốn được nhìn lại, vì nó là một quãng đời duy nhất của tôi, êm đềm, thảnh thơi và yên lặng.

    Sự yên lặng đến gần kề cô đơn, nhưng lại là cái yên lặng êm đềm mà ngày nay tôi đang ra công tìm kiếm.

    Chiếc xe lăn bánh nặng nề. Tôi khép hờ hai mi mắt. Những cây trụ đèn thụt lui về phía sau, xếp thành hàng sau lưng tôi. Dĩ nhiên là tôi không thấy chúng. Chỉ có con đường trước mặt mở dài về phía biển động mạnh.

    Trời chuyển bụng mưa mau, những hạt mưa lớn quất vào kính xe độp độp.

    Tôi cảm thấy ớn lạnh như những giọt mưa đó bắn trúng vào thân thể tôi đang chảy tan thành dòng, dọc xuống chân tôi tê cứng. Thúy ngồi trong, nói gì đó với Phụng. Phụng quay ngang. Cúi xuống. Xe chao nghiêng và tôi mơ hồ cảm thấy mình lêu bêu trên mặt biển cồn sóng. Trời tụt hẫng xuống thấp. Bóng tối xăm xắm lướt ngang mặt tôi, thành một băng đen phủ quanh thân thể.

    Có tiếng Thúy ú ớ kêu như bị ngộp nước…



5

Thúy hớt hải kéo tôi ra ngoài hiên, không biết chuyện gì xảy ra, nhưng nhìn vẻ mặt và dáng điệu hấp tấp của nó, tôi đoán chắc có chuyện chẳng lành. Tôi theo nó tới cuối hành lang.

    Cổng trường với hai cánh cửa sắt nặng nề khép kín. Chiếc xích sắt khổng lồ thõng xuống theo sức kéo nặng của chiếc khóa to gần bằng bàn tay. Cái im và nặng của nó, đè nghẹn tâm hồn chúng tôi, những ngày đầu tuần, váng vất những cảnh tượng, những dư âm của mấy ngày nghỉ học. Tôi dựa lưng vào thành xi măng, day mặt vào lòng hành lang hẹp. Buổi chiều ngã vào khoảng hẹp hun hút ấy.

    Gió chạy suốt dọc hành lang, như đuổi theo một hình bóng nào vừa hút nhanh qua đó. Thúy đứng trong góc vuông hành lang, quay lưng ra sân. Một tay đặt lên vai tôi, một tay nó ra hiệu bảo tôi bình tĩnh. Nó rào đón:

    - Chuyện tao sẽ nói đây, là tao nghe lóm được. Đúng hay sai, tao không biết, cần nhất, mày không được làm ồn. Vừa mang tiếng cho mày, vừa phiền phức lây đến tao.

    - Thì mày cứ nói đi. Tao đã làm gì đâu.

Chuyện gì?

    Tôi run giọng, hoang mang. Ký ức tôi mở lớn. Tất cả những chuyện gì đã xảy ra, khiến tôi lo sợ, e ngại, đều cùng lúc trở về. Toàn là những chuyện xảy ra đã lâu, không ở ngôi trường này, cũng như không hề liên quan tới một kẻ nào ở đây. Mà tôi có giấu gì đâu. Tất cả, tôi đã kể, tôi đã giãi bày, tôi có giấu giếm gì đâu. Kỳ thật.

    Thúy ghé sát tai tôi. Hơi thở của nó không làm tôi nhột nhạt như mọi lần, mà nó gây ra cho tôi cái cảm giác gai lạnh, ớn ớn..

    - Tụi con Liên nó bảo… mày… mày có chuyện với lão Hiển… mày… ôm cha… Hiển trưa hôm Thứ Sáu ở nhà xe. 

    - Hở, mày nói sao? Tôi cơ hồ muốn xỉu. Trời tối xầm, mắt tôi mở lớn kinh ngạc. Óc tôi muốn vỡ tung từng mãnh nhỏ. Thềm nhà dưới chân tôi như thụt sâu xuống. Tôi nghe rõ tiếng tim tôi đập dồn dập, tiếng máu chảy và những sợ gân máu giật giật ở hai bên thái dương. Mồ hôi tôi vã ra. Tôi cảm thấy rõ ràng là hai tay tôi đang run, mắt tôi muốn bật khỏi tròng… 

    - Chúng bảo mày nói chuyện mùi với lão Hiển. Thúy nói nhỏ, từng tiếng. 

    - Bọn con Liên phải không? Không đợi Thúy trả lời, tôi nói tiếp: Tao sẽ trả thù này. 

    Răng tôi nghiến lại. Lúc ấy, chắc mặt tôi ghê gớm dễ sợ lắm. Thúy bấm những ngón tay móng nhọn xuống vai tôi. Nó lay tôi: 

    - Mày phải bình tĩnh mới được. Chưa chi mày đã nổi sùng như vậy, để làm gì? Vô ích. Dư luận là tấm lưới lớn luôn được ném đi để chụp. Chúng ta là những con cá trong một vũng nước tù. Mọi vùng vẫy đều vô ích, nếu chúng ta đã lọt vào trong đó. Chỉ có sự khôn ngoan, trầm tĩnh mới giúp ta thoát khỏi mà thôi. 

    - Không dư luận khỉ khô gì hết. Tôi nói gần như hét. Tao căm thù chúng nó. Chúng nó bôi nhọ tao, chúng nó hạ nhục tao, tao sẽ trả thù tất cả bọn khốn nạn đó. 

    Mặt Thúy tái nhợt. Nó lo lắng nhìn quanh. Miệng tôi nói vậy,nhưng sự thực, trong thâm tâm tôi vẫn chưa biết rõ rằng tôi phải trả thù ai trước nhất. Và trả thù bằng cách nào. Bằng cách nào bây giờ. Tôi chưa biết, tôi chưa nghĩ ra, nhưng nhất định là tôi phải trả thù. Tôi phải rửa nhục này. Nếu không, tôi không đủ can đảm nhìn mặt mũi ai nữa. 

    Ý nghĩ phải trả thù làm tinh thần tôi đột nhiên bình tĩnh hẳn lại. Môi tôi mím chặt, tay tôi bóp cứng bàn tay Thúy. Những ngón tay vô tội của nó móp bẹp trong tay tôi nóng giận.

    Thúy im lặng, e dè. Nó không dám rút tay về. Một lát sau, tôi bảo nó leo ngồi trên thành lan can, quay mặt về phía biển. Tôi lần lượt kể nó nghe đầu đuôi câu chuyện đã xẩy ra, không giấu giếm một chi tiết nào. 

    Nghe xong, Thúy buông thõng một câu\ :  

    - Đồ chó má\ ! 

    - Ừ, khốn nạn thế đó. Tao mà làm lớn chuyện ra có thể nó bị đổi đi hoặc bị sa thải chưa biết chừng. Nhưng tao nghĩ có làm ra thì tao cũng chẳng đẹp mặt gì. 

    - Như mày nói thì không ai biết hết. Kể cả tao. Chính tao gặp mày hớt hải chạy về mà tao cũng đâu có ngờ. Vậy làm sao chúng nó biết được\ ? 

    - Chính tao cũng thắc mắc vậy đó. Tôi ngập ngừng. Hay là lúc tao chạy về có đứa nhìn thấy. 

    Liên lắc đầu\ :  

    - Tao không nghĩ thế. Bởi nếu có, chúng nó phải ầm lên ngay từ chiều đó rồi chứ. Theo tao thì có hai trường hợp. Một là chúng nó thử mày bằng cách thả tin đồn đó. Hai là vì thằng cha Hiển bị ức vì không ôm được mày, không được mày yêu lại dù hắn tỏ tình và năn nỉ, nên hắn loan tin đó để bôi nhọ mày. 

    Tôi thấy Thúy có vẻ có lý. Phản ứng cuối cùng của một con thú bị dồn tới mép vực là nhảy đại xuống hoặc quay lại vồ chính kẻ đã dồn nó đến đường cùng. Có thể Hiển ở một trong hai trường hợp đó. 

    Nhưng hắn khôn mà không ngoan, bởi nếu chuyện bị xé to\ : ban giám đốc trường  chắc chắn sẽ không làm ngơ, họ sẽ điều tra hoặc kêu tôi hay hắn lên hỏi thực hư. Ở trường hợp này, buộc lòng tôi sẽ khai tất cả sự việc. Và tôi tin chắc rằng tôi không có lỗi lầm nào, khiến ban giám đốc có thể vịn vào đó mà đuổi tôi. Nếu thế chỉ có tên Hiển thiệt hại mà thôi. Dẫu sao thì tôi cũng vẫn thầm mong tên Hiển không làm như vậy, có lẽ lúc tôi đứng ở nhà xe, tình cờ có đứa nào nhìn thấy mà tôi không biết. Rồi khi xẩy ra vụ tên Hiển nghĩ chắc chúng phỏng đoán và thêu dệt như vậy. Tôi tin như vậy. Bởi nếu kẻ nào đó nhìn rõ tận mắt vụ Hiển ôm tôi thì câu chuyện đã ầm lên từ lâu rôi. 

    - Số mày khốn nạn quá. Thúy nhìn tôi ái ngại. 

    - Tao cũng không ngờ thằng chó má đó lại làm vậy. Nếu Nhiệm nghe được chuyện này, chắc chàng khinh tao lắm. Còn gia đình tao nữa chứ. Nếu gia đình tao hay được tin này, không biết tao sẽ phải giải thích sao! Liệu có ai chịu tin tao không. 

    Cả một tương lại đen tối nhơ nhuốc phủ trùm xuống tâm hồn tôi. Nỗi âu lo làm tôi thẫn thờ trùng nhão cả thân thể, cảm giác. 

    Đêm trên biển sẫm đen. Trời tím với những cụm mây trắng loang lổ, bồng bềnh vài vì sao lác đác đứng buồn câm lặng như không muốn di động. 

    Tôi không trông thấy sóng biển, nhưng tiếng vỗ rào rào dội đến chúng tôi, như muốn át đi những băn khoăn, ray rứt, những nhục nhã, khốn khổ bừng bừng trong từng mạch máu tôi, căng lên từng tấc thịt da sượng sần. 

    Đêm vẫn nhịp nhàng trên từng bước chân gió chạy. Nỗi buồn tôi trải rộng nghiêng theo con dốc phẳng của kỷ niệm mù mờ thấp thoáng.  

    Chúng tôi cùng chìm trong cái ầm ì đục ẩm của đêm ven biển. Không biết Thúy nghĩ gì. Trong bóng tối, tôi thấy mắt nó lung linh sáng như hai con sâu đất. Trong trường hợp này, chắc Thúy khó lên tiếng hoặc giúp thêm ý kiến cho tôi. Bởi tôi một mực đòi trả thù chúng nó không lẽ Thúy nghĩ cách trả thù  giùm  cho tôi. Và thực sự, trong tôi cũng không biết rằng rồi mình sẽ phải trả thù bằng cách nào. 

    Sáng nay Hiển bắt đầu đi dạy lại. Hắn chỉ nhìn tôi một lần lúc vào lớp, rồi lặng lẽ giảng bài, như không có chuyện gì đã xảy ra giữa tôi và hắn. Chỉ riêng tôi mới nhận được cái khang khác trong từng cử chỉ chậm chạp uể oải, trong cái giọng nói tẻ nhạt đều đều của hắn. Nó hết hung hăng, tự kiêu tự đại rồi, tôi thầm nghĩ thế. Và cũng lần đầu tiên giờ của Hiển, tôi đã ghi đầy đủ lời hắn giảng. Bài giảng sáng nay, của hắn có nhan là tâm lý cá nhân trong tập thể hay sự hòa hợp thích ứng của một người trong đám đông có tổ chức. 

    Trong số những lời tôi ghi được. Có câu sau đây, khiến tôi chưng hửng, ngạc nhiên và có cảm tưởng như hắn nói để ám chỉ tôi. Hắn bảo: 

    Người bệnh hoạn hay mắc một chứng bệnh khác thường nào đó, thường có những hành vi hay thái độ chống đối, đi ngược, tách rời đám đông. Nói là bệnh hoạn thì không đúng hẳn. Nhưng theo sự suy nghiệm có kiểm chứng của các nhà tâm lý học thì những đứa trẻ này, có một dĩ vãng đau thương, ưu uất. Nó bị bất mãn ngay từ khi nó chưa có ý thức về sự bất mãn đó. Những đứa trẻ này, nếu chúng ta không chú tâm hướng dẫn, khi lớn lên, nó sẽ có những hành động phá hoại. Những mâu thuẫn cực kỳ nguy hiểm cho chính nó và người chung quanh. Nó từ chối tất, nó nghi ngờ cả mọi ưu ái thiện chí của người thương mến hoặc muốn giúp đỡ nó. Và quan trọng hơn nó có thể gieo tai họa cho người đã muốn đến với nó. Xã hội nhưng nhiều nhất là cha mẹ phải chịu trách nhiệm trong trường hợp này. Tôi muốn nói sự lủng tủng trong gia đình, sự thiếu hạnh phúc. 

    Rõ ràng là đoạn sau Hiển muốn ám chỉ tôi. Không lý do gì trong một bài nói về tâm lý trẻ em mà lại có đoạn nói về người lớn với phân tích tỷ mỷ như vậy… Lúc hắn giảng, hắn không hề nhìn tôi. Nhưng tôi nhìn hắn và muốn bảo hắn rằng: Tôi không hèn đến thế đâu. Gieo tai họa? Tôi gieo tai họa cho ông làm gì, được cái gì không mới được chứ, hay chỉ mang tiếng thêm mà thôi. Hãy trách nhiệm liên đới và xa hơn. 

    Buổi trưa tan học, vì có việc phải đi ngang văn phòng giáo sư, tôi thấy con Liên và con Hải ở trong đó. Chúng quay lưng vào nên không nhìn biết có tôi đi ngang. Tôi nói lại cho Thúy nghe điều tôi chợt nhớ.  

    Thúy cười nhún vai: 

    - Mày không biết đó chứ, hồi này hai đứa có vẻ chịu gặp thằng cha ấy lắm. Tụi nó kháo nhau rằng chiều Thứ Bảy vừa rồi con Hải và con Liên đến nhà riêng của thằng Hiển. Chúng lấy cớ nghe tin thằng Hiển đau nên lại thăm. Con Hải mua cả một ký cam đem biếu thầy cơ mà, đâu phải chuyện chơi. Coi bộ giờ thằng Hiển hết chê rồi. Con Hải tươi lắm. Nó tuyên bố rằng phen này nó làm thầy thiên hạ chứ không phải ngang hàng với đứa nào hết. 

    Tôi bật cười khan: 

    - Nó muốn làm gì thì làm chứ. Có ai nói gì đâu. Mày cứ tin tao đi. Rồi thời gian sẽ làm nó trắng mắt ra cho coi. 

    Thúy nhìn tôi khó hiểu. Tôi cũng chẳng muốn nói thêm. Giải thích điều ấy không cần thiết, tất cả mọi vấn đề là hãy chờ đợi, bình tâm mà chờ đợi. Tuy nhiên tôi tin rằng sự phỏng đoán của tôi thế nào cũng đúng. Nghĩa là Hiển sẽ không lấy Hải. Nó chỉ vì ức tôi mà yêu Hải. Yêu để trả thù tôi, để chờ đợi tôi ghen tuông hậm hực. Thế thôi, nhất định là nó không lấy Hải. Nhưng cái đau đớn mà tôi vẫn luôn cảm thấy không phải ở chổ đó, mà ở chổ mình có thể phỏng đoán về người khác trong khi về mình thì lại hoàn toàn mù tịt. Mấy ai đã biết trước được đời mình.

Thúy coi đồng hồ.

    - Lên gác chi vội. Bài vở đâu có trả. Tôi bảo Thúy và ngửa mặt nhìn trời. Biển vẫn ì ầm sóng vỗ. Mấy vì sao thưa nhấp nháy như chỉ chợt rơi xuống, bay đi khỏi nền mây. Tôi liên tưởng tới truyện ngắn “Những Vì Sao” của Daudet, trong đó có anh chàng chăn cừu và cô chủ nhỏ. Tình yêu của họ cũng nhỏ bé, cũng xa vời, và cũng tinh khiết như vì sao mà chúng ta chỉ đến bằng tâm hồn và trí tưởng tượng.

    - Phụng hẹn tối nay lại thăm tao. Thúy nói giọng sũng ước cảm xúc. Tôi kinh ngạc tưởng mình nghe lầm. Thúy bào chữa.

    - Tao đã bảo ngày thường lại đây không tiện. Nhưng hắn cứ nằng nặc đòi gặp. Hắn bảo chỉ cho hắn trông thấy mặt một phút thôi, không nói tiếng nào cũng được. Hắn sẽ về ngay. Tao thấy cũng… tội nghiệp. Người ta tha thiết chân thành với mình quá như thế, làm mình từ chối không đành lòng.

    - Mày không sợ tụi ở đây nó báo cáo sao?

    - Sao không. Thúy nói, giọng khổ sở. Tao cũng lo lắm, nhưng ở cái thế không khác hơn nữa. Phụng yêu tao, mà tao cũng yêu Phụng nữa. Phụng bảo chừng nào tao ra trường hai đứa sẽ lấy nhau. Tao sẽ xin về Pleiku. Mà tao chắc được mày ạ. Người ta bảo, nếu mình là công chức mà có chồng là quân nhân thì chồng đóng ở đâu, mình được ưu tiên xin đổi về đó. Chúng tao sẽ thuê một cái nhà nhỏ ở ngoài phố. Phụng sẽ không phải ở trong trại nữa, ở trại cực lắm, mày biết không.

    Tôi nghĩ bụng, con này thật trống mồm trống miệng. Chưa chi đã khai vanh vách. Tôi gật gù: 

    - Nó chưa đi à?

    - Chưa. Hắn được nghỉ phép bốn ngày. Đáng lẽ về SàiGòn thăm gia đình. Nhưng có tao ở đây, nên hắn không về nữa. Hắn đi máy bay đến thẳng đây luôn.

    - Tình lắm. Nặng nợ với mày rồi đó. Tôi cười nhìn tận mắt nó.

    Thúy mơ màng lim dim đôi mắt.

    - Tao không ngờ lại được một người như vậy. Tội lắm. Hắn bảo với tao rằng hắn đi lính hơn hai năm nay rồi. Vừa ở Thủ Đức ra là bị đẩy lên trên đó ngay. Ở ngoài hắn làm giáo sư, lương tháng hơn mười ngàn mà còn tiêu không đủ, bây giờ vào quân đội, lương thiếu úy được bảy ngàn hay hơn chút ít, lại xa gia đình nữa, tao hỏi mày làm sao sống đủ.

    - Gia đình nó còn đủ không?

    - À, còn bà cụ. Ông cụ chết từ hồi kháng chiến 45 cơ. Hắn có một người anh, hai chị và ba em trai. Riêng người anh cả thì cũng đã qua đời cách đây bốn năm. Cũng đi lính mà chết trận. Mất xác.

    - Nếu có vợ con rồi lãnh tiền tử cũng kha khá.

    - Chưa có vợ. Ờ, không, có vợ sắp cưới. Cô này là sinh viên. Hình như bây giờ đã lấy người khác.

    Tôi thở dài. Nghĩ tới thân kiếp mình, mai sau…

    Bỗng Thúy tụt nhanh xuống thềm.

    - Chết tao rồi. Nói chuyện quên mất. Đến giờ hẹn rồi. Tôi nắm lấy vai Thúy, nhảy xuống theo. Tôi cố tình ghẹo nó.

    - Khoan đã, cho tao hỏi chuyện này, quan trọng lắm!

    Thúy vùng vằn định chạy :

    - Để lát nữa đi. Tới giờ rồi.

    - Đâu được, chuyện quan trọng mà.

    Thúy luống cuống, lo lắng ra mặt. Nó nắm lấy bàn tay tôi rung từng chập:

    - Thôi tao xin mày. Cho tao đi, để lát nữa.

    Tôi làm bộ giận.

    - Có mới nói cũ há. Tao biết bây giờ mày có người yêu rồi, mày đâu còn nghĩ gì đến tao nữa.

    Thúy có vẻ vừa sốt ruột, vừa ái ngại cho tôi. Nó đưa tay vuốt vuốt những sợi tóc mai vương bên má tôi. Nó dịu giọng:

    - Mày đừng hiểu lầm cho tao như vậy, Nữ. Tao đâu có bao giờ quên mày. Mày nhớ kỹ lại coi. Tại tao lỡ nhận lời hẹn với hắn. Nên tao phải ra. Nếu tao ra trễ quá, hắn cứ lảng vảng trước cổng trường, người ta sinh nghi, lại hỏi hắn, hắn khai là đứng chờ tao thì nguy cho tao biết mấy. Tao sẽ bị đuổi liền. Và cũng vì thế, biết đâu, cuộc đời tao chẳng dở dang, khốn đốn. Mày hiểu cho tao, nghe Nữ.

    Tôi làm bộ vừa lòng, cười và buông vai nó ra.

    - Ừ thì mày đi. Nhưng lát nữa phải kể cho tao nghe tất cả mọi chuyện của bọn mày nghe. Mày phải hứa với tao mới được. Mà phải kể đầy đủ chi tiết đó nghe.

    Thúy đắn đo một lát. Mặt nó thẫn thờ, cuối cùng nó đành gật đầu. Nó dặn dò:

    - Nhưng mày cũng thề với tao là không được nói ai nghe đó nghe. 

    - Tao hứa. 

    Tôi tần ngần nhìn theo dáng gầy gầy của nó, in nghiêng trên bức tường dài. Nó đi nhanh như chạy trốn, nhưng tôi không hề nghe thấy bước chân nó. 

    Thúy men theo bờ tường. Chỉ một thoáng, nó đã mất hút trong dãy hành lang hẹp đầy bóng tối… 

    Bất giác, tôi thấy lòng mình rộn rã một niềm vui khấp khởi. Tôi quên khuấy chuyện ô uế mà bọn con Liên con Hải đã tung ra, để ám hại tội. Trong tôi chỉ còn hình ảnh Thúy, nhanh nhẹn, lén lút, âm thầm như một con chồn, một con cáo, hay một con mèo, trong đêm đen, đi tìm hạnh phúc mất. Và tôi lại thấy xót xa, tủi tủi. 

    Phải chăng đời sống mà chúng ta đang sống không hề có thực. Chúng chỉ có nó, trong lén lút, trong âm thầm và ngay với hạnh phúc, chúng ta cũng đã lén lút, âm thầm từ những bước đầu dò dẫm như một tên ăn trộm. Đời sống không có gì thực sự có đấy, như thân thế, như trái tim chúng ta, có đấy. 

    Sóng vẫn từng cơn vào bờ, nhẫn nại, miệt mài. Những tiếng ì ầm dội đến tai tôi như một nhắc nhở một đánh thức tàn nhẫn quật thẳng vào góc kín tâm hồn tôi, nơi mà tôi không bao giờ dám nhìn thẳng, ngó ngay suốt trong những năm tháng gần đây: “Nữ ơi, mày đang thèm khát đấy…”            




6

Trước khi bước xuống sân Thúy cẩn thận đảo mắt về phía nhà ngủ. Thúy thoáng thấy trên ban công mấy bóng đen. Bóng chúng hắt xuống đất thành những hình thù quái dị. Gió tạt ngang khu vườn hoa, làm những thân cúc ngả ngớn. Những tàn lá bách diệp, lăn tăn, lay động. Thúy có cảm tưởng như tất cả côn trùng cùng nín thở, hồi hộp lắng nghe tiếng chân rón rén của Thúy. Băng qua được chiếc sân này, men theo hành lang sang dãy phòng ăn, chỉ cần thế thôi, thoát được là yên trí, Thúy nhẩm tính trong óc. Nếu đi lững thững. Lỡ đứa nào trên ban công nhận ra mà réo lên thì thật là phiền. Chạy vù một cái còn nguy hiểm hơn nữa. Chúng sẽ sinh nghi ngay. 

    Ẩn mình bên hông chiếc cột xi măng lớn, Thúy phân vân, ngập ngừng. Ý nghĩ Phụng đang nôn nả chờ mình ngoài cổng, làm Thúy hấp tấp thêm. Phải làm sao bây giờ? Thúy cắn môi, mắt mở lớn, như muốn xé toạc bóng tối, thu nhỏ mình lại để bay vù ra cổng. Nếu đi đường hoàng, cao lắm chỉ mất mười bước. Bộ điên sao mà đi như vậy chứ. Thúy lại nhìn lên ban công. Mấy con nhãi vẫn còn đứng đó. Làm như chúng đã nhìn hay đoán được âm mưu của Thúy, nên không đứa nào vào. Chúng đứng lặng người như pho tượng. Những pho tượng chỉ nhằm chờ Thúy ló mặt ra là vồ lấy, hét lên… Thúy rùng mình, nghĩ tới lúc mưu toan bị bại lộ. Ừ biết đâu được. Thôi cũng đành phó thác cho rủi may. Thúy chắc lưỡi, một liều ba bảy cũng liều. Dẫu có sao thi mình cũng chẳng ân hận gì. Chán chi người dám chết cho tình yêu. Họ còn vậy được huống  hồ chi là mình. 

    Thúy thu hết can đảm, dời bóng tối. Dời khỏi cây cột xi măng, Thúy cố gắng lấy dáng điệu đi thật khoan thai của một người vô tư đi dạo mát. Ngực Thúy ưỡn ra đằng trước, hai tay khuỳnh khuỳnh. Để chúng khỏi nhận ra dáng mình. Thúy mỉm cười, nghĩ thầm. 

    Vừa dời khỏi bóng tối, bước xuống con đường sỏi, tiếng sỏi lạo xạo dưới chân Thúy lún sâu, tạo cho Thúy cái cảm giác run sợ nổi gai ốc. Thúy nhận thấy rõ ràng hai chân Thúy muốn dính gần nhau. Đầu gối Thúy cứng lại và như muốn khuỵu xuống. Hai cánh tay ve vẩy một cách khó khăn ngượng nghịu hơn Thúy tưởng. Chính nó dễ thường muốn toa rập nhau, tố cáo sự giả dối, kịch cỡm của Thúy, Thúy sợ cả cái nhìn thẳng. Mặt cúi thấp và Thúy nghe được tiếng tim mình đập gấp gáp.

    Ánh sáng nhờ nhờ khiến Thúy thấy rõ bóng mình chờn vờn, trên mặt sỏi trắng lạnh. Thúy mơ hồ cảm thấy trên ban công lúc này không phải chỉ có vài con nhãi mà thôi. Tất cả hình như đã đổ xô ra khỏi phòng, chăm chắm nhìn Thúy. Chúng chỉ trỏ, chúng bàn tán xầm xì, về mỗi động tác nhỏ của Thúy. Tiếng lạo xạo của sỏi, hòa với tiếng vỗ của biển sóng, dội từ xa lại, hợp thành một âm điệu lao xao nhộn nhạo, bùng nhùng trong tai Thúy. Những hạt mồ hôi nhỏ đã bắt đầu lấm tấm trên trán Thúy. Óc Thúy rối nhàu loạn tung, nhưng chân Thúy vẫn bước, những bước nghiêng ngả không đều, như người đã ngà ngà men rượu.

    Còn một thước… Còn nửa thước… Thúy cố thật bình tĩnh để đừng hấp tấp chạy ù vào hành lang đầy bóng tối của dãy phòng ăn đã đến tầm tay Thúy. Thúy mừng rỡ đến nhói thắt cả tim. Còn mừng hơn cả hôm gặp lại Phụng. Thúy giơ tay.

    Những ngón tay run run chạm vào thân cột lạnh. Thêm một bước nữa... Bóng tối ôm choàng phủ kín Thúy. Thúy đưa tay chặn ngực, dằn bớt xúc động.

    Sân sỏi vẫn vắng hoe. Côn trùng còn nín lặng như đợi chờ, lắng nghe tiếp những bước chân lén lút của Thúy, lại bắt đầu từ hành lang hẹp bên này, dẫn về phía cổng lớn.

    Gió từng cơn táp mấy luống cúc ở khu vườn, giờ đã nằm bên tay phải, Thúy nép mình vào cột xi măng, lắng ghe động tĩnh một lần nữa vẫn không có gì khả nghi. Thúy hài lòng. Cám ơn Trời Phật đã giúp con người vốn yếu đuối. Khi thoát một hoạn nạn, có thể coi như vậy, người ta thường có những hành vi hay ngôn ngữ bày tỏ một biết ơn, gửi tới đấng thiêng liêng vô hình nào đó. Phật, Chúa hay Trời, tất cả chỉ có nghĩa một cách rất tình cờ trong những giây phút ấy, đấng vô hình mới nên xuất hiện để đón những lời bày tỏ vô nghĩa hay có nghĩa như một sự chia vui ấy mà thôi. 

    Bây giờ, Thúy đã bình tĩnh hơn. Thúy đã lấy lại được lòng tự tin và những nôn nả náo nức lại thức dậy từ trái tim khao khát thương yêu, từ đôi môi khô nhăn, tưởng một đời cam đành số phận… 

    Thân thể Thúy, lúc này như được hâm nóng trong ngọn lửa tình vừa cháy rưc. 

    Không phải chỉ từ tai Thúy, mà từ ngón tay, từ đốt chân, từ những sợ lông măng trên má Thúy, cũng nghe được tiếng gọi kêu, lời hối thúc vô cùng quyến rũ, vô cùng huyền hoặc của tình yêu, của hơi thở nồng nàn, bay đi từ thân thể một người đàn ông còn ẩn dạng. Thúy rùng mình nghĩ tới lúc Phụng nắm gọn tay mình. Những ngón tay thô cứng của chàng sẽ di động chậm chạp, êm ả, ngập ngừng trên từng tấc thịt da Thúy. Nó đi dần, đi lần từ tay lên cổ. Từ gáy xuống cằm… và… Thúy nuốt nước bọt, mặc cho trí tưởng lao đi trên những dự phòng êm đềm, sung sướng. Cái mà đến nay, Thúy thắc mắc không hiểu, vì đâu, Thúy không đủ can đảm cưỡng lại những ngón tay thô cứng ấy, Thúy cảm thấy mình bất lực hoàn toàn, khi những ngón tay Phụng bắt đầu chạm vào da thịt Thúy. Và ngay cả giờ phút này, hình như nghĩ về những ngón tay thô cứng ấy đã bắt Thúy bước mau hơn. Thúy bước và bước… như con chuột cống run chân trong một rãnh bùn nước đen. 

    Những thanh xi măng quét vôi trắng, chặn ngang mặt Thúy, báo cho Thúy biết đã hết hành lang. Công việc mà Thúy phải làm giờ đây thật giản dị, dễ dàng. 

    Hoặc trèo qua lan can, hoặc chịu khó uốn mình, chui qua kẽ hở của hai thanh ngang ấy. Chỉ có thế thôi. Và từ đó, thêm dăm bước nữa, Thúy sẽ tới cổng sắt. 

    Tới biên giới hạnh phúc trông chờ. Nhưng từ đầu nhà tới cửa sắt, Thúy còn phải vượt qua trạm kiểm soát thứ hai cũng không kém phần nguy hiểm. Đó là mấy căn nhà lá của những người lao công trong trường. Những người này họ đều biết mặt Thúy. Hàng ngày, giờ chơi, Thúy thường chui vào mấy căn nhà lá ấy ăn chè đậu đen hoặc ăn bánh bông lan với bạn. Ấy mới phiền. 

    Nếu họ ngủ rồi thì không nói gì, chẳng may họ còn thức mở cửa, đèn điện từ đây sẽ hắt những vệt sáng dài ra gần tới cổng. Và Thúy sẽ phải bước ngang qua những vệt sáng ấy. Bước qua như vậy có khác chi bước qua hầm chông, bước qua lửa đỏ! Cái con Thúy thịt xương, lưng gù sẽ hiện lên, rõ như ban ngày. Những chiếc miệng eo éo vô duyên của mấy con mẹ bán hàng, hoặc của lũ nhóc, biết đâu cùng lúc chẳng leo lên… và Thúy sẽ trả lời sao, cho trôi chảy hợp lý về hành động tiến ra cổng sắt của mình. 

    Thúy tự trách giá đừng bao giờ bén mảng tới đó, mọi chuyện sẽ dễ dàng biết bao. 

    Thúy nhón gót, tỳ bụng vào lan can, một tay với lên thành tường làm điểm tựa nhoài người, ngoái nhìn về hướng tay trái. May quá, Thúy buột miệng kêu khẽ. Chỉ con căn chót. Căn bác Sáu, là còn đèn. Nhưng cửa cũng đã khép hờ. Ánh sáng lọt qua kẻ hở, chỉ vạch một đường sáng ngắn trên nền đất. Hơn nữa bác Sáu với mình lại bồ nữa. Có gì chắc cũng không sao, điều đình được. Ngoài chuyện quần áo Thúy thường đưa bác gái giặt, Thúy con nhờ bác ta thuê tiểu thuyết cho Thúy, lần nào Thúy cũng tặng thêm bác ta ít tiền lẻ. Đúng là trời có mắt. Trời giúp mình đây… Thúy mở cờ trong bụng. 

    Như một tên đạo chích lành nghề, Thúy uốn mình thấp xuống. Đầu đưa sang trước. Một tay và một chân tiếp theo. Cái trò khom lưng nhảy cừu, không ngờ cũng có lúc hữu ích đấy chứ. Thúy mĩm cười, nghiêng hẳn nửa người ra ngoài. 

    Tay Thúy nắm chặt then ngang, rút nốt chân còn lại. 

    Thúy thẳng người, vuốt vội thân áo bị nhăn rúm. Vén lại những lọn tóc xòa bên má, giắt vào hai vành tai, Thúy bắt đầu bước, điềm nhiên và bình tĩnh. 

    Qua nốt cửa ải này nữa là hết. Thúy nghĩ. Giá là con Nữ chắc nó luống cuống dám bị lộ tẩy rồi. Thúy nhìn lại dãy nhà ngủ. Tòa nhà hai từng sừng sững chạy dọc, như muốn đâm ngang hông ngọn núi ngang bên kia vụng biển. 

    Mình phải kể cho Phụng nghe giây phút ly kỳ hồi hộp này mới được. Để chàng thấy rõ hơn tình mình đối với chàng. Chắc Phụng cảm động lắm. Mình sẽ nói với Phụng rằng đoạn đường chiến binh hay chiến sĩ gì đó, mà anh đã trải qua đều không ăn nhằm gì, nếu so với đoạn đường mà Thúy phải vượt qua để ra chổ hẹn với anh; Nghe xong, chắc Phụng sẽ cười, chàng sẽ bảo, Em, chỉ được cái ít xuýt ra nhiều. Và sau đó, chàng sẽ cúi xuống… Chàng sẽ rờ rẫm mặt mình…  

    Thúy run run ghé mắt nhòm qua khe hở ở giữa cánh cửa sắt lớn. Con đường nhựa tối đen ướt nhèm. Hai dẫy nhà tôn lè tè trấn hai dọc đường vắng. Ánh sáng từng vụng hắt vào hiên. Một vài chiếc xe nhà binh pha đèn, xồng xộc chạy ngang. Chúng mất hút ngay ở khúc quanh chỗ bệnh xá Nguyễn Huệ. Không khí lặng lờ, thản nhiên, lơ đãng. Tuyệt nhiên, không có một bóng người. 

    Thúy úp lưng vào thân cửa sắt. Cái lạnh buốt thấm len qua lằn áo vải mỏng, chạy ngược lên óc Thúy giá băng. Sao trễ vậy kìa? Hay Phụng đã đợi mình, lâu quá không thấy nên đã bỏ về? Thúy hoang mang. Những háo hức, những nôn nả từ chập tối, trong một thoáng nhanh, chảy nhão và nát tan trong lòng Thúy. Thúy lo lắng nghĩ tới hậu quả của sự trễ hẹn. Rồi bao giờ mới gặp lại nhau. Biết chàng có tin cho mình là mình có ra mà không được gặp chàng chăng? Hay chàng lờ luôn và không bao giờ tìm đến mình nữa? Ờ có thể, có thể chàng đã thấy rõ rằng mình cần chàng hơn. Mình nhiều tuổi hơn chàng, mình xấu hơn những đứa con gái khác… Biết đâu chàng chẳng bực tức và đi tìm người khác. Thời buổi này, thiếu gì con gái. Thiếu gì những đứa con gái sẵn sàng ngã vào lòng chàng… Một cô giáo ế chồng như mình, nào có nghĩa gì! Mấy tiếng chót ngân rền trong óc Thúy, như một hồi chuông khua động cùng lúc những cảnh tình thua thiệt, những mặc cảm đau đớn âm thầm của một kiếp đàn bà kém nhan sắc, kém tiền bạc, thua danh vị… Những bi quan từ lâu vẫn bị Thúy dồn nén nay được dịp bộc phát, phụt vỡ. Cả một tương lai chín ửng tuyệt vọng, lần lượt được vẽ ra với đầy đủ chi tiết nặng nghiêng về khía cạnh bi thảm, hẩm hiu, bất lực… Nó nở tung, bật lớn. Nó như một cơn lốc bất thần, xoáy hút Thúy lên cao, thật cao rồi chớp mắt quật Thúy xuống vực sâu, tối tăm, nát vụn. Thúy muốn rên rỉ, muốn than vãn, muốn khóc, khóc thật to… Muốn quỳ xuống lạy van người tình đừng bỏ Thúy. Tôi sẽ cam đành phận tôi tớ cho chàng, tôi sẽ hiến dâng tất cả những gì đời tôi còn lại, chỉ xin người, đừng bỏ tôi, đừng bỏ tôi héo hon, đừng bỏ tôi ngụp chìm với nỗi cô đơn tuyệt vọng… Dẫu sao thì tôi cũng chỉ là một đứa con gái… Vâng một đứa con gái trong xã hội đạn bom, điêu tàn rã mục này. Một đứa con gái. Tôi biết tôi không chút giá trị nào… Tôi làm người làm nạn nhân của chính nỗi khốn khổ đời mình… 

    Thủy sửng sốt thấy nước mắt lăn ướt hai má. Phải chăng tôi đã cùng cực, đã vô vọng hóa đời mình? Sao mình lại có thể yếu đuối đến như vậy được? Có thực sự khao khát chồng con đã làm mình ươn hèn, đốn mạt vậy chăng. Không, tôi chưa hề nhìn rõ mặt tôi. Đời tôi chưa hề có. Hay nếu có thì cũng ở một cõi nào đó, khác hơn cảnh đời này. Khác hơn, phải, nhất định là khác hơn cảnh đời này. 

    Thúy mím môi, đưa tay gạt nước mắt. Cơn xúc động chợt dạt tan, lắng đi, rồi chìm nghỉm. Thúy cảm thấy toàn thân mệt mỏi, rã rời. Mi mắt Thúy cứng căng như muốn nứt hết kẽ. Thúy nhướng mắt một lần nữa. Con đường và hai dãy nhà tôn mái thấp. Bóng tối và tiếng động cơ vọng về buồn bã. Thúy thở ra. 

    Đêm đậm đặc và vẫn nín câm. Tay Thúy buông thỏng, Thúy mơ hồ nghe thấy những giọt sương rơi mềm trên đôi vai so. Những giọt sương âm thầm, lạnh lùng như những ước vọng của Thúy chưa kịp nhúm nhen đã vụt khuất lấp. 

    Gió thổi tới những sợi tóc Thúy nhăn và quăn. Mùi thơm quen quen của thứ nước hoa đã nhạt làm Thúy dịu lòng. Nhưng cũng còn gì chua chát đắng hơn khi phải ngửi chính mùi hương tỏa đầy từ người mình. Trên con đường cuối cùng mà chúng ta có thể trở về cái mà mình bắt gặp được ở đó, bao giờ cũng là chính nỗi cô đơn cố hữu của phận làm người. Đúng ra thì chúng ta không hề đi, nên cũng chẳng thể có nơi để đến. Chúng chạy đua cùng tuyệt vọng và ảo ảnh chờn vờn. 

    Thúy lạnh người, nghĩ tới một ngày nào đó, tóc sẽ bạc da sẽ mốc nhăn, những chiếc răng mà hôm nay Thúy vẫn tự hào đều hàng sẽ rụng rơi, đôi môi thâm xám và lúc ấy, mình sẽ đứng ở đâu, với đôi tay buông thõng này. Liệu có một người nào đó, nhớ tới mình như hôm nay, mình đang nghe ngóng, đang nhìn ngắm mình chăng. Anh hãy đến với em. Anh hãy đến nghe Phụng. Anh hãy đến và bảo em rằng: Gớm, có ít lại xuýt ra nhiều… Này, bàn tay em đây đôi mắt này vẫn mở và anh hãy cúi xuống. Cúi xuống nữa, thêm nữa đi anh… Như một buổi chiều mưa nào trong xe anh, anh đã cúi xuống… Và bàn tay em, em sẽ chặn ngang ngực, để trái tim bớt đập từng hồi. Để người em bớt run và lạnh… Mưa đập vào kính xe mà em tưởng chừng như chúng chảy thành dòng trên thân thể em mềm sũng. 

    Thúy hoảng hốt, giựt tay, quay phắt người lại. Tiếng cười nhỏ, hàm răng trắng và gương mặt vuông, sần, màu củi nỏ… Kìa em. Thúy bàng hoàng: Anh. Trời anh. Anh làm Thúy hết cả hồn. 

    - Ra đây với anh đi. 

    - Đâu được. Cửa khóa từ lâu rồi. 

    - Làm sao giờ? 

    - Thúy  còn biết làm sao. 

    - Ngoài cửa sắt, một bóng đen lực lưỡng, thò tay qua khe hở. Những ngón tay thô cứng với giữa khoảng không. Thúy nép mình sát vào thành cửa rụt rè, nắm lấy bàn tay ấy… kéo nhè nhẹ về phía ngực mình.

      - Em tưởng anh không tới.

      - Đâu có. Tại không có xe, anh phải đi bộ.

    - Trời, tội nghiệp. Em đâu nghĩ ra điều đó. Em nghĩ khác kìa…

       - Bộ em tưởng anh quên sao. Quên sao được.

Hẹn với em mà.

    - Ừ, không em sợ… sợ anh mắc bận. Em đã định quay vào rồi.

    - Thế thì anh còn phước lắm.

    - Em.

    - Gì anh.

    - Ra ngoài này đi.

    - Đâu được.

    - Thế này thì giống tù quá?

    - …

    - Em

    - Dạ.

    - Ghé mặt lại gần đây anh coi.

    - Ừ, ừ. Thèm vào…

    Giọng Thúy ngúng nguẩy. Hai bàn tay rời nhau. Trong cổng sắt, Thúy khom lưng gần như quỳ, hai bàn tay bấu vào then cửa.

    - Anh bật diêm nhé?

    - Ái. Đừng. Lộ mất. Mà anh bật diêm làm gì?

    - Để soi mặt em cho rõ. Anh thèm nhìn mặt em. Mỗi lần, phải một lần đêm nay anh mới ngủ yên được.

    - Không được đâu anh. Em cũng muốn nhìn mặt anh lắm chứ. Đâu phải không. Họ mà biết họ đuổi em liền anh. 

    Có tiếng những que diêm chạm  nhau. 

    - Đừng anh nhé. 

    - Anh làm gì thế. 

    - Đâu. 

    - Bao giờ anh đi lại. 

    - Hai bữa nữa em. Hết phép rồi. 

    - Bàn tay người con trai lại sờ soạng trên khuôn mặt Thúy lạnh ngắt. Những ngón tay chợt dừng khựng, trên cánh mũi thon thon. 

    - Mặt em lạnh quá. Da sần cả lại. 

    - … 

    - Kìa sao em không nói. 

    Những tiếng kêu khan, dồn dập: Kìa em… Kìa em… Sao em khóc. Sao vậy… Trời sao vậy… Nói đi, nói đi, em… 

    Những ngón tay thô cứng di nhẹ đến hai hốc mắt sâu tối của Thúy, ướt nhèo. Rồi bàn tay kia, luồn dưới lớp áo vải mỏng, sau lưng. Người con gái rùng mình, uốn cong người như con tôm nướng. 

    Biển lùi xa hơn. Gió cũng bớt dông. Cả hai người, không còn phân biệt được tiếng động nào, khác hơn hơi thở của nhau, sát gần. Mồ hôi lấm tấm trên trán người con trai. 

    Tôi choàng mắt tỉnh dậy vì giọng thảng thốt của con Khâm, nằm giường trên, nói về vụ con Thúy vắng mặt đêm qua. Tôi dụi mắt ngồi dậy. Nệm trên giường Thúy vẫn thẳng băng, không một nếp nhăn. Chiếc màn được xếp ngay ngắn trên đầu giường. Tất cả như vẫn nguyên như thế từ hôm qua. Tôi vươn vai, ngáp, và nghĩ tới việc chống chế cho Thúy. 

    Tôi cau có, quơ vội chiếc khăn mặt và cái bàn chải răng lững thững bước ra.

Lúc ngang qua giường Thúy, tôi làm bộ nói to, cố ý để cả phòng nghe thấy: 

    - Con chết dẫm này, đi đâu mà đi sớm thế. Hôm qua chắc lại ăn uống gì bậy bạ. 

    Tôi chậm bước ở ban công. Chiếc cổng sắt vẫn nặng nề khép kín. Cái khóa to bản sù sì, rũ xuống giữa hai khoen mắt xích to bằng ngón chân cái. Ra bằng lối nào, đó là câu đầu tiên mà tôi định bụng sẽ hỏi Thúy lát nữa. 



7

    Nhiệm trở về từ lúc trời đã tối. Con đường hẹp và nhiều ổ gà. Những vụng nước đục lầm, tóe bẩn, dưới những chiếc bánh xe nhà binh lồng lộn. Đường lầy lội và khó đi vì không có đèn. Một bên là lạch nước, sâu hơn chút nữa, là mặt sau của nghĩa địa Đô Thành. Những nấm mộ cũng nghèo khó dúm dó như kiếp người thuở sinh tiền. Nghĩa là mỗi phần mộ không choán tới nửa thước bề ngang và cũng chưa được tới một thước bề dài. Nhiệm chỉ nhìn thấy những giấu thập tự trắng toát, loáng thoáng như những mẩu xương người vắt chéo. Chân Nhiệm rơi đều, như những giọt nước mưa còn đọng lại trên những tàn lá me dại chưa kịp rơi hết. Một niềm vui là lạ ứ lên cổ Nhiệm, làm Nhiệm không thể nén được nụ cười mãn nguyện. Nhiệm cười một mình với hình ảnh chợt thoáng qua trong óc. Phải nhìn nhận rằng mình đã thắng. Đúng thế. Không ai phủ nhận được điều ấy. Nó hiển nhiên, thật hiển nhiên, như lá thư với mấy hàng chữ nghiêng, trên tấm giấy học trò viết bằng bút chì của Nữ. Bất giác Nhiệm đưa tay lên ngực áo, chiếc phong bì dài, màu xanh nhạt như kêu khẽ, khi những ngón tay Nhiệm vừa chạm tới. Có thế chứ, có thế chứ, Nhiệm lẩm bẩm. Chậm lắm là tháng tới mình sẽ ra ngoài đó. Ừ, ngoài đó. Chắc Nữ mừng rỡ lắm. A, nhưng không biết Nữ còn nhớ mặt mình không? Liệu nàng có nhận là đã quen mình, đã… có cảm tình với mình không ? Hay nàng sẽ lạnh lùng từ chối “Dạ xin lỗi ông, tôi chưa được hân hạnh quen biết ông. Chắc ông lầm tôi với một người nào đó”. Ờ, nếu nàng đối xử với mình như vậy, chắc chỉ có nước độn thổ. Chỉ có nước ngậm bồ hòn mà quay đi. Và câu chuyện đâu chỉ giản dị có thế. Bạn bè của nàng, bạn bè của Nhiệm, chúng sẽ đồn ầm lên. Chúng đem Nhiệm ra khôi hài. Chúng sẽ mỉa mai, sẽ chỉ trỏ, mỗi khi gặp Nhiệm. Chừng ấy, chắc Nhiệm không dám nhìn mặt ai nữa. Nhục nhã ê chề quá rồi còn gì. Lúc đó thì đúng là thân bại danh liệt. Bản tính Nhiệm vẫn thường lo xa, ưa suy đoán vòng vo như vậy. Nhưng kinh nghiệm thực tế, đã cho Nhiệm thấy chàng ít hành động theo tư tưởng, theo óc xét đoán, phân tích. Nhiệm vẫn hành động theo cảm hứng bất định của tình cảm, cái mà bè bạn thường gọi là bốc đồng, là gàn; là đam mê. Danh từ mỗi người gán cho Nhiệm một khác. Nhiệm chẳng biết theo ai thì đúng. Nhưng chỉ có một điều mà Nhiệm biết rõ nhất về mình đó là cái chất bốc đồng, đôi khi đi đến chỗ lãng mạn thái quá. Tất nhiên là sự quá đà nào, cũng có cái hại riêng của nó. Nhưng Nhiệm có mấy khi để ý tới, cân nhắc tới cái lợi cái hại ấy đâu. Thích thì làm không thích thì thôi, rõ ràng, không mập mờ. Ngay cả trong lãnh vực tình cảm cũng vậy. Một là yêu hai là không. Chỉ có thế thôi. Đã nhiều lần Nhiệm bày tỏ quan điểm đó với bạn bè. Do đó, Nhiệm không có bạn gái. Chàng không bao giờ có bạn gái. Bởi mỗi khi gặp một người đàn bà, thái độ tình cảm của Nhiệm rõ rệt ngay tức khắc! Nếu yêu là Nhiệm yêu ngay. Ngay từ phút gặp mặt đầu tiên. Yêu thế thôi. Không cần biết người đó có yêu lại mình hay không. Và nếu không nghĩa là ngược lại, thì thái độ chàng cũng dứt khoát ngay từ buổi sơ ngộ đó. Đời sống chúng ta, tất cả, đều chỉ là bổn phận và trách nhiệm, ngay cả việc ăn uống, đích thực, nó cũng chỉ là một trong những bổn phận mà chúng ta phải làm, đối với cá nhân ta mà thôi. Chỉ có ở lãnh vực tình cảm ta mới đúng là quyền lợi mà chúng ta được hưởng. Vậy tại sao mình lại không dành lấy quyền lợi đó. Dành lấy nó, trong tay mình. Nắm giữ nó, bằng cái toàn quyền quyết định. Khi yêu một người, mặc dù là lúc mình nghĩ nhiều về người ấy. Nhưng đồng thời cũng là lúc mình yêu, thương và thiết tha với đời mình nhất. 

    Có lẽ cái quan điểm có vẻ hấp tấp, xốc nổi của Nhiệm đã làm một số người mà Nhiệm quen biết ngờ vực và không tin nơi tình cảm chân thực của chàng. Như trường hợp của Huyền cũng vậy, Nhiệm đã bộc lộ một tình yêu đam mê, điên dại. Đến đỗi Huyền phải ngạc nhiên, kêu lên. Trong những lá thư đầu tiên mà Huyền gửi chàng, Huyền đã nhắc không biết bao nhiêu lần câu: “Huyền sợ anh lầm đấy. Đó chưa phải là tình yêu đâu. Nó mới là tình cảm thôi. Là tình cảm đã cũng là quá nhanh rồi”. Và mãi hơn một năm sau, Huyền mới chịu nhìn nhận là Huyền lầm chứ không phải Nhiệm lầm. Huyền chợt hiểu và nhìn nhận điều đó, là lúc chính ở Huyền, một biến chuyển lớn lao, đã đến với Huyền: đó là tình yêu. Nó có từ bao giờ Huyền không biết. Nhưng nó tiềm ẩn, âm thầm trong tâm hồn Huyền. Cho tới một phút, nó vụt vỡ, nó mở tung. Và Huyền mới ngã ngửa người ra: à, nó là thế đấy. 

    Cũng như mới đây, ở Nữ. Nhiệm đoán chắc Nữ, không ít thì nhiều, cũng có phần nào không tin. Mà Nữ có không tin cũng phải. Đâu có ai như mình. Và có lẽ mình là mình, chỉ ở mỗi điểm đó, Nhiệm nghĩ. 

    Nhiệm giơ tay, phác một cử chỉ chào người lính gác ngoài cổng cư xá. Anh lính ngơ ngác, ngạc nhiên, không hiểu. Nhưng cũng giơ tay chào lại cười toe toét. Làm sao hắn hiểu được rằng những hân hoan, sung sướng đang reo vui, chảy ấm trong từng mạch máu trên thân thể Nhiệm. Ngày mai, chàng sẽ lên đường đi thăm người tình trong tin tưởng ở phương xa. 

    Lòng cư xá mở lớn với con đường chính rộng thênh thang và hai dãy nhà lầu cách đều khoảng, sừng sửng hai bên. 

    Nhiệm men theo bờ đất. Cỏ ướt bám dính dưới gót giấy rơi gấp. Nhiệm chợt nghĩ tới vẻ mặc không vui của mẹ chàng, mỗi khi thấy chàng về muộn, sau bữa ăn. 

    Chiếc cầu thang dẫn lên nhà Nhiệm gẫy ở đoạn giữa. Nhiệm bám một tay vào thành cầu thang lạnh. Tiếng giầy chàng dội lại chính tai chàng tẻ nhạt. Nghe như một nỗi nhớ xa xôi nào chưa hiện về đủ. 



8

Trời sập sùi muốn mưa từ sáng sớm. Không gian mốc đục. Khu vườn hoa, bên tay phải tôi còn ướt mèm sương đêm. Những thân cây những cọng lá uốn xuống. 

Tôi không ghi nhớ được một điều gì, từ lúc bắt đầu buổi học, cho đến bây giờ. Cứ lâu lâu tôi lại bị một ngày như vậy. Nguyên do thường tại cảnh tượng bị thay đổi đột ngột. Có lẽ là tâm hồn tôi, bị biến thiên theo cảnh vật. Những ngày trời đột nhiên mát dịu, mây mù giăng khắp, hay hơn nữa âm u, như hôm nay, thế nào tôi cũng cảm thấy lòng mình buồn buồn, nhớ tiếc bâng khuâng  một cái gì đó. Riêng hôm nay thỉnh thoảng tôi thấy nóng ruột, bồn chồn. Tôi linh cảm có một chuyện gì sắp xẩy đến với tôi. Một chuyện gì, chưa biết, nhưng tôi tin chắc thể nào cũng có. Bởi linh tính của tôi thường ít khi sai lắm! Lại thêm đêm qua, tôi nằm mơ một giấc mơ kỳ lạ. Tôi mơ thấy mình đi lạc vào một khu rừng lan. Mùi hương của những bông hoa lan trắng nuột, làm tôi say sưa, ngây ngất. Tôi quên khuấy cả những nguy hiểm có thể xẩy đến cho tôi, trong khu vườn hoang vắng ấy. Nhón chân bước, tôi lần theo tiếng suối róc rách âm vang, đi mãi, đi mãi vào giữa rừng. Càng đi vào sâu, càng tối, càng dầy đặc, đường càng khó đi hơn, nhưng mùi hương của hoa lại càng thơm và quyến rũ hơn nữa. Tôi không biết là tôi đi được bao nhiêu đoạn đường và mất bao nhiêu giờ. Nhưng cuối cùng, tôi cũng đến được nơi phát ra tiếng róc rách mơ hồ, mà tôi đã nghe được lẫn trong mùi hương lan thoang thoảng. Còn đang ngẩn ngơ trước dòng suối trong xanh nhìn thấy cả đáy nước, với những viên sỏi trắng, to bằng đầu ngón tay, thì chợt một người đàn bà, từ đâu, gánh đôi thùng đến múc nước. Gặp chị ta tôi mừng quá, men lại gần hỏi nước suối này có uống được không? Chị ta bảo không được. Vì trong nước có tan lẫn nhiều nhựa cây rất độc. Nếu không biết, uống vào có thể phát điên lên mà chết. Câu trả lời của người đàn bà làm tôi thất vọng, bán tín bán nghi, nhưng không dám liều, uống thử. Cổ họng tôi lúc đó chợt khô ran, nóng bỏng. Cơn khát bắt đầu nổi lên, hành hạ tôi. Mặc dù trong rừng không có nắng, nhưng tôi thấy mắt tôi hoa lên, cảnh vật đảo lộn, nhòe lẫn. Tôi mơ hồ cảm thấy như mình đã mệt mỏi muốn quỵ xuống. Đôi chân trì nặng, hai tay xuội đơ, nhấc lên không nổi. Người đàn bà lạ lùng như đoán được bệnh trạng của tôi, chị ta cười, bảo: “Nếu cô muốn uống nước, theo tôi về nhà!” Lời chị ta nhỏ nhẹ, dịu như một lời khuyên của chị gửi tới em, và cũng có cái đậm đà, quyến luyến của một người mẹ, dành cho con. Tôi ngoan ngoãn, đi theo chị ta về nhà. Nhà đây là một cái hang đá sâu và lạnh. Lúc đầu tôi còn ngập ngừng ở cửa hang. Sau theo cánh tay của chị, tôi chui vào. Khi tôi vừa chui đầu vào, mắt còn chưa phân biệt được đồ vật ngổn ngang ở trong hang thì một vệt sáng loáng từ nóc hang phật xuống ngang cổ tôi. Tôi kinh hoàng hét lên đúng lúc người đàn bà quay lại, xòe bàn tay rộng và đen như một đôi cánh lớn, chụp lấy mặt tôi. Tôi tỉnh dậy lúc trời còn mờ tối. Cơn mưa đầu hôm vẫn còn thảnh thót ngoài bao lơn. Tôi trở dậy và thấy đầu mình ê ẩm nhức nhối. 

- Mời cô Nữ xuống văn phòng phòng gặp người nhà. Tôi giật mình nhìn lên. Bác tùy phái quay lưng ra đến cửa. Tay còn cầm miếng giấy nhỏ. Tôi đóng nắp bút, đứng lên bước ra. Đầu óc tôi rỗng không. Chẳng một hình ảnh nào bật lên, sau lời báo tin trên. Cả lớp đều ngừng lại, nhìn tôi đi ra. Tôi cúi đầu chào giáo sư rồi đi thẳng, không nhìn một đứa nào.  

Gió chạy dọc hành lang. Tôi thấy lạnh và buồn buồn ở tay, chân. Có người nhà, điều ấy thật bất ngờ đối với tôi. Từ ngày dời Đà Lạt đến đây học, gần một năm rồi, chưa bao giờ tôi có một người đến thăm. Không lẽ Nhiệm! Vô lý. Sau lần gặp duy nhất ở Pleiku, đến nay hơn bốn tháng rồi. Chàng không viết cho một chữ, dù trước khi chia tay, tôi đã cho chàng địa chỉ. Khoảng hơn tháng gần đây, trong tôi, hầu như những náo nức, những vồn vã về Nhiệm đã chết, đã nguội. Bây giờ có ai nhắc đến chàng, cũng không thể gợi trong tôi xao xuyến nào. Tất cả, chỉ là một cơn gió thoảng qua, quá nhẹ. Và tôi đã lãng mạn, đã mơ mộng hão huyền về nó. Đời sống chúng ta, chẳng có nghĩa gì hết. Tất cả chỉ là tình cờ. Sự tình cờ, đôi khi được đặt lên ngang hàng định mệnh. 

    Tôi ngập ngừng ở cửa căn phòng giám học. Tôi muốn ghé mắt coi trước xem ai đang chờ ở trong đó. Tôi nín lặng, lắng nghe. Không một tiếng nói nào vẳng ra, ngoài tiếng quạt trần quay xạch xạch… Tôi hít một hơi thở dài, bình tĩnh gõ cửa. 

    - “Mời vào.” Tiếng ông giám học đưa ra, sắc và lạnh. Tôi thường mất bình tĩnh mỗi khi gặp ông ta. Không biết có phải tại bản tính cả thẹn hay tại vẻ nghiêm nghị, khắc khổ của ông, làm tôi khớp sợ. Tôi đưa tay giữ vạt áo, đẩy cửa bước vào. Căn phòng với những đồ vật bài trí xa lạ. Ông giám học chăm chăm nhìn tôi sau cặp kính trắng dày cộm. Tôi không nói được lời nào. Tim tôi thắt lại, nhói buốt. Khi người thanh niên mặc quần áo nhà binh, ngồi ở bộ sa lông bên trái, day mặt lại nhìn tôi, tôi thú thật là bị mất bình tĩnh và bủn rủn, đứng không vững.   

    Có đúng không? Có đúng không? Tôi nhìn người thanh niên một lần nữa. Chàng mỉm cười, gật đầu. Nụ cười xa xôi, buồn bã, và đã hơn một lần, tôi nói rằng tôi mê nụ cười ấy. 

    Chàng đứng dậy, cầm mũ lên. “Nhiệm!” Tôi kêu khẽ trong miệng. 

    - “Mời thiếu úy tự nhiên”, ông giám học phác một cử chỉ rất lịch lãm, ý ông muốn bảo tôi đưa chàng ra ngoài phòng khách. Chàng gật đầu cám ơn, bắt tay ông giám học. Họ nói với nhau những lời gì, tôi không nghe rõ. Tai tôi ù đi, mắt tôi cũng dại trước hình ảnh chàng. Không ngờ mộng tưởng tôi, giữa lúc đã hoàn toàn tuyệt vọng nay bùng lên, như một tiếng pháo nổ bất thình lình, vỡ tung tâm hồn. 

    Tôi líu ríu theo chân chàng, quay ra ngoài. Tôi băn khoăn không biết phải ngỏ lời với chàng thế nào. Tất cả những điều mà tôi hằng nghĩ, nếu gặp, tôi sẽ nói, sẽ hỏi… lúc gặp. Thế mà bây giờ tất cả đều tiêu tan hết. Tôi lặng lẽ đi bên chàng. Liếc nhìn gương mặt chàng hơi gầy và xanh, bất giác lòng tôi se thắt. 

    Nhiệm cũng ngoái nhìn tôi cười: 

    - Anh ra đây từ chiều hôm qua. Nhưng không mượn được xe. Sáng nay mới có xe, lại phải đi lo mấy việc, vừa xong, anh lại đây ngay. 

    - Anh đi lính rồi à? tôi hỏi. 

    - Bốn năm rồi Nữ. Lần đầu gặp Nữ anh quên không nói Nữ nghe. Chắc Nữ ngạc nhiên lắm phải không? 

    Tôi gật đầu bảo chàng rằng chỉ hơi ngạc nhiên một chút thôi. 

    Chúng tôi băng ngang chiếc hành lang nối liền hai tòa nhà. Phòng khách của nhà trường đồng thời, cũng là phòng ăn. Chúng tôi chọn chiếc bàn vuông, kê gần  cửa sổ, trông vào khoảng sân trống có lối đi trải sỏi trắng. Những khóm xương rồng xanh mướt với những chấm gai trắng như da mặt của một người bị phỏng. 

    Sự có mặt của chúng tôi, làm căn phòng rộng đang nhộn nhịp, bỗng dừng khựng lại. Mấy giáo sinh đang đánh bóng bàn ở cuối phòng ngừng tay ngó trân. Mấy chị nhà bếp và mấy nhóm con gái của năm thứ hai, ngừng bàn tán, chăm chăm nhìn chàng. Hình như Nhiệm cũng cảm thấy cái hoạt động đột nhiên chết lặng, chàng hơi ngượng ngùng khi kéo ghế cho tôi ngồi. Riêng tôi thì ngược lại, tôi cảm thấy hãnh diện có được một người tình như Nhiệm. Chiếc hoa mai lấp lánh trên cổ chàng, với tôi không thành vấn đề, tôi yêu Nhiệm vì Nhiệm chứ không phải vì chiếc hoa mai vô nghĩa ấy. Nhưng với những người khác, tôi chắc đó là một trong những điểm quan trọng, có tính cách quyết định… và hấp dẫn. Dẫu sao thì điều sung sướng nhất của một phụ nữ vẫn là được yêu và trình diện người yêu với mọi người. 

    - Nữ uống gì? Chàng hỏi tôi và đưa tay ngoắc chú hầu bàn. 

    Tôi nhớ tới ly cam vàng ở Pleiku ngày nào. 

    - Như cũ, anh. Tôi nói và thăm dò phản ứng của Nhiệm. Chàng nhìn tôi, cười bằng mắt. Gật đầu. Tôi thấy lòng lâng lâng một niềm vui có lẫn ít nhiều xúc cảm của kỷ niệm được nâng niu. 

    Tôi lắng nghe chàng bày tỏ nỗi nhớ nhung, hoang mang trong suốt thời gian xa nhau. Chàng bảo có viết thư cho tôi, hai lá, mà không thấy trả lời. Không biết chàng nói thật hay chỉ là một cách cho tôi hài lòng, nhưng tôi vẫn tin là chàng nói thật. Tôi đáp: 

    - Nữ không nhận được lá thư nào của anh hết. Gần đây, Nữ đã hơi tuyệt vọng. Giữa lúc đó thì anh đến. Thật không ngờ. Không thể ngờ. 

    - Anh ra đây cũng là ra cầu may, chỉ lo Nữ quên, Nữ không nhớ, không nhận anh thì lúc đó mới thật phiền. Chỉ có nước độn thổ. 

    - Anh cứ nói thế chứ. Nữ quên hay anh quên, cái đó phải xét lại à. Tôi cười, nói tiếp: Nhất là bây giờ, lại biết thêm anh là lính. Mấy ông lính là chúa lăng nhăng. Đi đâu lăng nhăng đó. Và khi dời khỏi, quên ngay tức khắc, như chưa hề gặp, chưa hề biết. 

    Nhiệm cãi: 

    - Không bao giờ mình nên vơ đũa cả nắm như vậy. Mỗi người một khác chứ. Có ai giống ai đâu. Bằng chứng cụ thể là sự có mặt của anh ở đây, tự nó, đủ để nói rõ tình cảm của anh đối với Nữ ở mực độ nào rồi. Vượt hơn một ngàn cây số, giữa tình trạng bất an như thế này, đâu phải là chuyện dễ. Hơn nữa, anh còn bị ràng buộc bởi nhiều vấn đề khác. Đâu có tự do gì. 

    Chàng dừng lời, rút thuốc hút. Tôi loay hoay tìm một câu gì đó, cho ý nhị để nói với chàng. Nhưng óc tôi rỗng không, trống trải. Gió mát và tiếng sóng vỗ ngoài xa hình như đã choán đầy khoảng trống trong tâm hồn tôi. Không gian chao nghiêng như xuống thấp hơn, cùng hạnh phúc tôi đang dấy lên từ sợi khói vắt ngang mặt chàng. Nhiệm bảo chàng mất ngủ hai đêm liền. Tôi giương mắt tỏ ý không hiểu. Chàng giải thích. 

    - Đêm trước là đêm ngủ ở Sàigòn. Nôn nao vì nghĩ tới sáng ra ngoài này, suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Còn đêm qua thì ở đây rồi, chỉ cách Nữ có mấy cây số mà không được gặp mặt, anh cũng băn khoăn bồn chồn khó ngủ. Ông đại úy đi cùng anh, thấy thế, hỏi thăm. Anh phải nói rằng tại lạ nhà không ngủ được. 

    - Thế đêm qua ở đây anh ngủ đâu? Tôi ngắt lời chàng. 

    - Ở khách sạn Hòa Bình, đường Gia Long, Nữ biết không? 

    Tôi gật đầu. 

    - Nữ biết, mỗi chiều Thứ Bảy được nghỉ, đi phố chơi với tụi nó, Nữ hay đi con đường đó lắm. Con đường hẹp và sạch nhất ở đây đó anh, gần giống những con đường ở Hà Nội. 

    Nhiệm cười. Tôi ngẩng lên và bắt gặp mắt chàng đăm đăm nhìn thẳng vào mặt tôi. Toàn thân tôi rung động, như có một luồng gió vừa chạy qua suốt thân thể tôi trống trơn. Tôi vội cúi xuống, soi mặt mình trong ly nước cam vàng, đục lờ. Giờ phút này tôi mới cảm thấy sự hữu ích của cây bút nguyên tử mà tôi đang cầm trong tay. Tôi mở cuốn sổ nhỏ, vạch những đường ngang dọc vào đấy. Nhiệm nói đều đều bên tai tôi. Giọng chàng trầm thấp và có vẻ hơi nhanh. Chàng nói nhiều lắm. Nhưng tôi không nghe rõ tiếng nào, từ hai chữ Nhiệm, Nữ. Nhiệm và Nữ. Vô tình, tôi viết chồng hai chữ đó vào trang sổ gạch lem nhem. Khi chợt nhận ra cái lỗi vô tình nhưng ghê gớm đó, tôi nhìn thấy. Tôi càng cảm thấy ngượng ngùng và nóng dần ở hai má. Chàng tủm tỉm cười. Tôi cũng cười theo, gấp cuốn sổ lại và đưa bút lên miệng ngậm. 

    Trời vẫn đầy hơi ẩm. Gió bắt đầu thổi tới mát và có phần lạnh. Nhiệm đề nghị tôi cùng đi ăn trưa với chàng. Tôi lắc đầu: 

    - Khó quá, chắc Nữ không đi với anh được đâu. 

    - Chiều nay Thứ Bảy mà. Nữ được nghỉ chứ? 

    - Vâng. Nhưng thường hai giờ mới được phép đi phố tới sáu giờ chiều lại phải vào rồi. 

    Mặt Nhiệm buồn xuống, mắt chàng xa xôi và tối lại. Vẻ thất vọng bật hiện trên môi chàng. Chiếc môi dưới bệu ra vẻ phụng phịu ngây thơ một cách thật trẻ con. Tôi vừa buồn cười và bùi ngùi sung sướng. Cái cảm giác của tôi thật khó diễn tả. Cùng lúc tôi thấy tôi quan trọng, cao cả và có toàn quyền ban phát hạnh phúc, yên vui cho bất cứ ai. Đồng thời, tôi lại cảm thấy tôi bé mọn, thật bé mọn và muốn ngả ngay vào lòng chàng. Tôi muốn giấu mặt tôi trong ngực chàng, mặc cho nước mắt chảy. Tôi sẽ trách móc chàng rằng: Sao anh bỏ em. Ừ, sao anh đã bỏ em. Anh quên em như chưa từng biết đến em. Anh biết rằng trong mấy tháng trời đằng đẵng bặt tin anh, em đã trải qua bao nhiêu nỗi khốn đốn, bao nhiêu nhục nhã, âu lo, cũng chỉ vì anh. Tất cả chỉ vì anh. Ừ, chỉ vì anh. Nếu không gặp anh, chưa chắc gì em đã tàn nhẫn với Hiển như vậy. Mặc dù em không hề yêu hắn. Nhưng biết đâu, nếu không gặp anh em đã xuôi theo lời khẩn khoản của nó. Em đã nhận tình nó. Em đã nhận tình nó và em sẽ lấy nó. Lấy nó, đời em sẽ đầy đủ, sẽ sung sướng. Cũng chỉ tại anh hết. Bây giờ, đột nhiên anh lại xuất hiện. Sự xuất hiện đột ngột của anh, làm em bàng hoàng. Em phân vân không biết những điều anh nói có xuất phát tự đáy lòng anh không. Hay cũng chỉ là một thủ đoạn của bọn đàn ông các anh. Để thỏa mãn khát thèm chiếm đoạt. Thỏa mãn tự ái đàn ông, kiêu căng một cách vô lý. Anh. Anh. 

    - Nữ, anh nghĩ rằng, có lẽ anh ăn nói không được khéo lắm, nên Nữ từ chối lời mời của anh. Anh không biết làm sao hơn. Bởi trong tình yêu, người ta không thể đóng kịch với nhau, như trong đời sống hay trên sân khấu. Chỉ có với tình yêu, người ta được sống với nhau bằng mặt thực, mặt thực của trái tim. Anh đến với Nữ bằng cái bề trong ấy. Nữ có thể từ chối, nhưng Nữ không thể nghi ngờ anh được.  

    - Không, không. Khổ quá, Nữ có nghi ngờ gì anh đâu. 

    Tôi cướp lời Nhiệm : 

    - Nữ thấy khó đi được với anh, nên Nữ cũng nói thật điều đó thế thôi. Chứ Nữ nào có ý gì khác đâu… Hay là… 

    Tôi bỏ những câu nói ở đó. Tôi định nói rằng hay là tôi sẽ liều đi với chàng để chứng tỏ tình tôi với chàng, không còn là một đắn đo, một so kè mưu tính. Tôi thấy mắt chàng chợt sáng lên long lanh. 

    - Hay là… sao Nữ không nói tiếp đi ?

    Tôi cúi thấp đầu nói nhỏ : 

    - Ừ, Nữ cố đi. Cố đi với anh một lần thôi. Không biết đến bao giờ anh mới lại có dịp để ra thăm Nữ nữa. Nhất là lính tráng. Thời buổi này. Làm sao biết trước được ngày mai. 

    - Thôi anh. Nữ xin anh đừng nói nữa. Thế đủ rồi. 

    Những lời chân thiết của chàng về tương lai làm tôi choáng váng. Tôi vẫn nghĩ rằng thế hệ của chúng tôi không có tương lai. Hay tương lai là một cái gì mù mịt. Một danh từ, một cách nói. Chúng tôi chỉ có hiện tại và quá khứ. Cái ngày mai sẽ tới với chúng tôi, chỉ là sự triển khai, một lập lại của dĩ vãng nhục nhã, đau thương. Có thể nói lịch sử là bánh xe quay quanh một chính trục. Lịch sử nước tôi, cũng là số phận của đời chúng tôi. 

    Mặc dù tôi hằng đinh ninh vậy mà tôi vẫn động lòng trắc ẩn khi nghe Nhiệm nói. Hình như cái trạng thái tâm lý đó không chỉ khơi dậy từ lời nói của chàng. Nó đã bám rễ, nó đã lên nước trong thâm tâm tôi từ lâu rồi. Tôi gọi nó là một thứ Hoa-sầu-tư. Nên những lời nói của chàng chỉ có thể coi như là một làn gió nhẹ xao động cái không gian vốn ăm ắp hương đau thương của Hoa-sầu-tư. 

    Tôi bảo Nhiệm: 

    - Anh chờ Nữ một lát. Nữ đi “điều đình” thử coi. 

    Chàng cười bằng cả hai con mắt có đuôi, đắm đuối.  

    - Anh là người đi tìm hạnh phúc. Và Nữ cho anh cái cảm tưởng Nữ là một thứ nguồn hạnh phúc của đời anh kiếm tìm. 

    Tôi kéo ghế đứng dậy, với những lời ngọt ngào của Nhiệm bám chặt vào óc tôi, nó bật lên trong mắt những hình ảnh phóng lớn của tư tưởng được buông thả. Cùng lúc, tôi cũng liên tưởng tới hình ảnh người con gái mà chàng đã úp mở cho tôi thấy từ hồi ở Pleiku. Người con gái “tóc dài như tóc Nữ”. Người ấy “mắt cũng buồn như mắt Nữ”. Những lời ấy, trong một thoáng rất nhanh, lại âm vang trong hồn tôi. Tôi bước ra ngoài hành lang và bảo chàng: 

    - Anh phải nói là lại tìm hay tìm lại được nguồn hạnh phúc cũ mới đúng. 

    Chàng giương to mắt ngơ ngác. Tôi cười thầm, nghĩ bụng: “Kể anh chàng cũng mau quên đấy chứ”.  


9

Buổi trưa, con đường dẫn vào thị  trấn chảy dầu sẫm ướt. Nắng xiêu nghiêng trên đỉnh đầu. Tôi đi lẫn trong bóng Nhiệm. Bóng chúng tôi kéo dài thành một vệt đen lớn, chuyển động theo nhịp chân bước chậm. Gió biển tạt ngang. Mùi tanh mặn và mùi hơi chàng là lạ. Một thứ mùi mà tôi có cảm tưởng sẽ khoan khoái vô cùng, nếu được hít thở đầy lồng ngực. 

    Tôi liếc trộm chàng, vẻ mặt chàng hân hoan hiện rõ. Kể cũng kỳ. Tôi nghĩ. Tại sao con trai, con gái cứ đến một tuổi nào đó, lại phải tìm đến nhau. Một khi đã xa nhau rồi thì xa nhau thấy nhớ mà gần nhau thì lại thấy xao xuyến rung động. Tôi cười một mình.  

    - Cười gì anh đó Nữ? Nhiệm hỏi. 

    Tôi vẫn cười, lắc đầu: 

    - Đâu có anh. Nữ cười vì nghĩ tới bây giờ ăn cơm, bọn bạn Nữ thấy vắng mất Nữ chắc chúng sẽ kháo nhau ghê lắm. Nhất là lúc nãy anh tới, có một số đứa biết. 

    Tôi hài lòng nhớ tới bọn con Liên, con Hải. Chắc chúng sẽ lồng lộn, tức ứa gan khi biết Nhiệm tới thăm tôi và tôi đã đi chơi với chàng. Tôi chọn lựa trước cho tôi một thái độ xử thế có tánh cách kẻ cả đối với chúng, bắt đầu từ chiều nay. Nghĩa là tôi  sẽ không thèm lên mặt kẻ chiến thắng đối với chúng. Tôi sẽ thản nhiên, bình thường và nhã nhặn với chúng hơn bao giờ hết. Tôi sẽ không để lộ một cử chỉ khoe khoang hay chọc tức nào. Tôi cũng sẽ không đá động với bất cứ ai, kể cả Thúy về cuộc đi chơi chiều nay của chúng tôi. Nếu ai có hỏi, tôi sẽ chỉ mỉm cười, trả lời ỡm ờ: “Ồ, đi chơi khơi khơi, vớ vẩn ấy mà”. 

    Con đường từ trường tôi về thị trấn, mọi lần tôi phải đi xe lam ba bánh mà vẫn còn thấy xa. Nhưng lần này đi bộ với Nhiệm mà tôi cảm thấy làm như nó gần lại. Nó ngắn đi tới hai phần ba đường. Thoắt một cái, tôi đã thấy thị trấn mở lớn trước mắt tôi, với khu công viên mù bụi trắng xóa. Sự náo nhiệt, gấp vội của tỉnh lẻ, hình như vẫn có khác ở những thành phố lớn. Những hoạt động ầm ầm, ào ào làm chóng mặt những người khách vừa đặt chân đến thị trấn, đều gây nên bởi sự vận chuyển của những toán xe nhà binh. Xe nhà binh. Ừ, hầu hết xe cộ chạy ở thị trấn này là xe nhà binh sinh hoạt ở đây cũng là sinh hoạt của lính. Lính bản xứ, lính ngoại quốc. Nó trộn trạo, nhốn nháo, nhưng vẫn cách biệt thật rõ ràng. Tiếng đĩa hát của rạp xi nê rè rè một bản nhạc tình máy nước ngắc ngư chọi với tiếng nói của xướng ngôn viên đài địa phương và của rạp xi nê ra sức tranh nhau phát âm, quanh cái công viên đầy rác rưởi và phân chó. 

    Nhiệm đưa tay vòng sau lưng chạm nhẹ vào người tôi, dẫn tôi bọc vòng công viên, đi ngã bên hông vào trung tâm thị trấn. Cử chỉ của chàng làm tôi nửa sợ, nửa ngượng ngùng sung sướng. Tôi định đưa tay đẩy nhẹ tay chàng ra, nhưng bao lần ngập ngừng rồi lại thôi. Không phải tôi không dám hay không đủ can đảm làm công việc đó. Nhưng tôi thấy không nỡ và hình như thâm tâm cũng mong chàng để mãi như vậy. Tôi tự nhủ mình: Đó là giới hạn cuối cùng mà mình có thể dành cho chàng. Đến đó thôi. Ở đấy là hết mực của sự có thể rồi. Tôi an tâm với sự giải quyết êm đẹp, minh bạch và có vẻ cương quyết của mình.  

    Đang đi bỗng Nhiệm nghiêng mặt, cúi xuống, ghé vào tai tôi: 

    - Nữ đã mỏi chân chưa? 

    Hơi thở của chàng bay ra chạm vào da thịt làm nhột nhạt muốn nổi gai ốc. Tôi lắc đầu, và nép sát vào người chàng, theo cánh tay chàng đã ấp hẳn vào lưng tôi từ bao giờ. Những ngón tay khum khum chạm hờ bên cạnh sườn tôi, làm tôi run rẩy ríu bước.  

    Nhiệm vẫn thản nhiên như không hay biết gì về sự bấn loạn toàn thân của tôi. Tôi mơ hồ lo lắng về sự mất bình tĩnh của mình. Phải chăng, từ giờ phút này, tôi không còn làm chủ được tôi nữa? Tôi đã hoàn toàn tùy thuộc nơi chàng. Nơi cánh tay khô rắn đang ghì buộc thân tôi hay ghì buộc đời tôi! Trời đã đứng bóng đỉnh đầu. Trong những mái hiên râm mát, tôi thấy những con mắt thèm thuồng nhìn tôi. 

    Có thật tôi đang hạnh phúc? Hay tôi đang dấn mình vào một cuộc phiên lưu thảm khốc mà định  mệnh oan nghiệt đã dành sẵn cho tôi. Bất giác tôi mím môi ngăn tiếng thở dài. Lòng tôi mềm và loãng buồn như những cụm mây trắng không đi trên nền trời xanh chói. 

    Loay hoay một lát chúng tôi đã đi hết những phố chính của thị trấn. 

    Nắng đã bắt đầu oi oi. Nhiệm đưa tôi về một tiệm ăn ở đường Gia Long. Chàng bảo: 

    - Ghé qua đây, ăn chút gì nhé Nữ.

    Tôi bảo, tùy chàng. Không biết Nhiệm có hiểu rằng, thời gian, bây giờ đối với tôi, như đã đọng lại thành khối. Tôi không còn ý niệm gì về nó nữa và do đó, tôi cũng không hề cảm thấy đói khát. Mặc dù, mọi khi, giờ này, ở nội trú và chúng tôi đã ăn cơm xong và bắt đầu ngủ trưa. Tôi nói “Tùy anh”, và lấy làm thích thú với câu ấy. Thế nào cũng được. Không có gì quan trọng cả. Cái quan trọng là chàng, chàng mới là điều quan trọng đối với tôi, là một mơ ước một khát khao trông ngóng, tưởng đã không thành sự thật, thì chàng đang đi bên cạnh tôi đây. Chàng đang nhìn tôi đây.Tôi có cảm tưởng tất cả thân thể tôi, tất cả tâm hồn và hơi thở tôi cũng có in chi chít những ánh mắt nhìn của chàng. Ánh mắt, dấu tích khởi đi, hé mở, về một vùng tình yêu chan chứa. Tôi nép bên chàng, như một con nghé, nép bên mình mẹ là một con bò lớn, một con trâu, cũng thế. 

    Tôi mỉm cười lúc ngồi xuống ghế. Nhiệm cũng cười. Nhưng tôi dám chắc là chàng không hiểu vì đâu tôi cười. Ý nghĩ này làm tôi mạnh dạn, tôi ngước nhìn thẳng vào mặt chàng. Hình như ánh mắt tôi có phần dữ dằn lắm hay sao đó. Tôi thấy chàng cúi xuống lẩn tránh. Mấy lọn tóc xơ xác rủ xuống một bên trán rộng và sạm sạm cát. Đôi tay chàng khẳng  khiu  đặt trên bàn, trơ trọi và vô duyên, như hai thanh củi gẫy. Bộ quần áo tác chiến làm chàng có vẻ mạnh khỏe, bớt gầy ốm hơn lần đầu tôi gặp, nhưng tôi lại có cảm tưởng như vì thế mà chàng buồn hơn. Chàng ngượng nghịu, lúng túng mỗi khi cử động. Ngay trong giọng nói của chàng, cũng kém vẻ tự nhiên linh hoạt. 

    Có thể là tôi đã nhận xét sai. Tôi đã đồng hóa bộ quần áo lính với nghĩa bi quan chán ngán. Thực tình tôi rất cảm mến những thanh niên hay đúng ra, tôi thường dành nhiều trắc ẩn cho những người trẻ tuổi này, họ có cái vẻ ngơ ngác, non nớt của một thanh niên mới lớn, đồng thời cũng có luôn cái vẻ dày dạn chán chường của một người đã lăn lóc đã đối diện thường xuyên với cái chết. Tôi cho rằng hình ảnh những người thanh niên già này rất xứng đáng tiêu biểu cho một trong những cái lỡ làng của đời sống, của hiện tại. Họ là một thứ cây chưa gió đã vội cong, chưa cao đã vội gẫy. Người ta thường lên án chiến tranh. Tôi cũng vậy nữa. Nhưng đôi khi, nghĩ ngược lại, nếu không có chiến tranh, thanh niên Việt Nam rồi sẽ ra sao? Khuôn mặt họ sẽ như thế nào khi cảnh đời không bật lên hết những khía cạnh tối tăm bi thảm. Khi đời sống không nhồi xóc, vật vã họ, bắt buộc họ phải mở mắt, phải nhìn ngó và phải  có thái độ, phải chọn lựa. Tôi không mấy tin ở thanh niên. Bình thường, đa số, họ không có ý thức về tinh thần ái quốc, về quê hương và nhất là họ có thói quen a dua, đua đòi, học lỏm.

    Tôi không dám nói ý tưởng này với Nhiệm, sợ chàng bị chạm tự ái. Tôi bảo chàng:

    - Chiến tranh, nó cũng có cái hay của nó. Nó lôi kéo được một số lớn thanh niên lên khỏi cái hố tối tăm của ngu dần, và vô trách nhiệm. Thanh niên ở đây, Nữ muốn nói chung, cả giới phụ nữ nữa.

    Nhiệm không trả lời tôi. Chàng gọi bồi và kêu món ăn. Lúc chị hầu mang hai ly nước cam vàng lại cho chúng tôi, chàng mới chậm rãi nói:

    - Không ai có thể vượt lên trên đời mình. Chúng ta là một chiếc mắt xích, trong một sợi xích dài. Sợi dây xích bị chuyển động bởi một bánh xe có răng cưa. Bánh xe lại bị xoay quanh bởi một dòng điện hay một bàn tay, hay một bánh xe nào khác. Cái mà anh nói với Nữ là một dòng điện, một bàn tay, hay một bánh xe nào khác đó đến nay không thuộc về một trong chúng ta. Nó ở một nơi nào đó, từ một vị trí nào đó, hay thuộc về một người nào đó, không trong chúng ta. Nhưng anh nghĩ mình không nhận không nói những chuyện xa vời đó. Anh chỉ muốn nói, về mầu áo Nữ đang mặc, về những sợi tóc Nữ đang bay sau lưng, về mầu mắt Nữ, buồn buồn, xa xôi, âm u, trong một hốc kín.

    Tôi bật cười, buột miệng.

    - Ghét anh ghê.

    - Anh cũng chỉ mong được ở Nữ chừng đó. Nhiệm đáp nhanh và đưa ly nước lên môi.

    Những tiếng động trong quán như đột nhiên ngừng lại. Những bước chân đang chuyển, những tiếng nói đang vang âm, những cánh tay đang đưa ra, như cùng một lúc, ngừng lại trong cái vị thế nửa vời nào đó. Tôi có cảm tưởng như chỉ còn chiếc quạt trần, trên đầu tôi, tiếp tục quay, quay mãi, một nhịp khoan thai, như không để làm gì cả. 

    Tôi cúi mặt, nhưng vẫn biết rằng, đối diện tôi, Nhiệm đang nhìn bằng một tia nhìn muốn cắn, nuốt. 

    Tôi rùng mình, nghĩ tới một phút tình cờ nào, của định mệnh khắc nghiệt, tôi sẽ xuôi tay, mặc cho thân thể ngã đổ vào vòng tay chàng khẳng khiu, trơ trọi. 

    Tôi nhớ lại lời chàng, lúc đến ngã tư trước khi rẽ tay trái đến đây, chàng nói: 

    - Lát nữa, anh sẽ đưa Nữ về khách sạn, chổ ở tạm thời của anh để những ngày còn ở đây, lúc nào tiện Nữ ghé qua thăm anh. 

    Khi ấy tôi định ngõ lời từ chối hẳn. Nhưng lời đáp lại không phản ảnh thực với ý nghĩ của tôi. Tôi không hiểu tại sao thế. Tôi nhớ là tôi đã trả lời chàng: 

    - Nữ sợ vào khách sạn lắm. Kỳ kỳ sao ấy. Nhất là Nữ chưa bao giờ đặt chân vào những nơi đó. Chàng cười thành tiếng, đáp ngay: 

    - Thế thì Nữ lại càng nên vào. Vào cho biết. Tại sao người ta cứ quan niệm sai lạc về hai chữ khách sạn nhỉ. Trong khi khách sạn và nhà ở có khác gì nhau đâu. Có khác chăng chỉ là một nơi ở  lâu hay vĩnh viễn và một nơi ở vài ngày rồi đi. Thế thôi. Hay Nữ có ý nghĩ gì khác. 

    - Đâu có anh. Thôi… 

    Tôi bỏ lửng câu trả lời ở đấy. Và bây giờ, tôi lại phân vân, hồi hộp, nghĩ tới lát nữa. Rồi sẽ ra sao? 

    Anh bồi mang thức ăn ra, hỏi chàng: 

    - Ông bà cần gì thêm không ạ? 

    Chàng nhìn tôi hóm hỉnh lắc đầu: 

    - Thôi cám ơn, để lát nữa… 

    Không khí mát hẳn lại. Khách sạn mở ra với chiếc hành lang rộng. Từ trên lầu hai nhìn xuống, một khoảng sân hình chữ nhật, ở giữa tòa nhà. Mấy cô gái ăn mặc hở hang, đi qua đi lại một cách vênh vang. Tôi hoang mang và hối hận vì đã theo chàng vào chốn này. Chính ra tôi không nên thế. Phải rồi, con gái không nên ra vào những nơi không hay ho gì như khách sạn, phòng ngủ. Dù mình không có chuyện gì chăng nữa, người ta vẫn nghi ngờ vì có thành kiến sẵn về mình. Óc tôi thì nghĩ đến chuyện phải quay ra, phải trở về. Nhưng chân tôi lại vẫn bước. Bước một cách ngượng ngùng, e sợ và có pha lẫn chút thích thú và bị kích thích. Tôi tự an ủi tôi. Tất cả chỉ vì mình quá yêu. Vì chàng, vì Nhiệm. Đời sống đã chắc được bao phút sống cho riêng mình? Can chi cứ phải bo bo, xoay chuyển tâm hồn mình theo cái dư luận của đám đông, của đạo đức. Đạo đức đích thực nó chỉ có ở trong mỗi cá nhân đó. 

    Tôi bình tĩnh hơn, khi ngắm nhìn Nhiệm, lúng túng tra chìa vào ổ khóa. Miếng nhôm có ghi số phòng I3, buộc lủng lẳng ở khoen chiếc chìa, bằng sợi dây kẽm đã rỉ sét. Tôi tự hỏi, không biết, đã bao người, cầm trong tay chiếc chìa khóa này, và đến Nhiệm là người thứ mấy. Luôn cả tôi nữa. Đứa con gái hư thân mất nết này? 

    Tôi mỉm cười khi chàng quay lại nhìn tôi. Căn phòng mở ra với hai chiếc giường nệm trắng nuốt. Những chân màn cao, còn mắc gọn ghẽ ở trên nó, hai chiếc màn ny lông trắng và thoảng mùi nước hoa ngai ngái. Chiếc bàn nhỏ, kê ở giữa hai chiếc giường, trên vứt ngổn ngang ít báo, sách và một khẩu súng lục nằm trong bao da đen, có nhiều vòng dây lòng thòng. Ở góc trong cùng là chiếc tủ áo to, cao màu nâu sẫm. Một cánh mở hé, cho tôi thấy, hai chiếc ba lô và một túi xắc mầu xanh sẫm. Tôi tần ngần đứng nhìn ngần ấy thứ, lạ lùng như chưa hề trông thấy ở đâu, bao giờ. 

    Nhiệm lăng xăng vứt mũ vào ngăn tủ, dẹp mấy tời báo, cất cây súng vào ngăn kéo, rồi nhắc ghế mời tôi ngồi. Chàng nói: 

    - Súng của ông xếp đó. Ông ấy lại nhà người bạn ở đường Hoàng Diệu xoa mạt chược. Chưa chắc đêm nay đã về. 

    - Nếu vậy anh ngủ một mình à? Tôi hỏi chàng bằng một giọng tình cờ, vu vơ. 

    Nhiệm gật đầu rồi ngồi xuống mép chiếc giường trong, đối diện với tôi. 

    Gió từ trên cao thổi xuống, đóng xầm cánh cửa. Chàng ngó tôi trân trân, như ngó một con vật kỳ lạ. Ánh mắt của chàng làm tôi nhột nhạt khắp thân thể. Tôi bắt đầu thấy gai lạnh và sợ hãi. 

    Gió luồn qua chiếc cửa sổ lá sách mở vào hành lang, kêu lạch cạch, tôi cúi nhìn tay chân mình, trong cái cảm giác trơ trẽn, sượng sần và trống rỗng. Tôi không biết nói gì với chàng. Nhiệm cũng thế. Nhưng tôi mơ hồ cảm thấy rằng, nếu ngay lúc này, chàng chồm người tới, nắm lấy cánh tay, hay bất cứ một nơi nào, trên thân thể tôi, chắc chăn tôi sẽ hoảng hốt, ghê rợn, hét lên và rất có thể là tôi sẽ xin đi, sau đấy. 

    Nhưng rất may là chàng chỉ nhìn tôi mà không động đậy. Một tay tỳ cầm một tay gác trên đầu gối, mặt Nhiệm hất cao. Hai cánh mũi chàng phập phồng như đang trải qua một xúc động ứ ngộp. 

    Cái im lặng ngột ngạt kéo dài, làm tôi mất hết cả bình tĩnh. Tôi không còn biết mình phải làm gì, nói gì và sẽ có thái độ nào, nếu có một hành động quá lố nào, từ phía chàng. Lúc này thì thực sự tôi đã cảm thấy hối hận và thấm thía về sự liều lĩnh của mình. Đồng thời, cũng trong tình cảnh đó, tôi lại cảm thấy yêu chàng và thèm ngã vào tay chàng hơn bao giờ hết. Mặc dù không thể lường trước được cảm xúc của tôi, lúc ngã vào vòng tay chàng nó sẽ ra sao. Những mâu thuẫn bừng lên, trong tâm trí tôi, làm tôi nóng ran cả người. Máu rần rật chạy ở hai thái dương. Gai ốc, nổi lên từ những lỗ chân lông, lăn tăn như hạt cát trắng nhỏ xíu. Tôi muốn nói với chàng, muốn van chàng, thôi đừng nhìn em nữa. Đừng nhìn nữa anh. Tôi muốn bảo chàng: Em nào có tiếc. Em không hề tiếc, một khi yêu anh. Nhưng em van anh, đừng làm e hoảng sợ. Em van anh, đừng làm em mất bình tĩnh. Đừng nhìn. Thôi đừng nhìn nữa. Tình yêu đâu chỉ giới hạn cỡ tầm mức đó. Nó còn xa, xa hơn nữa. Suốt trong lòng người. Thấm xuyên đời người. 

    Tôi thở ra, khi thấy chàng mỉm cười và hơi ngả mình về phía sau rút thuốc hút. Nụ cười chàng có khóe và khóe cười đó, tôi đọc được ý chàng, thầm bảo: Anh đã đọc suốt ý nghĩ thầm kín trong đầu em rồi đó Nữ. Nhưng bây giờ chưa phải lúc. Chưa phải lúc. Chúng ta còn nhiều thì giờ mà Nữ. 

    Nhiệm thả chậm hơi thuốc đầu tiên. Chàng nói, tiếng nói chàng thoát đi từ sau màn khói thuốc đục lờ, ngăn giữa hai chúng tôi. Giọng chàng chầm chậm, thật chậm thì đúng hơn đều và lẻ tẻ: 

    - Trước khi đi, anh đã tự nhủ với anh cũng như anh đã nói với mấy người bạn thân. Anh chỉ ao ước, ra đây, được gặp Nữ. Gặp Nữ một lần, một lần thôi, rồi sau đó, đời anh có ra sao cũng cam đành và không ân hận (chàng máy máy ngón tay trỏ, trên thân điếu thuốc lá mới vừa cháy đỏ. Mắt chàng đờ đẫn nhìn đóm lửa, như tìm trong đó, câu nói tiếp, diễn thêm ý vì chắc chàng e tôi không tin hoặc chưa hiểu hết ý chàng). Anh nghĩ rằng, lời nói vừa rồi của anh, có thể nó hơi láo, đối với Nữ. Với một người mà chúng ta chưa có những ràng buộc tình cảm, những liên hệ tinh thần khắng khít có tính chất bất diệt với nhau. Nữ có quyền không tin và mĩm cười về câu nói đó. Vì đấy là quyền của Nữ. Nữ hoàn toàn làm chủ Nữ và anh cũng không van xin cầu khẩn gì hết. Nhưng lời anh nói ở đây, nó khởi đi từ trái tim anh. Từ một phía. Nó là một thăm dò, một nghe ngóng, một đợi chờ, chứ không phải là một trao đổi, xiết chặt thêm một liên hệ đã có sẳn. Anh luôn bình tĩnh, can đảm, đón nhận một im lặng phủ phàng hắt hủi, khi viên đá tình cảm thăm dò đã ném đi. Bởi anh vẫn quan niệm rằng: Hạnh phúc có ngay từ lúc tâm hồn xao xuyến, trước dung nhan một người, hay vắn tắt hơn, hạnh phúc có ngay từ khi trái tim mình rung động. 

    - Đó, cũng chính là quan niệm của Nữ. Tôi tiếp lời chàng. 

    Nhiệm vẫn nghiêm trang. Nét mặt chàng khắc khổ và xa vắng. Tôi có cảm tưởng con người đang ngồi trầm tư trước mặt tôi đây, không có một chút liên quan nào với con người hớn hở, trẻ thơ hồi sáng, đã đến kiếm tôi ở trường. 

    - Nếu thế thì càng hay. May mắn cho anh. 

    Chàng tiếp tục và vẫn không nhìn tôi. Mắt chàng dán vào cây cột màn của chiếc giường bên kia. Tôi kéo căng chiếc khăn tay nhỏ trong hai bàn tay nổi gân xanh. Tôi cảm thấy một cách thật rõ ràng, hiển nhiên là tôi đã chìm nghỉm trong cái không khí tâm sự não nùng vừa khơi dậy. Tôi mềm lòng, tôi nhũn nát tâm hồn vì tôi biết vai trò của tôi, trong lúc này. Một vai trò khó khăn, quan trọng. Nó làm tôi cao cả, sáng bừng như một vầng trăng. Nhưng nó cũng làm tôi thấy mình nhỏ nhoi, bé mọn, bềnh bồng trong một thứ hạnh phúc mơ hồ, lãng đãng. 

    - Một điều nữa, anh cũng muốn nói luôn với Nữ: Anh không phải là kẻ sôi nổi. Anh không bốc đồng, thiếu suy nghĩ trước một quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến đời mình. Phải nói rằng anh là một người bản chất vốn e dè và thận trọng. Nhưng dù thế nào mặc lòng. Anh cũng như mọi người khác, nghĩa là anh cũng cần có tình yêu. Và có thể anh còn cần tình yêu hơn bất cứ ai hết. Bởi đời sống của anh, đời sống của một người từng phút từng giây đối diện với hiểm nguy với cái chết. Anh chỉ muốn nói tới một đời sống mong manh, leo lét. Không thể biết trước lúc nào nó sẽ tắt. Lúc nào? Không ai biết được điều đó. Nhưng cũng không phải vì thế, người ta buông lỏng tâm hồn, thả lỏng tình cảm. Không phải vì thế mà đụng người nào anh cũng yêu, gặp người nào anh cũng thương. Tình yêu, bao giờ nó cũng có những lý lẽ và luật riêng của nó. Nó không phải là sự lồng vào, chụp xuống, hay chụp giựt. Nó là sự trùng khít. Sự trùng khít tình cờ của một trái tim với một trái tim. Sự tình cờ ở đây phải được coi như một định mệnh. Thứ định mệnh khắt khe và cay nghiệp, luôn chi phối, đẩy đưa đời sống chúng ta. Mà nói đến sự trùng khít tình cờ, tức là nói đến một phút giây huyền diệu, một phút giây nhiệm mầu nào đó. Và, từ đấy, tình yêu nở ra, như một ánh sáng, một bông hoa, chỉ xuất hiện trong giờ khắc của định mệnh tiền định. (Chàng ngập ngừng, hút một hơi thuốc dài. Tôi hồi hộp, linh cảm sắp  tới giai đoạn quyết liệt. Tôi muốn nói một câu vu vơ nào đó, để xé tan cái khoảng thời gian ngưng nghỉ rùng mình đó. Nhưng sao lưỡi tôi cứng quá. Răng tôi khép vào nhau, như quai hàm đã chết cứng từ lâu, chưa bao giờ hé mở. 

    - Tất cả những điều anh vừa trình bầy với Nữ, chỉ nhằm đưa tới một thú nhận, một thú nhận mà bao lâu nay, anh hằng cố công quay lưng, từ chối nó. Lời thú nhận sau đây, với chính anh, lúc nó bật lên, cũng đã làm anh hoảng hốt, hoang mang và nghi hoặc. Sau bao ngày đêm anh tự hỏi, tự tra vấn mình, anh vẫn không hiểu lý do, tại sao, như vậy. Dĩ nhiên, cuối cùng, anh chỉ còn biết cam đành nhận chịu nó, như nhận chịu một tai họa, một may mắn, một hạnh phúc, đã dẫn đến, sừng sững trong dòng đời sống của mình. Nó đẩy anh tới một khúc quanh mà lòng sông lượng nước, anh không thể dự đoán được. Đó là… Đó là… sự rung động của trái tim anh, trước… trước Nữ. Anh muốn nói anh đã yêu Nữ ngay từ phút đầu tiên vừa thoáng thấy. Anh đã… yêu em. Anh đã yêu em.  

    Tôi choáng váng, xây xẩm mặt mày. Tôi không còn biết gì nữa. Hình như những lời nói cuối cùng của Nhiệm đã nổ tung tâm hồn tôi, như một trái bộc phá để dưới chân ghế đã nổ tan và tung hất tôi lên cao, thật cao, trước khi tan thành từng mảnh nhỏ. 


10

Tôi trở lại tìm Nhiệm vào buổi chiều. Một buổi chiều thân thể tôi còn ê ẩm như bầu trời thấp đục. Chính tôi cũng không ngờ mình còn đủ can đảm tìm trở lại căn phòng mà ở đó, tôi đã biến thành đàn bà sau một khắc hôn mê, rã rượi. Tôi nhớ khi chàng lái xe đưa tôi về nội trú, dọc đường chúng tôi không nói với nhau một lời nào. Hình như cả hai cùng có một nỗi ngượng ngập, một niềm ăn năn hối tiếc âm thầm với hành động đã qua. Không ai muốn nhìn lại cái mình tự coi như một lỡ lầm, dù trong lúc lỡ lầm, mình đã không nhìn nó như thế, nếu không thể nói được là ngược lại. Vẻ bần thần hiện rõ trên gương mặt chàng tái xanh. Nét tinh anh, đã biến mất. Ngay cả tia nhìn của chàng, những tia nhìn mà mới cách đây khoảng vài tiếng đông hồ đã khiến tôi phải rùng mình, luống cuống, khi ấy, cũng chỉ tỏa ra một vẻ mệt nhọc, lờ đờ. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán chàng, như những hạt mè lép, làm tối thêm hai con ngươi ẩn sâu trong hốc mắt tối với hàng lông mày dán ép, xuôi đơ. Tôi lúc ấy cũng lềnh bềnh trong cảm giác xa lạ với chính mình. Tôi đã thành một kẻ khác. Một kẻ nào đó, không ăn nhập chút gì tới tôi vài tiếng đồng hồ trước. Óc tôi chỉ ghi nhận mỗi một điểm là cơn nhức buốt ì ì khuấy động khắp cùng thân xác. Đến phút đó tôi vẫn còn ảo tưởng rằng mình vừa trải qua một giấc mơ hãi hùng khủng khiếp. Giấc mơ đã phơi trần tôi trên một hàng cọc sắt nhọn. Những chiếc cọc sắt quái ác mỗi giây một cắm vào lưng tôi mềm nhão. Từ lưng, nó xuyên qua bụng rồi từ chân, xói ngược lên ngực, tẻ ra hai tay, xéo lên đến má và cuối cùng, dừng lại ở đầu. Cái cảm giác đê mê khi được chàng ghì xiết, khi môi chàng di động, lần tìm trên da mặt tôi đã tan biến ngợp chìm, mắt tăm ngay khi những đầu nhọn đó xuất hiện. Lúc tỉnh lại, tôi thấy mình nằm trong lòng chàng tự bao giờ, những giọt nước mắt không biết từ đâu đã ướt một khoảng áo trước ngực. Những giọt còn lại vẫn tiếp tục lăn đi, lăn đi từ hai khóe mắt tôi cay xót. Tôi sượng sùng cúi mặt, vùng thoát khỏi vòng tay chàng. Nhiệm cũng bật dậy tức thì nhoài người chụp lấy vai tôi. Tôi xấu hổ, tủi thân úp mặt vào hai bàn tay xòe rộng. Tôi không hiểu mình hành động như vậy để làm gì. Để làm gì khi tất cả đã mở tung đã ngỏ hết, và nhất là đã mất cái bí nhiệm duy nhất của một đời đàn bà. Người ta thường có những hành động không nhắm tới mục đích nào hay hành động chỉ có nghĩa thuần túy là một hành động mà thôi. Nhiệm dìu tôi vào phòng tắm. Chàng bảo, Nữ nên tắm một chút cho nó mát. Tắm đi rồi anh sẽ đưa Nữ về. Chàng trở ra lấy cho tôi bánh xà phòng và chiếc khăn tắm. Tôi đóng cửa buồn tắm, tần ngần ngắm mình trong gương. Chưa bao giờ tôi lại thấy mặt tôi trơ trẽn và vô duyên đến thế. Nó bì bì như một miếng bánh mì bị trương nước. Tôi cảm tưởng đời tôi từ phút đó tùy thuộc nơi chàng. Cái mà tôi phải giữ để dành quyền chủ động đòi mình hoặc tôi cho hoặc chàng cướp mất. Dù đã cho hay để bị cướp mất thì trách nhiệm vẫn thuộc phía tôi, tôi không muốn đổ lỗi cho chàng.

    Không ai có thể trách nhiệm về cuộc đời mình ngay cả mình. 

    Tôi không ân hận, không hề ân hận, tôi thành thật nói vậy, vì tôi vẫn quan niệm một khi yêu, tôi sẽ không tiếc, không tiếc bất cứ cái gì có nơi tôi. Tại sao lại tiếc nhỉ? Khi cái quan trọng nhất là tâm hồn mình, là trái tim mình thì đã trao gửi cả cho người ấy. Tôi cho là mọi đắn đo suy tính đều không phải bản chất của tình yêu. Tôi không đủ can đảm tự hiến dâng, nhưng tôi cũng không từ chối lời khẩn khoản van xin của người tình. Có thể tôi sẽ bị lừa. Tôi sẽ bị phản bội. Điều ấy làm sao mình biết trước! Có điều chắc chắn là tôi đã thực với tôi, khi tôi yêu. Tôi đã sống hết, sống cạn đời mình vì cuộc tình mình. Và sau phút đó, tôi cảm thấy một điều khác lạ, khác lạ vì hình như tình yêu trong tôi nó không chỉ còn là những nhớ nhung lo âu vơ vẫn nữa. Nó biến thành cái gì có tính thiêng liêng, có tính cách quyết định sự sống còn của đời sống. Tôi cảm thấy yêu và thương chàng hơn. Dù muốn hay không, kể từ giờ phút đó, chúng tôi đã mặt nhiên chấp nhận sự ràng buộc đời nhau. Tôi mỉm cười với ý nghĩ này. Tôi nghĩ tới lúc được chính thức sống với chàng, nghĩa là được làm vợ chàng. Bỗng dưng tôi trở nên hăng hái và tin tưởng ở tương lai, một tương lai không biết có không nhưng tôi cả tin là có. Phải có chứ. Sao lại không? Tôi cởi quần áo, lúc chàng đánh diêm hút thuốc. Tiếng lửa bốc cháy xèo xèo, cùng lúc với những tia nước lạnh từ ống hoa sen bắn vào người tôi, lạnh lan, xuôi tuột. Tôi mặc cho chúng chảy, chảy mãi, thành từng dòng trên thân thể tôi mỗi phút một bừng bừng nở lớn…

    Lúc ngừng xe cho tôi xuống, chàng ấp úng dặn: Sớm mai anh đi Sông Cầu, hai ngày mới lại trở về. Anh mong nếu Nữ tin nơi anh thì trở lại thăm anh vào buổi chiều. Chiều nào cũng được. Anh sẽ đợi mãi mãi cho đến hết công tác ở đây. Tôi nghĩ giọng chàng thiếu tự tin bởi chàng không hy vọng tôi trở lại. Điều đó đúng lắm. Chính tôi lúc ấy cũng không hề tơ tưởng tới chuyện tìm đến nơi chàng ở, ấy thế mà bây giờ tôi đã đi. Tôi ngạc nhiên về tôi không ít, bởi tôi thấy rõ ràng không một động lực nào thúc đẩy tôi đến với chàng hết. Trạng thái tâm hồn tôi, cho đến phút này, hoàn toàn bình tĩnh, thản nhiên có phần lạnh lùng. Tôi trốn ra khỏi nội trú có lẽ tại vì tôi đang buồn. Tôi muốn rời khỏi trong khoảng thời gian ngắn thôi, cũng được, miễn phải tạm rời xa nó. Cảnh chiều xuống từ từ vàng ối trên mặt biển từ hơn năm nay đối với tôi thật quen thuộc, nhưng mấy hôm nay, khi không tôi thấy sợ cái màu vàng ối đó. Màu vàng pha lẫn những tia máu tươi đỏ nhức mắt đã làm tôi chóng mặt, muốn nôn. Tôi cảm tưởng như tất cả cái màu chết úa đó rơi xuống vì sự có mặt của tôi vì thấy được nỗi cô đơn trống trải trong lòng tôi. Tôi thấy thật rõ, thật rõ mặt trời xuống thấp, xuống thấp. Những tia nắng màu máu tươi như dồn soi tất cả về phía tôi. Nó làm nghiêng đi cái ban công tôi đang đứng. Nó nhấc bổng thân tôi lên, hai chân nhẹ hẫng, chới với. Mỗi khi cơn sóng ào ào tới là một lần, tôi nghe mình tạt lùi vào trong. Hai tay tôi vẫn nắm chặt thành lan can, nhưng hiển nhiên là người tôi bị hất tung về phía sau. Chiều nào tôi cũng bị cái cảm giác sóng nhồi như thế. Và chiều nào tôi cũng không thể kiềm chế mình đừng bước ra khỏi phòng, tới dựa nơi lan can. Riêng buổi chiều này, mặt trời hình như xuống thấp hơn mọi bữa. Tôi thấy nó xuống sát mặt nước và những tia máu đỏ gay gắt hơn, màu vàng úa vì thế cũng đậm hơn trên cảnh vật. Tôi thấy hoang mang quá đỗi. Không thể dừng được nữa. Tôi phải dời khỏi nơi đây. Ít nhất trong thời gian mặt trời xuống biển. ít nhất trong thời gian thân tôi bị nhuộm vàng và những tia máu đỏ chiếu ngược từ dưới thấp, hắt lên người tôi. Tôi có cảm tưởng như nó muốn đốt cháy, muốn bật tung, muốn soi thủng lớp quần áo mà tôi đang mặc trên người. Chỉ có một cách là: đi khỏi, đi khỏi. Không thể khác hơn. Không thể vào phòng trong lúc này. Không thể được. Từ ngày có mặt chàng ở thị trấn, tôi không thể ngồi đâu yên được mười phút. Chỉ một lát, một lát thôi, tôi đã thấy tôi lạc vào con phố lớn duy nhất của thị trấn. Con phố mà cách đây ba hôm tôi đã đi với Nhiệm. Tôi đã theo chân chàng vào nơi chàng trọ. Tới lúc này tôi mới cảm thấy lúng túng, phân vân. Thế là thế nào? Chàng sẽ nghĩ sao nếu thấy tôi đi lang thang? Chàng sẽ nghĩ sao nếu người gõ cửa phòng chàng là tôi. Trong khi thâm tâm, tôi không hề nghĩ vào thị trấn với mục đích tìm kiếm chàng. Tôi đi thật chậm và giữ cho mình vẻ thản nhiên dửng dưng bằng cách ngắm nghía cửa hàng bày đồ lậu của mấy “người bạn bên kia đại dương” ăn cắp bán ra ngoài. Dù tôi đã cố gắng bước những bước thật ngắn, mà ngôi khách sạn chàng ở chỉ một thoáng đã hiện ra trong tầm mắt. Tôi định băng qua đường, tránh để khỏi đi ngang qua cửa khách sạn, nhưng tôi lại tặc lưỡi nghĩ bụng: Mình có làm gì đâu mà phải lo sợ như vậy. Bộ mình là tội phạm hay sao. Ý nghĩ này làm tự ái tôi bốc dậy, tôi lạnh lùng bước tới. Bất ngờ tôi nhìn thấy chú bồi mặc quần áo trắng ngồi ngay như tượng trên chiếc ghế đẩu ở trên bực thềm bước vào khách sạn làm bao nhiêu can đảm nghị lực phút chốc tiêu tan. Tôi có cảm tưởng như ánh mắt thằng bé đã soi thấu suốt tâm trạng tôi. Hai gót chân tôi ríu lại. Không muốn bước. Tôi ngượng ngùng ngó xuống. Những hòn gạch ô vuông đã phai màu, từ đỏ ngả rêu xám. Tôi cố gắng bước mau cho qua khỏi tầm mắt nó, nhưng tôi vẫn bị cái cảm tưởng là ánh mắt nó đang bám riết sau lưng. Tôi mơ hồ cảm thấy nó mỉm cười. Phải rồi, in là nó mỉm cười. Nụ cười của nó làm tôi bực mình khó chịu. Phản ứng tự nhiên cho tôi ý nghĩ đã thế thì mình vào, cứ vào, chết chóc gì mà sợ. Ý nghĩ vừa bén dậy trong óc, chân tôi đã tự động quay gót. Làm như chân tôi chỉ chờ có thế. Tôi vuốt lại nếp tóc chậm rãi bước lên từng bậc tam cấp. Thằng bé lễ phép đứng dậy, chắp hai tay trước ngực. Nó hỏi tôi cần gặp ai. Tôi bảo cho gặp ông thiếu úy đi công tác ngoài Sông Cầu mới về. Nó cười, nụ cười ngây thơ, non nớt chứ không tinh ranh như tôi tưởng. Nhìn sát mặt, thằng bé chỉ chừng chín mười tuổi thôi. Nó còn nguyên vẻ ngớ ngẩn của một đứa trẻ mới thoát từ vùng thiếu an ninh về, mặc dù bộ đồng phục trắng và nước da xanh mét, cho nó vẻ thông minh, sáng nước. Nó gọi tôi bằng bà và trả lời ông ấy về từ hôm qua, hiện có trên phòng để cháu đưa lên. Tôi tính bảo nó thôi khỏi, nhưng lặng im theo chân nó. May là tôi không từ chối sự dắt đường của thằng bé chứ không phiền biết chừng nào, bởi chàng không còn ở phòng số mười ba nữa, chàng đã về phòng số bảy, ngay đầu thang bước lên, bên tay trái. Tiếng thằng bé gõ cửa dội vào tai tôi, nhát chừng như chính tiếng tim tôi đập, không đều và mạnh. Cánh cửa hé mở. Chàng không ló mặt nhưng tôi nghe rõ tiếng chàng hỏi thằng bé, giọng hơi khó chịu: Gì đó chú? Thằng bé ấp úng chỉ về phía sau. Tôi sượng sùng muốn chín đỏ cả người. Chàng mở lớn cánh cửa, thấy tôi, vụt tươi sắc mặt, chàng mừng rỡ. Trời, Nữ, thật không ngờ. Không thể ngờ. Chàng lập lại nhiều lần mấy tiếng ấy. Thằng nhỏ luồn mình cúi đầu lui ra. Chàng sực nhớ là quên mời tôi vào, vội vàng xin lỗi và mở hết cánh cửa đưa tay ra hiệu. Dáng điệu chàng lúng túng, hơi có vẻ ngố nghế một cách tội nghiệp. Tôi mỉm cười khép khép. Chàng định đóng cửa, tôi bảo đừng, để hé đi anh, Nữ chỉ có thể ở đây một lát, phải về trường trước khi trời tối, không có phiền lắm. Đi thế này là liều quá rồi đấy. Chàng giương to mắt có vẻ thất vọng, không lâu được một chút nữa sao Nữ? 

    Cũng muốn lắm chứ. Nếu không thì đâu có lần mò tới đây. Nhưng nội quy nhà trường không cho. Chẳng biết vì sao tôi không nói thế, mà lại hỏi Nhiệm: Lại tìm anh thế này Nhiệm có ý nghĩ coi thường Nữ không? Chàng bất thần ôm xiết lấy tôi, những ngón tay khô khẳng khiu xoa xoa trên tóc tôi. Chàng giấu mặt sau gáy, hơi thở gấp gáp làm tôi nhột nhạt: Lần sau đừng hỏi anh như vậy nghe Nữ. Hỏi anh như vậy là Nữ có ý coi thường anh, có ý khinh anh đấy. Nếu Nữ có lo ngại thì sự lo ngại ấy, cũng chỉ vì tình yêu, vì muốn còn mãi mãi tình yêu ấy. Anh hãy hiểu cho Nữ. Nhiệm hỏi tôi ăn cơm chưa. Tôi đáp, chưa, nhưng không đói. Tôi kể cho chàng nghe là từ ngày chàng đến đây, chiều nào tôi cũng cảm thấy buồn và bồn chồn một cách lạ lùng. Làm như có một cái gì đang đe dọa mà tôi không nhìn thấy rõ nó. Nhiệm bảo: Anh đã tưởng không bao giờ Nữ trở lại nữa. Anh định nếu đến ngày anh dời khỏi đây mà Nữ vẫn chưa trở lại thì trước khi đi, anh sẽ lại thăm Nữ lần chót tại trường học, nếu không thì sẽ viết một lá thư dài. Lá thư hay sự lại thăm đó, có nghĩa như một chấm dứt, một vĩnh biệt, một chấm dứt hoàn toàn mọi liên hệ giữa chúng mình, tuy riêng thâm tâm anh, anh hiểu là không có cách nào để quên được Nữ. Không cách nào xóa nhòa một khi hình bóng đã hiển linh trong tâm thức. Tôi hỏi chàng: Thế bây giờ anh còn muốn chúng mình xa nhau không? Người ta bảo cuộc tình chỉ đẹp khi nó dang dở. Anh nghĩ thế nào? Chàng cười. Nụ cười nửa miệng xa vắng và mơ hồ lãng mạn như chính câu hỏi của tôi. Thơ hay văn, nó có đời sống riêng của nó và nó chỉ có nghĩa trong thế giới riêng đó mà thôi. Người ta thường lầm lẫn khi đồng hóa hay rập khuôn đời sống thực với đời sống không tưởng, tôi cũng cười như vậy, phải chăng anh muốn nói Nữ không tưởng? Đâu, anh đâu muốn nói thế. Anh muốn nói điều xa hơn điều đó. Chẳng hạn sự chung sống… Tôi thấy nóng bừng ở hai tai. Tôi có ao ước gì hơn ngoài điều ấy. Đúng thế tôi đã chẳng từng nói rằng người phụ nữ nào khi yêu cũng chỉ ước ao được lấy người mình yêu dù lấy để rồi phải sống một đời khổ cực vất vả. Nếu tình yêu là một khung trời ngát xanh thì hạnh phúc chính là con chim lạ bay cao lạc trong khoảng trời hy vọng đó. Tôi đưa mắt nhìn ra khuôn cửa mở vào lòng con phố. Nắng đã tắt hẳn. Đèn đã bật sáng. Những tiếng động ì ào từ dưới thấp vẳng đưa lên, đều đều như giọng nói chàng vẫn thoảng đưa bên tai. Tôi không phân biệt những điều chàng nói, chỉ biết chàng nói nhiều thật nhiều và đều. Hơi thở chàng cũng theo nhịp đập của lồng ngực phà từng hơi vào cổ tôi thoát chạy xuống ngực… Người tôi gai lạnh cơ hồ muốn sốt. Mà có lẽ tôi muốn nóng lạnh thật đó. Tôi sờ tay lên trán mình. Cái nóng hầm hập chui qua những đốt tay tôi rung động. Cảm giác chóng mặt lại ùa đến làm tôi xây xẩm lảo đảo đứng không vững. Chàng vội đỡ tôi ngồi xuống mép giường. Chàng nói: In là Nữ bị sốt. Tôi gật đầu. Chắc thế. Chàng bảo tôi cứ tự nhiên, nằm nghỉ giường đó và đứng dậy quày quả đi ra ngoài. Tôi không rõ chàng đi đâu, toan gọi giựt lại thì cánh cửa đã khép kín sau chiếc lưng dài hơi cong cong. Tôi nhớ trong một lá thư gửi cho tôi mới đây, nói về gia đình, chàng bảo, anh chị em chàng ai cũng gù lưng vì ông cụ gù lưng. Tôi viết thư trả lời chàng, đến đoạn đó tôi nói đùa: anh bị gù giống ông cụ, chứ không phải ngồi khuya thức đêm viết thư và tưởng nhớ cô Miện sao. Khi nhận được lá thư tiếp sau, chàng không đá động gì tới câu hỏi của tôi, chỉ nói “Nữ có trí nhớ tốt lắm!” Chưa một ai khen tôi như thế. Chàng là người duy nhất khen tôi có trí nhớ dai. Tôi chẳng thấy đáng hãnh diện gì với lời khen đó cả. Bởi đời sống trong lúc này, người ta phải cố quên bớt đi, có quên bớt mới sống nổi, thế mà quả thực mình có trí nhớ dai như vậy thì đúng là một bất hạnh rồi còn gì nữa. Tôi ngả mình xuống nệm, đầu gối lên chiếc gối còn vương mùi hơi chàng. Tôi cầm tờ nhật báo lên, chưa coi được chữ nào mắt đã sụp xuống. Hơi thở khò khè nặng và cổ họng khô rát. Tôi mơ màng thấy chàng đưa tôi về thăm gia đình chàng ở Sài-gòn. Mẹ chàng nhiều tuổi rồi nhưng trông bề ngoài cũng chưa có vẻ gì già lắm. Bà cụ tiếp chúng tôi ở phòng khách giữa cả chục con mắt tròn xoe ngơ ngác của lũ cháu con ông anh chàng. Lát sau, anh chàng ra và bà cụ lui vào phòng trong. Hai anh em chàng nói chuyện với nhau và không hề đá động gì đến tôi. Một lát người chị dâu chàng, không biết từ đâu, đột nhiên xuất hiện. Chị mặc bộ đồ lụa xanh, trông tươi mát và hạnh phúc tràn đầy, nụ cười duyên dáng. Chị dâu chàng kéo ghế ngồi cạnh tôi. Chị bảo tôi có nghe chú ấy kể chuyện về cô. Bà cụ tôi cũng muốn chú ấy lập gia đình để bớt đi lăng nhăng vừa hại người, tốn tiền mà lại làm người khác lúc nào cũng nơm nớp lo âu. Tôi cười bảo với chị rằng: Tôi làm được gì một khi tính chàng như vậy. Tôi yêu chàng và chỉ biết là mình yêu. Chàng cũng có nói với tôi về chuyện chung sống. Tôi còn phân vân vì e người ta lấy nhau vì tình yêu, nhưng sống lại thường bằng trách nhiệm bổn phận. Những cái đó không phải là tình yêu, nó giết chết tình yêu. 

    Đặc tính của sự chung sống làm bật dậy căng ra lớn phồng lên những chiếc gai nhọn ẩn sâu trong lớp lông mịn là hạnh phúc những ngày đầu. Tôi nghĩ nên ở xa nhau để còn thấy nhau là chim là thỏ chứ đừng vội lại gần để chỉ còn nhìn thấy nhau như nhím như chuột. Chị chàng bảo tôi cứ lo nghĩ vẩn vơ thế chứ, rồi đâu cũng vào đấy cả cho mà coi. Tôi không đáp bụng thầm nghĩ: thì chừng nào hoàn cảnh bắt buộc mình phải nhìn người yêu là chuột là nhím lúc đó hãy hay. Một khi chưa đến độ phải như vậy thì cứ khoan. Khoan đã. Chi vội. 

    Đúng là tôi đã mâu thuẫn với tôi từ quan niệm căn bản mà tôi không biết. Đời sống xuất hiện dưới mắt ta, mỗi phút một khác, và những  ý nghĩ của chúng ta về những cảnh đời đó, cũng vì thế mà đổi thay, như một dòng nước, tưởng nó đứng yên mà thực sự có giây phút nào nó ngừng chuyển động. Tôi cho rằng mình khó có thể là một chủ thể tự chủ, bất biến. Chị chàng nói thêm về một số tính tình đặc biệt của chàng. Tôi vẫn chỉ biết cười lặng lẽ và không có ý kiến. Cô người làm bưng khay nước trà ra. Lúc tôi vừa đưa tay, nhận ly mời từ tay chị dâu chàng thì Nhiệm đẩy cửa bước vào, kéo theo một cơn gió lạnh làm tôi choàng mắt. Bóng tối đã từng lớp dày trong căn phòng. Chàng bật đèn và đem lại cho tôi ly nước. Tôi gượng cười ngồi dậy. Nhiệm xé miếng giấy nylon bọc những viên thuốc đỏ, đưa tôi, bảo uống. Tôi cảm động vì cử chỉ săn sóc của chàng. Tôi nói: Lại thăm anh mà làm phiền anh quá. Chàng không đáp, đặt tay lên trán tôi. Cơn sốt có lẽ đã giảm phần nào. Tôi nghe trong người bớt choáng váng. Tôi uống liền một lúc ba viên thuốc. Chàng âu yếm theo dõi từng cử động nhỏ. Tôi bảo chàng đừng nhìn tôi như vậy. Nữ sợ con mắt nhìn của anh lắm. Thế à. Chàng trả lời và ghé môi hôn tôi. Nước còn láng một lớp mỏng trên môi tôi mọng đỏ. Tôi mím môi nuốt những giọt nước cuối cùng còn sót lại trong miệng. Những giọt nước ấy đem theo mùi thuốc lá cay cay lẫn mùi hơi chàng hắc hắc quen quen. 

    Không biết sức nặng của nụ hôn dài hay thân thể chàng ấn tôi ngã xuống nệm. Tôi không phản kháng, không chống đỡ và cũng không chút tỏ lộ đồng tình. Không thể dùng lời để diễn tả cảm giác tôi lúc đó mà dù cố gắng mấy, cũng chỉ vô ích thôi. Bởi tình yêu không đem lại cho ta những gì khả dĩ có thể dạy lại cho người khác. Nó lầm lì, nó quánh đặc, nó nhuyễn tan, nó lạnh lùng hoảng hốt. Nó như đêm, nó như ngày. Nó là ánh sáng, nó là khí trời, nó là độc dược... Không có lời để nói. Không thể nói là vì tôi không còn là tôi, là tôi lúc đó…

    Dưới thấp, những tiếng động vẫn ì ào vọng lên, có thể là chúng muốn nói một điều gì đó với ai kia nhưng chắc chắn không phải với chúng tôi. Không phải với chúng tôi ít nhất, cũng là lúc này.


11

Thế là xong, tôi lầm bầm nghĩ tới gia đình, tới Nhiệm, tới con Thúy, tới ngôi trường mà tôi sắp dời khỏi, tới ngọn đồi gió, nơi mà tôi đã tưởng những giây phút hạnh phúc nhất của đời mình. Tất cả trộn trạo trong trí tôi, tạo nên một thứ tình cảm hoang mang, bầy nhầy, không rõ.

- Chừng nào mày trở lại đây? Thúy hỏi trong khi bỏ chiếc khăn mặt và bánh xà phòng thơm vào cái bao ny lông cho tôi.

- Cũng phải hết hè. Hy vọng thế. Trở lại sớm hơn cũng vô ích. Phải rồi thật vô ích. Không ai muốn quay về một nơi mà mình không chút cảm tình. Còn mày bao giờ đi. Tôi hỏi Thúy. Nó ngừng tay nhìn tôi. Đôi mắt nó lơ đãng, như lạc về một thế giới nào đó. Nó trả lời ngập ngừng:

- Cũng còn tùy. Tao phải gặp Phụng cái đã. Nhưng dẫu sao thì cũng về qua gia đình.

Tôi cười thầm, nhớ lại câu trả lời của mình, lúc Thúy hỏi đi đâu, tôi đã đáp gọn “về gia đình”. Sự thật thì tôi đã dàn xếp xong mọi chuyện. Vé máy bay mà tôi bỏ sẵn trong xắc đây, là vé máy bay về Sài-gòn. Về nơi mà người tình chung kiếp của tôi đang chờ đợi. Nơi mà cha của đứa bé (tôi hy vọng nó là con trai) trong bụng tôi đang ở. Tôi chắc chàng sẽ sung sướng vô cùng khi nghe tôi báo tin mừng này. Bởi sau những lần gần gũi với chàng, không lần nào chàng không nói đại khái anh muốn có được một đứa con với em. Nó sẽ là sợi dây ràng buộc, giữ vững cho cuộc tình mình. Nó cũng là thứ tối hậu thư dành cho mẹ anh, nếu bà phản đối cuộc tình chúng mình. Phải rồi. Các cụ dẫu không thương dâu chăng nữa, cũng phải thương cháu. Nó là một giọt máu của con trai cụ cơ mà. Và cái tối hậu thư đó, tôi đang mang trong bụng tôi đây. Nó sắp được ba tháng rồi, có khi nó đã được hơn ba tháng rồi cũng nên. Bởi nó bắt đầu “máy” mạnh. Cái “ghen” mà tôi quấn ngang bụng, cách đây một tháng đâu có chặt và tức như giờ đây. Giờ thì nó quá chặt đôi lúc tôi nghẹn thở, tức tức. Nếu đã làm hôn thú với nhau, nếu không sợ điều tiếng, chắc tôi đã bỏ cái “ghen” ra. Tôi thầm thương “thằng nhỏ” vô cùng. Chưa chi mà nó phải chịu bó, cột như vậy. Không biết cái “ghen” tôi đang mang đây, có ảnh hưởng gì đến sức khỏe và sự lớn mạnh của cái thai chăng? Dầu sao tôi cũng cảm thấy mình bất nhẫn khi phải quấn nó quanh bụng. Lý do mà tôi nói với gia đình và được ông cụ chấp thuận cho đi Sài-gòn là một “cuộc du lịch do nhà trường tổ chức”. Cái gì mà dính đến nhà trường là ba tôi chịu ngay. Dù đa nghi mấy, ông cụ cũng yên lòng khi nghe nhà trường tổ chức. Hơn nữa, điều gia đình tôi mong thấy nơi tôi, đó là sự đỗ đạt, ra làm cô giáo. Tôi đã thỏa mãn mong mỏi đó của gia đình một cách khá vẻ vang. Tôi thi ra trường đậu thứ hai mươi chín, trong số năm trăm bốn mươi sáu người đậu. Với hạng đó, chắc chắn tôi sẽ được bộ QGGD, bổ đi dạy ngay, trong niên khóa sắp tới đây. Khi nhà trường bắt các giáo sinh ghi tên ba nơi mà mình muốn bổ nhiệm, tôi đã ghi ngay Sàigòn, Đà Lạt và Huế. Dầu không bắt được về Sài-gòn, nhưng tôi vẫn ghi với hi vọng mong manh, biết đâu, biết đâu, tôi chẳng được về nơi lý tưởng đó. Nếu không được ở Sàigòn thì Đà Lạt cũng được. Mặc dù gia đình tôi, đã dời khỏi Đà Lạt ra Huế lập nghiệp, nhưng tôi vẫn thích ở Đà Lạt hơn Huế. Chàng cũng bảo rằng chàng mê cái không khí ở Đà Lạt lắm. Nếu tôi được bổ về dạy ở Đà Lạt, chàng sẽ xin đổi lên đấy, cùng với tôi. Về việc này, tôi giấu nhẹm gia đình, không cho ai biết. Ngay cả vụ tôi yêu Nhiệm và đã có thai với chàng, cho đến giờ phút này, gia đình tôi vẫn chưa ai hay.

Tôi nhắc thử chiếc va li.

- Nặng lắm không? Thúy hỏi.

Tôi cười:

- Cũng khá. Nhưng không sao. Ra đi xe mà, lo gì.

- Hay để tao đưa mày ra phi trường.

- Thôi. Cám ơn mày. Mình còn gặp lại nhau mà. Tao sợ cảnh tiễn đưa lắm.

Tôi phải gạt đi như vậy, và lấy lý do sợ tiễn đưa cho con Thúy khỏi nghi ngờ. Chứ nếu để nó đưa đi, âm mưu của tôi bị bại lộ hết còn gì. Thế chẳng hóa ra giấu đầu hở đuôi sao.

- Mấy giờ rồi Thúy?

    - Chín giờ năm phút. Mấy giờ thì máy bay cất cánh. 

    - Mười giờ bốn mươi lăm. Nhưng chắc tao phải ra sớm còn cân hành lý, với lại ra sớm cho chắc ăn. Trễ một cái là phiền ghê lắm. A, Thúy này. 

    - Gì. 

    - Mày gửi lời chào lão Hiển dùm tao nghe. Nói rằng vì gấp quá, nên tao không kịp chào và cám ơn lão. Tôi vừa nói vừa cười. Thúy cũng cười theo. 

    - Thằng cha thế mà ngó bộ ngu mày ạ. 

    - Sao lại ngu? 

    - Thì không là gì. Lo từng điểm thi cho mày, để mày đậu cao, rồi cuối cùng cũng công cốc. Lại chẳng được một lời cám ơn nữa. 

    - Tự lão chứ. Tao đâu có nhờ. 

    - Ừ, thế mới dại gái. 

    - Thôi mày. Nói vậy phụ lòng người ta không được mày. Nếu mày có bạo mồm thì mày nói với lão rằng, tao hứa kiếp sao sẽ yêu lão. 

    Chúng tôi cùng phá lên cười lớn. Chính tôi cũng không ngờ, lúc chia tay nhau mà bọn tôi lại có được cái không khí vui vẻ như thế này. Thúy  cười  nghiêng ngả cả tấm thân đã bắt đầu nẩy nở, đẫy đà. Có hơi đàn ông… có khác. Ý tưởng nhảm nhí của tôi bị cắt đứt ngang ngay, khi cái thai “máy” mạnh quá. Tôi nhăn mặt và lo lắng nhìn Thúy. Sợ nó đoán được. 

    - Thôi tao đi nghe mày. 

    - Ừ. Để tao xách cái va li cho. Thúy xách va li xăm xăm bước ra khỏi phòng. Tôi lật đật cầm chiếc xắc tay vài chiếc túi vải theo sau. Trước khi ra khỏi phòng, tôi dừng lại ở bậc cửa, nhìn lần cuối, nơi đã ở. Dù lòng không một chút xót xa, luyến tiếc, dù đã bao nhiêu đêm tôi mong được thoát khỏi bốn bức tường tù hãm này, nhưng lúc này, tôi cũng cảm thấy lòng bâng khuâng xao xuyến. Một cảm xúc nhẹ nhàng, dâng cao rồi tỏa lan khắp tâm hồn tôi. Tôi muốn nói một tiếng gì đó. Một tiếng gì, nghĩa ngang như một vĩnh biệt. Một vĩnh biệt, đúng thế. Bởi không còn mấy ngày nữa, những người con gái khác, sẽ tiếp chân chúng tôi. Họ sẽ lên đây. Họ sẽ ở lại đây, tiếp tục sống lại cái quãng đời mà tôi đã sống. Họ sẽ là những vai kịch mới, đóng lại một vỡ kịch cũ, trên một sân khấu cũng cũ. Họ cũng sẽ rơi vào trường hợp tôi ao ước được ra đi, được sớm thoát khỏi. Và được phép ra đi thì lòng lại bùi ngùi. Một bùi ngùi không đâu, vơ vẩn. 

    Thúy đứng đợi tôi ở đầu cầu thang. Tôi vội rảo cẳng lại phía nó. Lúc qua những phòng ngủ bên cạnh. Qua tấm kính, tôi nhìn thấy khung cảnh bên trong, cũng bàn, drap, hệt như trong phòng tôi. Nghĩa là cũng những chiếc giường sắt đôi, chỉ còn trơ lại những tấm nệm cũ loang lổ nhiều vết bẩn. Mầu drap trắng toát với những chiếc màn cũng trắng toát, đã được tháo gỡ, trả vào kho từ bao giờ. Chỉ còn một hai chiếc, trong trường hợp con Thúy. Hoặc còn kẹt bồ bịch ở đây. Hoặc gia đình xa quá, chưa kịp gởi tiền ra mua vé máy bay trở về.  

    Những bậc thang gợi lại cho tôi câu chuyện đã cũ. Chuyện Hiển tỏ tình ở nhà xe báo hại tôi chạy về đến đây thì ngất xỉu. Chuyện những sớm tôi  lần mò từ thị trấn về đây sau một đêm ngủ ở khách sạn với chàng. Tất cả đều mới xảy ra thôi. Nhưng tôi có cảm tưởng như  đã từ lâu. Từ lâu lắm rồi. Làm như nó đã lùi hẳn vào một khoảng tối tăm nào đó, của dĩ vãng. Làm như nó hoàn toàn xa lạ và dửng dưng đối với tôi. Phải chăng tại tôi đang sửa soạn hay đang bắt đầu bước vào một cuộc đời mới. Một cuộc đời mà tôi sẽ phải cũng như sẽ được hoàn toàn trách nhiệm về đời mình, về những ngày sẽ tới, về những gì sẽ xẩy đến cho đời tôi. Nhưng với tôi lúc này, tương lai chỉ còn là một màu hồng thắm thiết của vẻ vang, đắc thắng hay một màu xanh của hy vọng của hạnh phúc, của những khát khao âm thầm, tưởng không bao giờ đạt được. Nay một phút một chốc, tôi đã có cả, tôi đã được cả. 

    Thúy bước đến bên tôi. Chúng tôi cùng lặng lẽ. Đầu Thúy cúi thấp. Thân nó đổ về đằng trước. Chiếc va li trong tay nó, rung rinh theo nhịp bước. Tôi có cảm tưởng như nó muốn nói với tôi, một điều gì đó. Một điều gì mà tôi cũng linh cảm thấy. Nhưng chỉ linh cảm mà thôi, không thể nói ra, hay giải thích bằng lời nói được. 

    Chúng tôi bước vào hành lang mở vào khu vườn hoa. Khu vườn mà đêm đêm tôi thường đứng trên ban công cao nhìn xuống. Chiếc hành lang này, cũng là nơi mà tôi đã đi qua lại không biết bao nhiêu lần. Tôi đi và mắt nhìn không rời bất cứ một sự vật nào, hiện ra trong tầm thấy. Chúng vẫn ở nguyên vị trí cũ. Chúng vẫn là chúng. Thản nhiên và lạnh nhạt. Chỉ riêng tôi là cảm thấy xa lạ với chúng, như chưa từng trông ngắm. Chỉ riêng tôi cảm thấy quạnh hiu, như sắp mất đi một cái gì vừa thấy mất đi và không bao giờ còn trông mong tìm lại được. Bỗng nhiện, tôi buột miệng, nói với Thúy: 

    - Khi tao đi, còn có mày ở bên cạnh. Không biết rồi lúc mày đi, ai sẽ là người đưa chân mày, Thúy nhỉ. Câu nói của tôi, hoàn toàn không ăn nhập gì tới điều tôi nghĩ trong óc. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại buột mồm nói thế. Để làm gì ? Nó có ăn nhập gì đâu ? 

    Thúy thở dài. Nó nói giọng trầm, như cho chính nó. 

    - Tao cũng nghĩ thế. Rồi ai sẽ xách va li cho tao. Từ chiếc phòng đó. Rồi ai sẽ đợi tao ở đầu cầu thang, ai sẽ đi bên tao, khi ngang qua khu vườn này. Và quan trọng hơn nữa, có ai chờ đợi tao không, nơi tao sẽ đến. 

    Nơi đi và chốn đến. Ừ, đời sống chúng ta, chỉ có thực trong trạng thái vật vờ trong khoảng giữa của hai đầu mâu thuẫn đó. Đi và đến. Đến và đi. Chúng ta sống, phải chăng chỉ để làm chừng đó công việc một cách thụ  động, máy móc. Không thể còn gì khác hơn nữa sao? Không thể còn gì? Tôi nghĩ rằng ít nhất, thì cũng phải có một cái gì khác hơn, quy định bất thành văn đó. Dù cho là một cái gì khác hơn đó, chỉ là một bịa đặt, một giả tạo, bịp lừa chính mình. Cụ thể nhất là nơi mà tôi sẽ tới đây. Nơi mà tôi sẽ đến để rồi sẽ ở lại, nó không chỉ có nghĩa là một chốn đến. Nó cũng không chỉ có nghĩa là một ở lại, thụ động, thản nhiên. Nó là chốn mơ ước. Nó là cõi mơ tưởng. Nó là thiên đàng. Là hạnh phúc. Là đau khổ, dẫu có là đau khổ? Thì nó vẫn có nghĩa của nó. Nó chính là cái mối, đánh dấu một giai đoạn, một chặng đường mà tôi có mặt, mà tôi đã sống. Là một cái gì mà chúng ta không thể chối cãi, cưỡng chống. Nó là một khúc quanh. Một đoạn đường ngắn, trên con lộ định mệnh. 

    Tôi đứng đón xe, trong tầm mắt nhìn tra hỏi của những người chui ra từ dãy nhà tôn thấp ở vệ đường. 


12

Sóng biển khuất sau dãy nhà tôn mái thấp, dồn đuổi vào tai tôi, một nhịp đều và tẻ. Tôi không còn cảm nghe được một nỗi mơ hồ nào vẳng lên từ những con sóng ấy. Những con sóng đã vỗ mềm trí tưởng tôi trong suốt một thời gian đằng đẵng. Nó đã bồi đắp không ít, cho đời tôi, những hoảng hốt, những ngày mất tăm sự sống. 

    - Tao hy vọng mình cùng được dạy một nơi với nhau. Thúy nói, khi nheo mắt nhìn theo chiếc xe nhà binh vừa hút mất ở khúc quanh, chỗ rẽ vào thị trấn. 

    - Mày xin về đâu? Tôi hỏi. 

    - Huế và tại đây. Thúy đáp không suy nghĩ, ngập ngừng. 

    Tôi cười: 

    - Tao không mong mày về Huế bằng được ở lại đây. Vì ở lại đây mày còn có thể tìm lại những gì đã mất. Dù cái mày tìm thấy chỉ là vảng vất của ngày qua. Thế cũng là hạnh phúc rồi. Về làm gì nơi ấy. Nơi mà tất cả mọi liên hệ đã dứt, đã đứt. Tôi nói với Thúy như vậy, có lẽ tai thâm tâm, tôi mong được ở Sài-gòn. Được ở một thành phố hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Nơi tôi chưa hề có một kỷ niệm. Nơi không choán tôi khoảng nhỏ nào của ký ức tôi mù rối. Nhưng điều ấy có sao. Phải rồi có sao đâu. Chưa biết chừng lại là một may mắn. Tôi đến đó để bắt đầu lại đời mình. Để có từ cái không có. Để sống bù cho những tháng ngày đã uổng phí, được ở gần nhau, ở gần bên Thúy, cái tình cảm ấy tốt lắm. Đẹp lắm. Nhưng sự có mặt của một người bạn thân, cạnh cuộc đời mình, không thể là sự có mặt cần thiết của một người tình, một người khác phái. Không có gì thay thế được ngôi vị đó. Nó khuyết là nó mãi mãi trống vắng. Danh vọng tiền bạc không thể lấp đầy được khoảng trống đó. Bố mẹ, anh chị em cũng không thể kế vị, một khi nó mất đi. Hoặc nó đầy, hoặc nó khuyết. Thế thôi. Cũng như nếu một ngày mai, chẳng may tôi mất Nhiệm, mất Nhiệm là mất vĩnh viễn, không một ai thay thế được chàng trong tâm tưởng tôi. Trong một tương lai xa hay gần, có thể tôi sẽ yêu một người khác. Tôi sẽ ôm một người đàn ông nào đó, trong tay. Tôi cũng sẽ có con với họ. Nhưng họ có vị thế của họ. Và một cuộc tình lụn, nó cũng có một chỗ riêng của nó. 

    Chiếc xích lô chờ tôi. Tôi trả giá rồi leo lên. Thúy khom lưng, nhắc chiếc va li đặt vào lòng xe. Nó tần ngần vin tay vào khung sắt gấp nếp, trên thành xe. Tôi cũng bần thần ngó lung khoảng không trước mặt. 

    Nắng hoe vàng trên những đỉnh cây gỗ lác. Người phu xe đặt chân lên bàn đạp. Chiếc xe rung rinh muốn chuyển bánh. Tôi hoảng hốt nắm lấy tay Thúy. Những ngón tay nó run lên, trong bàn tay tôi phủ kín. Chiếc xe khựng yên, như không thể chạy được nữa. Chúng tôi không dám nhìn nhau. Hình như hai đứa cùng cố ý tránh ánh mắt của nhau. 

    Chưa bao giờ tôi thấy lòng mình lả đi nhẽo xèo gần như nhuyễn tan đến thế. Tôi cũng không thể ngờ giờ phút này, tôi lại bỗng đau đớn không muốn đi. Tôi muốn ở lại. Muốn nhảy xuống ngay lập tức. Tôi muốn ôm Thúy và khóc, khóc cho hả. Khóc cho cạn nước mắt. Dù không biết rằng khóc như thế để làm gì và bởi đâu. Cũng không một ý tưởng nào bật sáng trong óc tôi. Tất cả đều lợn cợn, lộn xộn. Tất cả đều như không còn mang một nghĩa gì. Có lẽ chúng tôi đang bị đặt trước một công trình vĩ đại, do chính mình dựng lên và nay đã đổ nát, vụn tan ngay dưới chân mình, bởi chính tay mình. Trong một phút mơ hồ, tôi đã gọi tên Thúy. Tiếng nói tôi hình như không thoát ra, vì chính tai tôi cũng không nghe thấy gì ngoài tiếng sóng vỗ đều, vỗ đều đã từ hai năm nay. Nhưng tâm hồn tôi lại cảm nghe rõ lắm. Thật rõ. Tiếng ai đó, không phải giọng tôi, gọi Thúy. Không in là giọng tôi gọi đó. Một tiếng kêu thương vang lên từ tiềm thức, từ hư vô? Hay chính là tiếng kêu tên tôi, trở về định mệnh nào đã an bài, phơi lộ… 

    Bất thần, Thúy rút nhanh tay về. Nó ù té chạy. Tôi không ngoái nhìn nhưng biết rõ, những giọt nước nong nóng, từ đâu lăn đều trên hai gò má tôi như bánh xe cao su, sàn sạt trên mặt nhựa  đầy cát, lăn đến một nơi nào, tôi đã nói. 

    Ở đàng xa, xa tít, chiếc máy bay lượn vòng rồi chao cánh xuống thấp. 

    Buổi sáng nắng căng đổ trên con lộ bụi lấm. Tôi mặc cho thân thể lắc lư theo nhịp xe chuyển động. Những vòng nan quay đều, trong trí làm tôi dần dần trở về trạng thái cũ. Những nôn nả, những thắc mắc vẩn vơ, lại theo đà phóng tới. Nghĩ đến chàng, bất giác tôi mỉm cười, một mình. Cái mà tôi chắc một đời tôi không thể nào quên được là vẻ lúng túng của chàng lúc đưa tôi vào khách sạn. Lẽ ra thì chính tôi chỉ tôi là kẻ lúng túng, lo sợ. Ấy thế mà chàng lại run rẩy ngượng ngùng. Tôi nhận ra điều này khi chàng lóng cóng tra chiếc chìa khóa đồng, to bản vào ổ khóa lẩn trong cánh cửa. Khi ấy là lần đầu tiên chàng ra đây thăm tôi, và cũng là lần đầu tiên, tôi nhận lời đến thăm nơi chàng ở. Thực tình, tôi không nghĩ rằng cái buổi trưa đó lại là buổi của định mệnh, định mệnh một khắc gắn chết đời chúng tôi vào nhau.  

    Tôi nhớ, khi chàng ghé môi hôn, tôi cảm tưởng như ở môi chàng có tẩm nhiều nọc độc, thứ nọc độc của rắn tiêm vào đâu, ở đó thịt da tê dại, thần trí ngẩn ngơ, tan loãng, cho đến lúc tay chàng chạm vào ngực tôi thì hầu như tôi không còn là tôi nữa. Mọi tế bào trong người tôi phụt vỡ, những dây thần kinh như bị bàn tay vô hình nào kéo căng. Máu giần giật chảy. Những sợi tóc dài xuôi trên vai tôi, chừng như cũng muốn dóc xuống trên một thân thể dọng ngươc. 

    “Đừng anh… Đừng anh…” tôi van xin chàng. “Đừng anh… Đừng anh…” tôi năn nỉ chàng. “Đừng anh… Đừng anh…” Tôi đã nói thế với chàng không biết để làm gì? Để làm gì và có lẽ chính chàng cũng không nghe rõ lời kêu líu ríu ấy. 

    Tôi không bao giờ tự coi mình như một đồ vật được treo giá cao để mặc cả với tương lai. Khi tôi không đem tất cả những gì có nơi tôi để mặc cả với tương lai, thì không lý gì tôi phải đắn đo với hiện tại vì cân nhắc bằng vào kinh nghiệm quá khứ. Tình yêu không là một kinh nghiệm, nó là sự sống hay lẽ chết tùy theo diễn biến của cuộc tình. Có thể quan niệm của tôi sẽ bị nhiều người liệt vào “loại đợt sống mới” với một giọng mỉa mai giễu cợt. Nhưng dầu thế nào chăng nữa thì tôi sinh ra để sống cuộc đời tôi chứ nào để tùy thuộc nơi kẻ khác. Sống hay chết lúc này đều chỉ còn có nghĩa như một nhục nhã, một bất lực khôn bề vượt quá. Tôi phải chọn cho tôi một lối thoát chứ. Một đánh lừa thì đúng hơn, để dìm đắm mình trong đó, để ít nhứt còn thấy đời mình đáng sống. 

    “… Anh không biết làm sao khác hơn… anh yêu Nữ quá. Hãy hiểu cho anh.” 

    Nỗi đắm say rạo rực này. Nếu trong hoàn cảnh nào người ta cũng tìm thấy một hy vọng, thì hy vọng của anh ở đây là tình yêu nơi Nữ. Bây giờ không ai được sống đúng đời mình. Sự gian khổ, ngụy tín đã là căn bản của mọi cảnh đời, chỉ tình yêu mới đem đến cho ta những phút giây sống thực, và những phút giây này thường ngắn ngủi. Anh xin Nữ hãy cho anh một phút được sống đúng đời anh. Tôi lúc ấy như một chiếc chong chóng bằng giấy mỏng manh, quay tít trong cơn lốc nhỏ là những lời nói thì thầm đứt quãng của chàng. 

    Chiếc phi cơ quần một vòng rồi là là đáp xuống. Tôi choàng tỉnh khi tiếng nói trong suốt, dịu dàng của cô chiêu đãi viên hàng không nhắc nhở hành khách soát lại dây an toàn. 

    Qua khung kính nhỏ, phi trường mở lớn với những vạch sơn xanh đỏ, thẳng mút mắt. Thân tầu rung rinh lừ đừ bò tới. 

    Nắng chiều còn ấm và vàng nhòe một khoảng sân bóng. Mình mẩy tôi ê ẩm, đau nhừ nhưng trí óc lại vô cùng sáng suốt. Nhớ lúc ngồi đợi máy bay ở ga Bình Định, một bà già cỡ gần năm mươi, không biết căn cứ vào đâu, bỗng dưng hỏi tôi: 

    - Cô hai có thai được mấy tháng rồi? 

    Thoạt tôi ngỡ ngàng, ngó sững bà ta, vẻ mặt bà thản nhiên không lộ một chút gì soi mói hay ngờ vực. Tôi chợt nhớ ra trường hợp mình, vội mỉm cười đáp: 

    - Dạ ba tháng. Gần ba tháng. 

    - Chắc con so? Bà nói tiếp. 

    Tôi gật đầu: 

    - Vâng, con so. Câu chuyện loanh quanh dẫn tới chàng. Tôi bảo “nhà tôi” làm lính trong Sàigòn. Ngồi bàn giấy, nhưng thỉnh thoảng cũng phải đi theo những cuộc hành quân bất thường. 

    Bà ta bảo: 

    - Dậy là phước rồi đó nghe. Có phước lắm.  

    Tôi cũng nghĩ thế. Thời buổi này, có gì để mà đòi hỏi hơn. Tôi tưởng tượng tới khuôn mặt chàng rạng rỡ trong đám đông những người đón thân nhân ở sân bay. Tôi cũng hình dung ra ngôi nhà mà tôi sẽ đến, ở và biết đâu tôi chẳng sinh nở tại đó. 

    Ngôi nhà theo lời chàng, lọt trong một khu nhiều  lạch, nước lên xuống ngày hai lần. Căn nhà có một cái hiên nhỏ thừa ra, với những thanh gỗ rào quanh đã mục, gẫy. Ở góc trong của chiếc sân nhỏ đó, là cây trứng cá, do người chủ trước trồng. Người chủ cũ hình như đã qua đời sau một cơn bạo bệnh. Người vợ trẻ với ba đứa con thơ sang nhà cho một người  hàng xóm, bồng con đi phương khác. Không ai biết đi đâu, nhưng có người trông thấy chị ta đi với Mỹ. Người hàng xóm sang được căn nhà ấy với một giá rẻ mạt đã cho người bạn của chàng thuê lại. 

    Căn nhà có hai gian và một chái nhỏ ở ngay bên hông. Chúng tôi sẽ ở cái chái đó. Vợ chồng người bạn ở gian trong và gian ngoài dùng làm phòng khách chung cho cả hai gia đình. Ừ, hai gia đình. Chữ gia đình âm vang trong óc tôi một cảm giác lạ lùng, ngượng ngập. Ồ, sao lại ngượng nhỉ. Tôi với chàng hai đứa chẳng tạo nên một gia đình rồi sao. Cũng như ai chứ bộ… Tôi mường tượng tới lúc được tiếp bạn bè chàng trong ngôi nhà hai gian một chái đó. Tôi băn khoăn không biết họ gọi tôi bằng chi đây? Bà Nhiệm. Chị Nhiệm? Hay chỉ mỗi chữ chị không thôi? Ôi chao, thế nào chẳng được. Điều quan trọng là chúng tôi được ở bên nhau, được ở bên chàng. Và miễn chàng hết mực yêu tôi. Thế là quá đủ rồi. 

    Mỗi ngày, tôi sẽ đi chợ ở chiếc chợ con, nhóm ngay trong con hẻm đó. Tôi sẽ làm cơm ngày hai bữa, dọn sẵn, chờ chàng về. Tất cả những kinh nghiệm nấu nướng  mà thời gian sống trong gia đình, với mẹ tôi, học được bao nhiêu, chắc tôi sẽ đem hết ra để làm vừa lòng chàng. Để chàng phải vừa ăn vừa tấm tắc khen tài nấu bếp của tôi. Có thể, chàng phải buột miệng: “Anh thực không ngờ Nữ làm cơm khéo thế”. Và tôi chỉ cười, chỉ cười thôi, chứ nói gì được. Cười và sung sướng nhìn chàng ăn món ăn tôi làm với tất cả tâm hồn và tình yêu dồn ủ trong đó. Tôi nhớ chàng nhiều lần bảo tôi, anh ăn giản dị lắm. Thịt kho và rau muống. Ăn suốt đời cũng được. Rau muống, người Bắc mà. Phải rồi. Tôi sẽ xào những cọng rau muống xanh non. Tôi sẽ giã nát những nhánh tỏi, bỏ vào chảo, trước khi hạ xuống, sớt ra đĩa. Tôi sẽ tập bằng mọi cách để biến thành người Bắc. Người Bắc thực sự từ cách nấu bếp tới giọng nói, từ cách mời cơm, tới những lời chào hỏi mỗi khi có người lạ lại chơi. Chừng đó, chắc chàng sẽ thương tôi lắm. Chàng sẽ đưa tôi đi xi nê mỗi tuần. Lâu lâu, chàng sẽ cho tôi ăn mì trong Chợ Lớn. Tôi bảo bà bạn mới quen rằng: 

    - Nhà cháu người Bắc, thưa bác. Mới lấy nhau nhà cửa không có, nên phải ở mướn. Nói rồi tôi mới chợt thấy câu nói của mình vô duyên, vô duyên tệ. Khi không đem chuyện riêng của mình kể tông tông cho người ta nghe trong khi người ta không hề tra khảo. Nhưng bà bạn mới của tôi, vẫn mỉm cười, dễ dãi. 

    Bà ta đáp: 

    - Vậy hả. Vậy là tốt dữ đa. Vợ chồng mới cưới, còn nhỏ tuổi lo chi nhà cửa vội cho mệt. Thủng thẳng rồi đâu cũng vào đó à. Ai lúc đầu không vậy. Người Bắc ưa cưng vợ lắm đó nghen. 

    Tôi sung sướng đỏ mặt. Rồi chừng như cao hứng sao đó, tôi lại tỉ tê kể cho bà ta nghe ngôi nhà mà tôi sẽ ở. Cứ y như ngôi nhà ấy đã quen thuộc với tôi từ lâu lắm. Tôi cũng nói ra luôn cho bà ta nghe về người bạn chàng, vợ chồng người bạn ở cùng với tôi, anh chị Nguyễn. Tôi không hề biết mặt ngang mũi dọc của anh Nguyễn ra làm sao, nhưng tôi vẫn tả về anh ấy, bằng vào những lời chàng nói với tôi. Chẳng hạn, Nguyễn đi dạy học. Chị vợ ở nhà nhận may thêm quần áo cho lối xóm. Hai người sống với nhau có vẻ hạnh phúc và êm thấm lắm. Chỉ tiếc một điều là họ muộn con quá. Nghe đâu lý do là tại phía người vợ, bởi trước khi lấy chị này, anh Nguyễn đã có một thời gian ăn ở với một người đàn bà khác và có với người đó hai đứa con. Có lẽ những lúc kể chuyện cà kê là lúc tôi đàn bà nhất. Bởi không nói thì thôi, hễ đã nói rồi là tôi ưa nói lòng thòng về cả những chi tiết lẽ ra không nên nói vì thêm rối rắm lung tung mà thôi. Không phải tôi không biết cái tật ấy của mình, tôi biết lắm chứ, nhưng sửa hoài không được. Mỗi lần nói với chàng, tôi cũng ưa dài dòng như vậy. Thường tôi hay kể cho chàng nghe những chuyện vặt vãnh xẩy ra trong lớp tôi, chuyện những con bạn tôi nói thế này, bảo thế kia, mà những con bạn đó, chàng không hề biết nó là ai. Có lần chàng đã sốt ruột mắng yêu tôi: “Em thật đúng là đàn bà”. Không lẽ em là đàn ông sao? Đàn ông thì làm sao yêu anh được. Tôi trả lời liền như thế. Cuối cùng không đứa nào chịu thua đứa nào, chàng cười ngặt nghẽo và ôm xiết lấy tôi: Anh tiếc không ăn được thịt em… 

    Tôi muốn trong tương lai, tôi cũng có một chiếc máy may, một chiếc máy may cũ thôi, mua lại cho rẻ. Tôi sẽ không may thuê như vợ Nguyễn. Tôi muốn chỉ may cho chàng và lũ con tôi. Trẻ con, người ta thường nói lớn mau như thổi. Quần áo cho chúng nó có khi may không kịp, nên có cái máy may trong nhà thiệt là một điều cần thiết. Hơn nữa, những khuya chàng làm việc, con cái đã đi ngủ cả, tôi thí dụ thế, tôi sẽ ngồi may để thức thi với chàng. Tôi tiếc là cảnh chồng đọc sách vợ dệt cửi ngày nay không còn thấy nữa. Tôi thích cái hình ảnh ấy lắm, vì tôi nghĩ nó Việt Nam vô cùng. Bây giờ không những nó không còn mà tất cả những gì của Việ Nam cũng không còn thấy. Chung quanh tôi, giữa đời sống tôi, chỉ còn là những gì rất lạ, lạ hoắc, lạ đến ngay cả con người, nhiều khi, tôi không thể phân biệt được họ là Việt Nam hay là một giống dân nào, - một giống dân lai? một tổng hợp của nhiều sắc dân, không sắc thái? 

    Có thể ý nghĩ của tôi bị ảnh hưởng nhiều bởi văn thơ lãng mạn, thứ lãng mạn mà người thời nay gọi là lãng mạn thời tiền chiến. Dù lãng mạn ấy thế nào, thuộc thời nào thì lúc nầy nó vẫn là một cần thiết. Nếu không có nó đời sống người ta sẽ không còn đáng gọi là đời sống nữa, nhất là trong trạng huống xã hội ngày nay. Đôi khi tôi nghĩ những người sống không một chút mơ mộng, một giây phút thụ hưởng được cái lãng mạn viển vông, vô ích, thì đời sống ấy có hơn gì con vật! Tôi nói cho chàng nghe điểm đó. Chàng đồng ý gật đầu, nhưng bảo: “Chính đời sống nhìn từ một phía nào đó lại là những lưỡi dao bén cứa đứt, chặt rời những dự tưởng của con người.” 

    Có nhiều người trở nên khô khan, cằn cỗi, không phải vì bản chất họ thế, nhưng chính đời sống đã xô họ tới bước đường cùng quẫn đó. Song song với mỗi cảnh đời là một tuyệt lộ, canh cánh bên mỗi đời sống là một hố thẳm, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng có thể sa chân vào đó, ngã vùi dưới ấy, chỉ cần một chút lơ đễnh một thoáng vô tình. Dẫu sao thì chúng ta cũng mừng thầm khi thấy mình còn có thể mơ mộng được. Còn có những nhớ nhung thương tiếc vơ vẩn, hay cao hơn, chúng ta còn yêu được. Dù chúng ta yêu chính tình yêu hay yêu lầm cái bóng của nó. Ta thường có những lầm lẫn về tình yêu. Chẳng hạn như khi người ta xây dựng nó trên những đắn đo, suy tính. Một tình yêu đích thực tự nó không có một căn bản nào. Nó không hình thành trên những bảo đảm vững bền của vật chất  của những yếu tố thực tiễn, nó cũng chẳng chỉ có nghĩa là một rung động thuần chất. Nó gò bó, tình cờ, thản nhiên, tất thế như một định mệnh, không thể khác hơn.

    Thâm tâm về điểm này, tôi không đồng ý với chàng. Chắc chắn trong tương lai, nếu có thể nào, tôi cũng không thể yêu một ai, như đã yêu chàng. Nhưng phía chàng tôi có cảm tưởng như tất cả sẽ ngược lại. Tôi tin vậy. Nếu mất tôi hoặc sau thời gian yêu tôi, chàng sẽ chán, chàng sẽ hết yêu và biết đâu chàng chẳng tìm đến người khác. Một kẻ nào, ví dụ X… Có thể thế lắm chứ.

    Trong cuộc tình, người phụ nữ càng thiết tha đắm đuối hơn với thời gian thì người  đàn ông, ngược lại chỉ nồng nàn mãnh liệt ở giai đoạn đầu rồi phai lạt dần ở những đoạn kế tiếp.

    Tôi nói với chàng rằng: Nữ không lo cho cuộc tình mình ở lúc này, mà Nữ thường hoảng hốt khi nghĩ tới thời gian một vài năm nữa. Chàng cười. Chàng bảo tôi lẩn thẩn. Tại sao lại nghi ngờ nhau trong những ngày sẽ tới, khi chính ra, ở những ngày sẽ tới, mình sẽ khắng khít nhau hơn, với những đứa con sẽ có. Chàng cũng nhắc lại dự tính của hai đứa. Chúng tôi mong có chừng ba hay bốn đứa con. Bốn đứa thôi. Hai trai, hai gái. Chàng thích nhiều con gái và muốn có con gái đầu lòng (để giống mẹ nó) trong khi tôi thích nhiều con trai và nên là con trai đầu lòng (để giống bố nó). Chuyện thoạt tưởng không có gì nhưng sau nó biến thành một cuộc “tranh chấp nặng nề và gay go”. Cuối cùng, chúng tôi phải tìm đến một thỏa hiệp như đã tính ở trên nghĩa là phải chia đều… Giờ ngồi nghĩ lại, tôi thấy buồn cười về lời giao ước của chúng tôi. Làm sao có thể đinh ninh là hai trai hai gái. Nhưng nếu có thiệt thòi thì tôi van vái trời xin nghiêng phần thiệt thòi đó về phía tôi. Nghĩa là tôi sẵn sang vui mừng khi có nhiều thấy gái hơn trai. Sau khi chia nhau đồng đều, chúng tôi còn bàn tính tới việc hướng dẫn nghề nghiệp chuyên môn cho mỗi đứa. Về điểm này chúng tôi cũng cãi nhau kịch liệt không kém.  Chàng thì nhất định dự trù sau này mấy đứa con trai đừng đứa nào bị rơi vào trường hợp của chàng… Tôi thì ngược lại, mong có một đứa đi lính. Những đứa còn lại sẽ tuần tự làm những nghề tự do như nghề báo, buôn bán, nhà in… Riêng nghề dạy học bất đắc dĩ của tôi, tôi không muốn một đứa nào theo, thì chàng lại nằng nặc đòi phải có ít nhất một đứa. Chàng cũng khẳng định luôn, là đứa đầu lòng. Con trưởng sẽ là đứa lãnh trách nhiệm trông nom, hướng dẫn tinh thần các em, nên nó phải chọn nghề mô phạm. Sở dĩ tôi không muốn một đứa nào, con tôi, theo nghề bạc bẽo mà tình cờ tôi đã mang vào thân vì đã từ lâu, nó không còn là một nghề nghiệp cao đẹp thiêng liêng như trong sách vở người ta thường ca ngợi nữa. Nó trở thành một cái gì ngược lại. Nó chỉ còn là một lừa dối gạt gẫm, một cách bất nhẫn. Sự dối gạt những tâm hồn thơ trẻ, khi chúng chưa có một chút ý thức nào về đời sống thực ở bên ngoài. Mà chính đời sống ở bên ngoài đó, mới là đời sống mà chúng ta sẽ phải ngụp lặn, trở xoay khi lớn lên. Còn gì bi đát hơn, khi chúng ta dạy cho trẻ thơ có một ý niệm về quê hương, về tổ quốc, về danh dự, về tự do, về dân chủ, về… rất nhiều điều khác nữa mà tôi không thể nói ra ở đây, để rồi khi lớn lên, chúng sẽ không thấy gì hơn, ngoài những điều trái ngược với cái chúng ta nhập tâm. Chính chúng ta đã bị lừa gạt, chính chúng ta đã từng phẫn nộ khi nhận ra sự phỉnh gạt trên thì tại sao chúng ta lại đâm vào vết xe đó để làm gì? 

    Tuy nghĩ vậy, nhưng cuối cùng, tôi cũng đành gật đầu tuân theo ý chàng. Tôi gật đầu, thuận theo như  vậy là bởi tình yêu, bởi tôi luôn muốn làm hài lòng chàng. Thành ra rút lại, những cuộc bàn cãi của hai đứa tôi, bao giờ cũng chỉ bàn cãi cho vui thôi. Tôi luôn muốn tôi là đàn bà, trước khi là cái gì khác. 

    Làm đàn bà, nếu không giữ đúng được vai trò là một bóng mát, cho một quãng đời người, thì cũng đừng đến nỗi trở thành cái bóng nắng trong một chuỗi ngày đen.

    Chiếc phi cơ dừng hẳn. Máy tắt. Cánh cửa tàu mở lớn. Cô chiêu đãi viên với chiếc mũ chào mào nhỏ xíu trên đầu, đã tươi cười ở đầu cầu thang.

    Khi tôi ngang qua hình như cô ta mỉm cười, chào. Tôi cũng mỉm cười, đáp lại nụ cười tôi thân thiết làm như đã quen nhau từ lâu lắm. Chỉ riêng tôi, tôi mới biết lý do nào khiến tôi lại mỉm cười một cách tươi tắn, dễ dàng và đằm thắm như vậy. Bởi lòng tôi rộn rã, bừng bừng, một hạnh phúc chứa chan ảnh hình chàng. Ảnh hình chàng lẫn trong đám đông ở nhà ga phi trường?

    Trời không nắng chói, nhưng tôi cũng đưa tay ngang trán, nheo mắt tìm thử trong đám đông đang xì xầm, chỉ trỏ một bóng dáng quen thuộc, lạ là không có chàng. Chắc chàng không đứng ở đó, chàng đứng ở ngoài? Ờ có thể chàng còn phải trông chừng chiếc solex cũ, đã có lần chàng nói với tôi về nó. Chàng quý nó lắm, chàng bảo nếu không có nó, anh không khác gì người cụt chân. Tôi nói như vậy là anh đi ghê lắm. Chàng giơ tay tát yêu vào má tôi: Gớm. Người đâu mà thông minh thế. Vừa thôi chứ, cho người khác sống với. Thực thì đúng như Nữ nói. Nhưng anh đi nhiều tại ở một mình. Một mình nên phải đi nhiều. Để quên tất cả, ngay con người mình. Người ta có thể cả đời dõi theo một hình bóng, nhưng không thể cả ngày ngồi ngó bóng mình.

    Anh hy vọng khi có Nữ ở bên, tình trạng đó sẽ chấm dứt. Anh không muốn nói Nữ là sợi cương quanh cổ anh, hay miếng da che nửa mắt anh, để không còn nhìn thấy gì ngoài hướng trước mặt, mà Nữ là cái đắp bù cho khoảng trống thiếu, khả dĩ cho anh thấy đời còn chút ý nghĩa.

    Sự có mặt của tình yêu, trong đời sống con người không phải là để ràng buộc cầm giữ mà để nâng dắt nhau bước đi về một phía nào đó, phía mặt trời, phía hạnh phúc. 

    Tôi lảo đảo khi chạm chân xuống xi măng vì cái thai đột nhiên “máy” mạnh quá. Theo chân mọi người, ra phía cửa chính, đúng như tôi đã dự đoán chàng không có ở đó. Tôi hơi hoang mang, lo lắng, nhưng lại trấn tĩnh được mình; chắc chàng ở ngoài, coi xe. Rồi mình sẽ ngồi sau chiếc xe ọp ẹp đó, qua rất nhiều đường phố, cùng chàng. Tôi lấn mấy người đi trước, xăm xăm bước ra. Qua chỗ kiểm soát hành lý, qua chỗ bán vé, tới sân ngoài, vẫn không thấy chàng đâu. Tôi đặt vali xuống đất, tựa lưng vào chiếc cột lớn cho đỡ mệt. Mắt tôi không ngừng theo dõi từng động tác của những người xuất hiện trong tầm mắt. Hay chàng ra trễ? Hay chàng không nhận được điện tín của tôi? Không lý thế! Điện tín gửi cho chàng tôi đánh trước đây cả tuần lễ. Hay chàng đi hành quân? Hay chàng đau… Hay… Hay… Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu giả thiết về những trường hợp bất ngờ nhất, lần lượt nẩy lên trong óc tôi. Chúng tuần tự vụt đến, như những phát tên ghim sâu vào tim làm tôi choáng váng. Tôi tự gia hạn cho mình thêm mười phút. Thêm năm phút. Thêm mười phút nữa. Biết đâu. Ừ, biết đâu. 

    Nắng nhạt dần. Chiếc xe ca đậu đã bắt đầu vắng trống. 

    Tôi giật mình khi nắng đã rút hết. Những cây sù sì sừng sững ngó tôi trân trối. Mấy cô bán vé và cả mấy người phu khuân vác cũng đã từ từ ra về. Họ qua mặt tôi, không ai quên ngó tôi bằng con mắt tọc mạch, ngột ngạt. Tôi cắn chặt môi, cố để đừng bật khóc. Cuối cùng, lúc không thể đừng được nữa, tôi đành cúi xuống, nhắc chiếc vali lên, nước mắt bỗng ứa đầy hai khóe. Trong tôi như có cả một đời đau thương vừa sụp đổ. Những mạch ngầm thi nhau phụt tung vỡ thành nỗi tủi thân, nhọc nhằn, ê chề, ứ nghẹn cổ họng. Chiếc vali nặng như chỉ chực tuột rơi khỏi bàn tay tôi run rẩy. Tôi không còn sức để giữ gìn nữa. Tôi đã tuyệt vọng. Hoàn toàn tuyệt vọng. Mặc cho trước mắt tiếp tục chảy, tôi lếch thếch lết từng bước chân chì nặng, lần ra con đường dẫn vào thành phố. Trí tưởng tôi chưa bao giờ mường tượng được nỗi khổ nhục đến thế này. Nếu có chuyến máy bay về Bình Định, chắc tôi sẽ leo lên, về ngay. Về ngay. Không luyến tiếc, không ân hận. Dẫu chưa rõ lý do chàng không tới đón, lòng tôi cũng đã ứ tràn hờn giận. Tôi định bụng, lát nữa, lúc gặp chàng rồi tôi sẽ chỉ khóc. Nhất định chỉ khóc thôi, không nói, không nói, một lời nào. Kệ chàng lạy van, khẩn khoản xin lỗi. 

    Khi ngang qua khu vườn hoa, nằm bên mé tay trái bỗng một chiếc du lịch xịch đậu ngang mặt tôi. Tôi liếc mắt nhìn. Lạ hoắc. Chưa kịp bước đi, chợt tôi nghe một giọng nói từ sau xe vẳng ra: 

    - Không có người đón sao mà về tội nghiệp vậy. Lên đây luôn đi em. Tui đưa về cho. 

    Lúc ấy, tôi mới nhận ra bà già đã quen khi ngồi chờ máy bay ở phi trường Bình Định. Nửa mừng nửa tủi, tôi nói lí nhí: 

    - Dạ, nhờ bác làm ơn cho cháu về đường… Không hiểu sao nhà cháu không ra đón. 

    - Ồ, chắc bận mần công chuyện chớ gì. Nhà binh thì công chuyện đâu có nhất định được. Thôi lên đây đi. May là tui cũng đợi một người ở Đà Lạt về nhưng không thấy, chớ không thì tui đâm về lâu rồi.    

    Miệng nói, tay bà ta đẩy cánh cửa sau, kéo tôi lên. Thái độ mau mắn, đon đả bà ta càng làm tôi tủi thân hơn. 

    Ngả người vào nệm xe, nước mắt tôi lại ứa ra. Sợ bà ta nhìn thấy, tôi vội quay mặt vào lề đường. Cảnh vật vùn vụt giăng hàng trong mắt tôi. Người tài xế quay ra sau, nói gì với bà bạn mới, tôi không nghe rõ, cũng không nhận ra một hình thù nào bên đường. 

    Tôi bỗng cảm thấy chóng mặt, muốn ói. Con ơi. Đừng hành hạ mẹ nữa. Cha con bỏ mặc mẹ như vầy chưa đủ sao mà con còn hành hạ mẹ thêm chi. Con ơi. Tôi đặt tay lên bụng, chỗ tôi gò u lên một cục. Tôi nói thầm với nó trong khi nước mắt vẫn chảy ướt cả ống tay áo. 

    Trời tối. Đèn đường đã bật sang. Ánh điện yếu và xanh lướt. Tôi mơ hồ thấy hồn mình bay lạc trên những ngọn cây đen sẫm. Gió lọt vào xe thoát ra tạo thành tiếng vu… vu… Trời lạnh, tôi muốn ớn da gà. 

    Không ai nói gì. Con đường vẫn mở dài trước mặt. Bóng tối. Ôi, bóng tối đó. Con thấy chăng? Hỡi con trong bụng mẹ. 





Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Du Tử Lê Thơ Toàn Tập/ Trọn bộ 4 tập, trên 2000 trang
Cơ sở HT Productions cùng với công ty Amazon đã ấn hành Tuyển tập tùy bút “Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời” của nhà thơ Du Tử Lê.
Trường hợp muốn có chữ ký tác giả để lưu niệm, ở Việt Nam, xin liên lạc với Cô Sóc, tel.: 090-360-4722. Ngoài Việt Nam, xin liên lạc với Ms. Phan Hạnh Tuyền, Email:phanhanhtuyen@gmail.com
Ở lần tái bản này, ngoài phần hiệu đính, cơ sở HT Productions còn có phần hình ảnh trên dưới 50 tác giả được đề cập trong sách.
TÁC GIẢ
(Xem: 21392)
Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu, ra sao, thế nào khi đứng trước khu rừng có quá nhiều những gốc lạ, quý? Khu rừng thuộc quyền sở hữu của người dựng thành đêm-từ-biệt…Trần.
(Xem: 16121)
Đề cập tới sự nghiệp âm nhạc giá trị của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nếu chỉ nói tới khía cạnh thơ phổ nhạc (dù cho ông được ghi nhận như một thiên tài) mà không đề cập tới những lãnh vực khác, tôi cho là một thiếu sót không thể tha thứ.
(Xem: 17782)
Tuy nhiên, thế hệ 1940-1950, cũng lại là thế hệ cung cấp cho văn chương miền Nam 20 năm, những bài thơ, những trang
(Xem: 10484)
Loạt bài của Nguyên Vũ / Vũ Ngự Chiêu được độc giả, nhất là giới quân nhân đón nhận nồng nhiệt
(Xem: 19024)
Ông là một nhà văn nổi tiếng của miền Nam.
(Xem: 5294)
Tôi mượn câu thơ kết trong bài 'Đêm, nhớ trăng Sài Gòn' của Du Tử Lê để làm tựa cho bài viết này, bài viết về ông: Du Tử Lê - một nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn đối với văn chương Việt Nam.
(Xem: 1980)
Nói một cách dễ hiểu hơn, thơ ông phù hợp với kích cỡ tôi, kích cỡ tâm hồn tôi, phù hợp với khả năng lãnh nhận, thu vào của tôi, và trong con mắt thẩm mỹ tôi,
(Xem: 2593)
Chúng tôi quen anh vào cuối năm 1972.
(Xem: 2374)
Anh chưa đến hay anh không đến?!
(Xem: 23699)
Giờ đây tất cả mọi danh xưng: Nhà văn. Thi sĩ. Đại thi hào. Thi bá…với con, với mẹ, với gia đình nhỏ của mình đều vô nghĩa. 3 chữ DU-TỬ-LÊ chả có mảy may giá trị, nếu nó không đứng sau cụm từ “Người đã thoát bệnh ung thư”.
(Xem: 20143)
Tình Sầu Du Tử Lê - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Phạm Duy - Tiếng hát: Thái Thanh
(Xem: 8973)
Nhưng, khi em về nhà ngày hôm nay, thì bố của em, đã không còn.
(Xem: 10064)
Thơ Du Tử Lê, nhạc: Trần Duy Đức
(Xem: 9345)
Thời gian vừa qua, nhà thơ Du Tử Lê có nhận trả lời phỏng vấn hai đài truyền hình ở miền nam Cali là SET/TV và V-Star-TV.
(Xem: 12520)
Triển lãm tranh của Du Tử Lê, được tổ chức tại tư gia của ông bà Nhạc Sĩ Đăng Khánh-Phương Hoa
(Xem: 31973)
Tôi gọi thơ Du Tử Lê là thơ áo vàng, thơ vô địch, thơ về đầu.
(Xem: 21632)
12-18-2009 Nhà thơ Du Tử Lê phỏng vấn nhạc sĩ Thân Trọng Uyên Phươn
(Xem: 26781)
Khi gối đầu lên ngực em - Thơ Du Tử Lê - Nhac: Tịnh Hiếu, Khoa Nguyễn - Tiếng hát: Đồng Thảo
(Xem: 24182)
Người về như bụi - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Quốc Bảo - Tiếng hát: Kim Tước
(Xem: 22993)
Hỏi chúa đi rồi em sẽ hay - Thơ: Du Tử Lê - Nhạc: Hoàng Thanh Tâm - Tiếng hát: Tuấn Anh
(Xem: 21132)
Khái Quát Văn Học Ba Miền - Du Tử Lê, Nguyễn Mạnh Trinh, Thái Tú Hạp
(Xem: 19050)
2013-03-30 Triển lãm tranh Du Tử Lê - Falls Church - Virginia
(Xem: 20278)
Nhạc sĩ Đăng Khánh cư ngụ tại Houston Texas, ngoài là một nhạc sĩ ông còn là một nha sĩ
(Xem: 17793)
Triển Lãm Tranh Du Tử Lê ở Hoa Thịnh Đốn
(Xem: 16851)
Triển lãm Tranh và đêm nhạc "Giữ Đời Cho Nhau" Du Tử Lê đã gặt hái sự thành công tại Seattl
(Xem: 26087)
Nhà báo Lê Văn là cựu Giám Đốc đài VOA phần Việt Ngữ
(Xem: 33371)
ngọn cây có những trời giông bão. ta có nghìn năm đợi một người
(Xem: 35672)
Cung Trầm Tưởng sinh ngày 28/2/1932 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi ông bắt đầu làm thơ,