Giới Thiệu
Nhà xuất bản Đời ấn hành lần thứ nhất tại California, 1992
Mẫu bìa: Ái Lê
Ảnh mặt trước: Trương Trọng Trác
Ảnh mặt sau: Trần Cao Lĩnh
Phụ bản họa: Tạ Tỵ, Duy Thanh, Trịnh Cung, Phạm Công Thiện
Phụ bản nhạc: Phạm Đình Chương, Trần Duy Đức, Từ Công Phụng, Song Ngọc.
Nguyên Sa
Bạn tôi bằng nửa con cò
Vác trên vai cái đền thờ con voi
Con voi nặng cũng vừa thôi
Có em người đẹp lại ngồi bên trên
Thỉnh thoảng về chốn nhân gian
Đưa thơ tôi đọc vài hàng rồi đi
Lúc đi giống hệt lúc về
Mà thành tri kỷ ngồi kề bên nhau
Cao Thế Dung - Du Tử Lê thi ca và thi nhân
Sự nghiệp của một thi nhân có thể xác định ngay từ tác phẩm thứ nhất và văn tài cũng không tùy thuộc vào kinh nghiệm và thời gian. Du Tử Lê xuất hiện trên thi đàn hiện đại lần đầu tiên với tác phẩm thứ nhất “Thơ Du Tử Lê” - tác phẩm này đã quan định ngay cho Du Tử Lê một chỗ đứng trong văn học, tuy không lớn rộng nhưng ít nhất “Thơ Du Tử Lê” cũng đã trở thành một vang vọng đáng chú ý vì nó mang một thực chất Du Tử Lê - một thực chất của rạn vỡ và thức tỉnh trong chơi vơi của một tâm thức tù hãm trong mơ.
Cái đẹp của “Thơ Du Tử Lê” như một bông hoa hàm tiếu, không mạnh như bão táp cũng không khắc khoải đến độ tan hoang và cái Đẹp kia như một cô gái vừa dậy thì chưa được trọn một lần dang dở thì bỗng dưng bị cuộc đời tước đoạt tuổi thanh xuân - và chỉ còn lại một vùng sa lầy giữa những mơ ước hão huyền với một niềm tin vừa bừng bốc đã tan - một đam mê chưa trọn:
trên giòng đau thương tôi là bèo nổi
trên giòng quê hương tôi là củi khô
tôi là củi khô những ngày thơ ấu
khói ám linh hồn lửa bốc tâm tư
trên con đường xưa tôi là lá rụng
trên giòng sông này phù sa nuôi tôi
phù sa nuôi tôi đi vào chiến cuộc
đất Việt da vàng máu đỏ xương rơi
trong khối tình em tôi là bướm ngủ
trong nỗi u buồn thế hệ thanh niên
tôi muốn rủ em nhìn về quá khứ
quá khứ tủi hờn nghìn năm điêu linh
nửa giòng nước suôi nửa giòng nước ngược
chợt khóc chợt buồn chợt nhớ chợt thương
tôi là lá khô những ngày khói lửa
những ngày tương tàn tình em không hương
(Trích Linh Hồn Việt Nam)
Thơ Du Tử Lê hàm dưỡng những hệ lụy của tuổi trẻ hôm nay, không phải là một chuỗi than dài. Tự bản chất thơ Du Tử Lê vốn trữ tình - ông đã nói lên một cách đầy đủ và thật lãng mạn cái nhậy cảm của hồn thơ ông bằng những hình ảnh thật đơn sơ và một thứ ngôn từ chất chứa. “Thơ Du Tử Lê” thành thực như tiếng nói của tuổi trẻ - tuy có đôi chút “làm dáng” và “ước lệ” mà trước sau vẫn chỉ là tiếng nói thành thực - tiếng nói của tuổi trẻ Việt Nam hai mươi lăm năm trong tan hoang vỡ vụn và còn tiếp diễn những kinh hoàng. Chúng tôi nâng niu “Thơ Du Tử Lê” như nâng niu chính tuổi trẻ của mình từng bị tước đoạt và như tình yêu của mình đang dâng lên trong khoảng sương mờ.
Một ngàn chín trăm sáu mươi Du Tử Lê xuất bản thi phẩm thứ hai “Tình Khúc Tháng Mười Một” -qua hình thức trang trọng và trưởng giả của ấn phẩm ta có thể mơ hồ hình dung thấy một Du Tử Lê vừa trau chuốt, vừa nghiêm chỉnh để tạo một tư thế “lớn” cho lần ra mắt thứ hai. Và thật vậy, cái tư thế lớn kia đã thể hiện rõ rệt “lời vọng hịch truyền” bài mở tay cho thi phẩm của chính nhà thơ.
“xướng ngôn: ta là người mù giữa muôn trùng ánh sáng - ta ban phát thương yêu cho những ai đau khổ cho những ai một đời héo khô - ta là kẻ có quyền năng vô biên giữa một vùng riêng cõi lẻ - ta cất tiếng gọi muôn loài quy tụ dưới chân ta và chìa ra những bàn tay mười bốn đốt xương khô.
“lời vọng: hãy chìa ra những bàn tay mười bốn đốt xương khô.
“xướng ngôn: ta đã nổi lửa hôm nay để đốt cháy ngày qua tương lai và những gì bội phản tình người - ta sẽ đập tan định kiến, thành trì của những giáo điều ước lệ, những vòng giây trói hãm chúng ta vào ngục tù hữu hạn tương giao - ôi xã hội với những ngả đường hoa kẽm vấy máu giăng ngang - ta đã là ta từ phút này, mặt trời đứng đó và sao cùng đứng đó, những vì sao cùng đứng đó và thu vén nỗi buồn mình thành tượng đá trong tim”...
(trích Lời Vọng Hịch Truyền).
“Lời Vọng Hịch Truyền” là một tuyên ngôn cho một tâm thức mới, một lời giới thiệu cho sự “chín mùi” của bản chất Du Tử Lê. Cái bản chất vốn nhậy cảm và trữ tình từ một “Thơ Du Tử Lê” đến “Tình Khúc Tháng Mười Một” - nó bắt đầu tỏa rộng và sâu.
nghìn đêm lửa đỏ ghế ngồi
em trong trí tưởng tôi ngoài chuyến đi
yêu em buồn đã tìm về
một thân nhão nhẹt hồn trì đáy sâu
cho em trăm giọt lệ sầu
xác tôi giòng táp chân cầu nhân gian
hãy nghe lời hát của chàng
hãy cao tiếng gọi phượng hoàng thiên thâu
yêu em đêm đỏ lửa cầu
sáng ra nước mắt chuyến tầu xe tôi.
(Hạnh Phúc Cho Huyền Châu).
Du Tử Lê bắt đầu chìm đắm hơn, ngân dài và xa xăm. Một nhà thơ vốn có thực chất như Du Tử Lê thì lẽ tự nhiên thơ Du Tử Lê phải là một thực chất sáng tạo nghĩa là những tình tự đi lên để đến đích điểm của nghệ thuật. Du Tử Lê không có những ngôn từ mới và đặc biệt. Nhưng nguồn sáng tạo của ông luôn luôn đổi thay và sự nhậy cảm của thơ ông thật chậm chờn nên thi điệu nhờ thế mà nghe như tiếng hát - tiếng hát thực sự dâng lên từ tâm thức. Ta hãy lắng nghe nỗi buồn này - như giọt mưa trên mái lá - như tiếng ru của người cô phụ - như nỗi buồn Việt Nam - như nỗi buồn rất “trữ tình” của một Du Tử Lê bén nhậy và xa xăm:
Anh đã bảo ngủ đi hỡi cô nàng bé nhỏ
đạn nổ đều nhưng đạn nổ rất xa
dù cho mai kia đạn nổ gần
thì cũng thế mà thôi có gì đáng lạ
không lạ chứ! phải rồi từ khi chúng mình mở mắt
bom đã rơi mừng đạn đã reo vui
ngày đã đau thương đêm đã ngậm ngùi
máu vẫn chảy và thây người vẫn đổ
- anh đã bảo ngủ đi cô nàng bé nhỏ
quê hương này em đã trót đầu thai
mảnh đất này hoa sớm nở sớm phai
tình sớm đẹp để rồi tình sớm lỡ
hàng rào kẽm canh chừng bọn anh những thằng toan bỏ cuộc
tiếng kèn đồng thúc dục bọn anh điên
hỏa châu soi đường dẫn lối đêm đêm
từng con mắt kinh hoàng, từng bàn chân lận
từng ngón tay ôm cò súng lăm le
- anh đã bảo ngủ đi hỡi cô nàng bé nhỏ
có gì đâu đêm đã thế từ lâu
có gì đâu đời đã thế từ lâu.
Điệu thơ Du Tử Lê có một cái lạ rất mơn man và quyến rũ. Tiếng thơ như lời ca. Nó bồng bềnh trôi nổi. Mà cách hợp vần, hợp điệu trong thơ ông như một bộc phát tình cờ. Nó mang theo cái cao điệu của một tâm hồn đầy nhớ, đầy thương.
Đọc thơ ông, người ta có thể thấy ngay ông làm thơ như người nói chuyện nghĩa là tự nhiên không gò bó. Nhưng tự mỗi ngôn từ, mỗi mạch thơ càng đọc, thì, người ta càng thấy có sự hiện diện của một nghệ thuật mới. Nói là mới vì ông tự biết sử dụng cách thế làm thơ cho mình có một giọng riêng - nó không thể lẩn lộn với bất cứ ai.
Còn một đặc điểm khác là trong thơ Du Tử Lê có ẩn dấu một bản chất thật Việt Nam. Ông có thế giới riêng của ngôn ngữ cũng chỉ như sự phát hiện một cách tự nhiên từ bản chất Việt Nam của ông. Cũng vì cái bản chất sơ khai từ lòng Mẹ kia cho nên chất “thi sĩ” Du Tử Lê chỉ phát hiện một cách rõ rệt và rất thơ qua những tình khúc êm đềm và dịu nhẹ. Mà đặc biệt trong cái êm đềm và dịu nhẹ kia, Du Tử Lê vẫn chất chứa một tình tự phản kháng với chính thân thế qua tình yêu và nỗi cô đơn cứ một ngày thêm lớn rộng. Thơ Du Tử Lê còn đang vươn lên chiều cao. Ông đã có kích thước vừa đủ của chiều rộng và chiều sâu để tự cắm cho mình một mức giá trị có thể tiêu biểu cho một khuynh hướng mới trong thi ca hôm nay: Một thứ phản kháng trên tình tự lãng mạn - Một lời thú tội trên cung bậc trữ tình, trên một hệ số Anh Nhìn Về Anh Qua Em.
tôi chả còn gì để nhớ, tôi chả còn gì để quên
đêm như những con rắn hoa trườn mãi
ngày như những con ngựa hoang chạy dài
tôi còn gì để nhớ, tôi còn gì để quên
em như điếu thuốc lụi tàn
sợi khói tan và không hề lưu dấu
nhìn vào khoảng trống đời anh
lềnh bềnh những vết dầu loang nhơ nhuốc
anh một mình cứ hôn tay anh - năm cành gai nhọn héo hon
làm gì để nhớ, làm gì được để quên
buổi chiều sừng xững mọc trong quán
ly cà phê tối tăm rồi đôi mắt xanh đen
cô cashier lai Tây
người bồi đồng phục trắng mềm mại như con bạch nga
tất cả âm thầm chảy vào ly cà phê anh uống
chiều ngủ rồi! Chiều ngủ rồi trong anh
chiều đi rồi! Chiều đi rồi trong anh
thế nào rồi cũng nhớ - thế nào rồi cũng quên.
(Vết Sầu Trên Nhánh Linh Hồn)
Thơ Du Tử Lê có một giọng đặc biệt, vừa tự nhiên, vừa sôi nổi và hồn hậu. Tuy ông bị ám ảnh bởi một thứ thi điệu nhịp nhàng và theo thứ thanh âm trầm bổng của nhạc nhưng nguồn rung cảm của Du Tử Lê vốn dĩ xúc tích và sống động nên chất thơ nhờ thế mà phát hiện một cách tự nhiên như sự một phản ứng tự nhiên của cân não và tâm hồn.
Thơ Du Tử Lê - nhìn một cách toàn bộ - đẹp như tuổi thơ, bi thảm như một chuyện tình Chức Nữ Ngưu Lang và hấp dẫn người đọc theo cái tươi mát của một trái nho vừa chín.
hãy nghe tôi đi
hỡi người tình nhỏ
hãy nghe tôi đi
lời chiêu ca này
dỗ hồn về đậu
trên hai nhánh vai
một người vô tội
đưa lòng về gội
mưa nắng sông tôi
một giòng đắm đuối
trên sông tình dài
phải thế không em
chiều đã tha chiều
đi tìm bóng khuất
đêm đã nhủ đêm
thầm chăn gối ấm
hãy nghe tôi đi
hồn đà chín đỏ
thà tình yêu đó
như giọt mưa ngang
thà đời sống đó
như nỗi muộn màng
trong ngày tháng lụn
hãy nghe tôi đi
dỗ hồn về đậu
trên hai nhánh vai
một giòng mắt khép
trên lưng tình dài
(Trích Trên Lưng Tình Dài).
Giòng thơ trôi theo một nhịp mang cái lênh đênh và phiêu bồng như tiếng gió và thông reo. Thi điệu của nó như van lơn trong nỗi rời rạc của tâm thể. Thơ Du Tử Lê có một thi điệu đặc biệt tuy không lạ nhưng tới. Nó chất chứa đủ một hơi thơ giàu và có dồn nén một cách thật ấp ủ trong điệu của thơ. Giữa những người làm thơ hôm nay thì Du Tử Lê là một chân dung hồn hậu. Thơ ông đã bày tỏ chất phiếm du của một người đã phong nhụy chất thơ trên đường đời, trong đó tình yêu như ánh sáng. Bài Bến Tâm Hồn là một điển dẫn:
* bài tặng anh chị quỳnh
lênh đênh hồn ngủ phương này
thương mưa Hà Nội nhớ mây Hoàng Hà
mười năm dài những xót xa
bờ hoang bến quạnh thiết tha ngọn nguồn
mênh mông hồn ngủ phương buồn
đêm sương Cầu Giấy Chợ Hôm canh gà
tóc thề nẻo gió áo hoa
trôi từ chinh chiến trôi qua điêu tàn
lênh đênh hồn cắm sào ngang
năm Ô tuổi nhỏ buồn hoang ngọn cờ
(Bến Tâm Hồn)
Như trên đã nói, tiết điệu trong thơ Du Tử Lê thật đặc biệt. Nói là đặc biệt vì tiết điệu ấy pháy hiện tình cờ mang theo cung độ của sự lên bổng xuống trầm ăn khớp với từng ý thơ - hay đúng hơn hòa theo từng cơn ba động của tâm hồn và cân não theo vận hành của nhịp tim.
Du Tử Lê sáng tác rất mạnh. Làm thơ đối với ông như thể một sinh thú nuôi dưỡng lòng đam mê. Thơ ông còn là nơi trú ẩn của tâm hồn ông vốn thường xuyên đơn lạnh. Thơ ông phần lớn là tiếng tình vọng của một người “yêu rất nhiều mà... không được bao nhiêu” trong suốt tháng ngày vẫn miệt mài đuổi theo cơn tình mộng, nuôi dưỡng nó cho tâm hồn nguôi ngoai những phiền muộn cùng nó.
Bài “Cho Ngày Mười Bốn - Mười Một” cũng đủ nói lên phần nào tâm trạng của Du Tử Lê trong một vùng băng rã của yêu, mà con tim tựa hồ như con chim non sợ ná bởi đã từng mang thương tích. Kẻ săn đuổi không ai khác hơn giai nhân mà mình hằng tôn thờ.
1.
bao giờ mưa cũng kéo qua tháng mười một
trời thì thấp, mây thì nặng, ngày thì dài và đêm thì xanh
(đã năm năm liền rồi, như thế)
em có còn đó hay không
khi ngày mưa trở lại
lúc cuộc tình đã qua
những ngày mưa bẻ gập đời anh thấp xuống
cho nỗi buồn mưng lên
chín trên từng ngọn cỏ
khi ánh sáng tình em
phút tình cờ bỗng tắt
đời nhạt nhẽo liếm môi mình cũng nhạt
tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây
em phải nhớ dùm anh
lệ không chảy
dù tim ứ tràn máu mặn
hồn không tan vì đeo đá đau thương
2.
bao giờ mưa cũng kéo qua tháng mười một
trời thì thấp, mây thì nặng, ngày thì dài và đêm thì xanh
(đã năm năm liền rồi như thế)
em có còn đó không
khi ngày mưa trở lại
lúc cuộc tình đã qua
sân khấu đời vẫn vậy
diễn lại một thói quen
mưa mỗi năm một lần
đêm hằng hằng bóng tối
chỉ riêng cảm tình ta
mỗi ngày một lạ lẫm
khi yêu em tôi cạn hồn đắm đuối
đời chẳng còn gì hơn
ngoài những tờ thư cũ
tôi sống nốt đời mình
trong dối lường tất cả
tôi chỉ đúng là tôi
khi nghĩ về một người (đã mất)
tình yêu là mảnh đất
sớm muộn gì cũng mọc lên loài cây hối tiếc
ta chỉ thấy được mình
trong khu vườn cây ấy
tôi ước ao một sáng trời hồng
người tình cờ ghé ngang vườn tôi
và xin nhớ đừng kinh ngạc
nếu đọc thấy tên mình
trên tấm biển đề trước cổng
(có thể nét khắc lúc đó đã hơi phai
nhưng tôi vẫn tin còn rõ lắm
bởi tấm biển đá kia
chính là tim tôi
với thời gian hóa thạch
và dao dùng để khắc
không có gì khác hơn những mảnh xương tôi vỡ vụn)
phải thế không huyền châu
trái sầu nào chả chín
lúc cuộc tình đã bay
có nỗi tuyệt vọng nào
không đeo cổ những người bất hạnh
vì thế mà lúc chết
ta không thể đứng yên
cũng rất khó ngồi cho vững
bởi thế nào rồi cũng ngã vật
nằm ườn như khúc cây
trên một giòng nín lặng
3.
bao giờ mưa cũng kéo dài qua tháng mười một
trời thì thấp, mây thì nặng, ngày thì dài và đêm thì xanh
(đã năm năm liền rồi, như thế)
em có còn đó không
khi ngày mưa trở lại
lúc cuộc tình đã qua
tôi vẫn còn mở mắt
trông bóng người không in
tôi vẫn còn khối óc
ghi đủ tên tuổi người
và những lời hứa hẹn
tôi còn nguyên khối lệ
mừng người khi hay tin
vĩnh biệt thời con gái
tôi còn đủ đôi chân
để đi bên cuộc tình
(của người và chồng con)
cho đến ngày nhắm mắt
phải thế không huyền châu
CAO THẾ DUNG
(Thi Ca và Thi Nhân, 1968)
Lê Vương Ngọc - Những Ngày Thơ Ấu Của Du Tử Lê
Du Tử Lê sinh năm 1942, tháng 11, ngày 10 nhằm năm Nhâm ngọ, tháng 10 ngày 3. Tôi không nhớ vào ngày sinh Du Tử Lê có mưa gió bão bùng gì không. Tuy nhiên đóng vai ̣đun nước hầu trà, cho ông thân sinh tôi và cụ X. bạn cố tri của ông, nổi tiếng về khoa Tử Vi, tôi được hiểu lõm bõm rằng mẹ tôi kỳ này sinh hơi khó và em tôi dường như có điều gì đặc biệt. Vì sau khi hai cụ đồng ý đặt tên thằng bé là Lê Cự Phách, hai cụ phá lên cười ha hả. Cụ X vuốt chòm râu muối tiêu hài lòng vì đã phác đoán một tương lai đầy hứa hẹn cho em tôi. Còn bố tôi hy vọng gia đình sẽ có một tay cự phách lẫy lừng đua tranh với thiên hạ. Cái “điều gì đặc biệt ấy” mãi khi mẹ tôi và em tôi được chở bằng chiếc đò nan che kín mít từ nhà hộ sinh (bên bờ sông Đáy) về bến Huyện (làng tôi là sở tại huyện, nhà tôi cách bến đò lối chừng một trăm thước) tôi mới rõ khi chị tôi bế thằng bé và cười bảo tôi :”Coi này, thằng Phách có bàn tay sáu ngón nom hay lắm”.
Chính do bàn tay sáu ngón này, hợp cùng một số sao trong lá số Tử vi mà các cụ kiếm ra cái tên Cự Phách. Điều khó nữa là tên chúng tôi bắt buộc ai cũng phải có bộ Ngọc bên cạnh nên chữ Phách viết theo Hán văn đã thỏa mãn yêu cầu đó.
Cũng chính do bàn tay khác thường mà chú bé Lê Cự Phách khi còn nhỏ, đi học đã bị chúng bạn chế giễu trêu chọc tới phát khóc và mang mặc cảm nặng nề cho tới khi lên trung học và được giải phẫu cắt bỏ ngón thừa. Gia đình chúng tôi theo Nho giáo, các cụ cho tới đời ông bà nội có nhiều người học vấn và học thuật uyên thâm nhưng không phát về khoa bảng. Ông nội chúng tôi là cụ đồ Kh. người cao lớn, đầu dài, nửa trán, nửa mặt, tinh thông Lục Nhâm và Thái Ất. Nghe các cụ kể lại, cụ đồ Kh. từng được ông Tôn Thất Thuyết khi hành quân chống Pháp ở ngoài Bắc vời làm quân sư bấm quẻ chọn hướng và chọn giờ xuất binh, xuất trận. Rất nhiều giai thoại về các gia đình có máu mặt hàng tổng hàng huyện bị mất trộm, mất cướp đồ quý tới xin Cụ bấm cho một quẻ, đã thường tìm thấy lại đồ đã mất.
Bà nội chúng tôi (cũng như ông nội) mất trước khi chúng tôi chào đời. Nên khi nghe mẹ tôi kể lại tôi được biết bà nội là người làng Yên Đỗ, dòng dõi cụ Tam Nguyên, xinh xắn, tình cảm, ủng hộ mẹ chúng tôi triệt để chống lại việc thái quá của một nho sinh phong nhã và đào hoa. Mẹ tôi về nhà chồng lúc mới mười sáu tuổi, quyết định lấy chồng nghèo và hiểu rõ sẽ gặp sóng gió vì người nho sinh đẹp giai phố huyện, có giọng bình văn sang và ấm khiến thiếu nữ quanh vùng mỗi khi có việc qua khu chợ Quế nhiều cô đã kiếm cách ghé thăm ngôi nhà của cụ đồ Y để ngắm nhìn và nghe thầy khóa trưởng tràng bình văn.
Như vậy, mẹ chúng tôi đã lấy chồng theo tiếng gọi của con tim. Điều này bắt đầu từ ngày khôn lớn tôi đã nhận ra mỗi khi nghe mẹ tôi kể lại những kỷ niệm từ khi bà lập gia đình với bố tôi. Mắt bà long lanh thêm, giọng bà trầm thấp xuống mỗi khi kể về bố tôi, với những khoảng yên lặng giữa các tình tiết của câu chuyện mà bà nhìn đi thật xa, miệng mỉm cười vu vơ, hoặc sịu một bên môi (mẹ tôi sịu môi rất dễ dàng, hầu như thành cố tật do thói quen ăn trầu. Dáng môi sau kéo xuống một bên còn y nguyên cho tới phút chót cuộc đời của bà cách đây vài năm). Từ một gia đình giàu có nhờ phát triển bằng thương mại và canh nông, mẹ tôi được bà tôi chọn coi như người con gái xinh đẹp đảm đương, hoàn hảo nhất làng (dáng người cao lớn, có da có thịt – sẽ mắn con – có vốn riêng sẽ đem giúp gia đình chồng và nếu cần thêm nữa, gia đình bên thông gia có dư khả năng để giải quyết). Những điều này tôi được biết sau những cuộc xô xát giữa bố mẹ tôi. Những cuộc xô xát này thường diễn tiến theo một mô thức giống nhau. Khởi sự hoặc do mẹ tôi (thường là ghen pha trộn với sự phản đối hoang phí cô đầu con hát và cờ bạc của bố tôi), hoặc do bố tôi không đồng ý về cách dạy con (nuông chìu quá mức ̣) hoặc nhẹ dạ trong việc quản trị tiền bạc (mẹ tôi rất dễ dàng trong vấn đề cho vay mượn tiền bạc, thậm chí không sẵn tiền, mẹ tôi cũng đi vay hộ do mình bảo đảm, tiếng chuyên môn gọi là “bầu chủ”). Bất kể do ai khởi sự, sau đó bao giờ cũng là một độc thoại của bố tôi, quát tháo lớn tiếng. Nếu cơn giận quá mạnh, lời nói được cổ súy bởi hành động đập phá, đầu tiên là ly tách, bình trà để trên bàn. Cho tới lúc này mẹ tôi vẫn chưa phản ứng bằng lời, chỉ thút thít khóc. Khi tiếng xoảng vỡ đầu tiên vang lên, mẹ tôi bật dậy và xông tới ôm lấy bố tôi :”Nếu anh muốn, giết chết tôi đi, đừng có đập phá điên cuồng nữa” Dường như khi chạm phải da thịt của mẹ tôi, vô hình trung cơn giận dữ của bố tôi chùng lại, dù còn tức giận vô cùng, người cũng đẩy mẹ tôi ra rồi vùng vằng đi tìm điếu hút thuốc. Bao giờ cũng như bao giờ, mẹ tôi dù bị đẩy mạnh hay nhẹ, bà cũng sụp lăn ra sàn gạch rồi bò dần về giường.
Trong khi tiếng khóc lớn dần và tới lượt cơn độc thoại của mẹ tôi không đánh nhịp bằng vũ lực mà bằng các cơn nấc rất thảm thiết. Nhờ các tiết lộ trong những dịp này mà tôi rõ phần nào tình yêu mẹ tôi dành cho bố tôi. Tình yêu đó mạnh đến độ dễ dàng tha thứ cho không chỉ những cuộc trăng hoa mà còn cho phép chồng lưu giữ những thư tình, những vật thệ ước từ các mối tình xa xưa cho tới những mối tình gần kề. Cũng do những tiết lộ này mà một hôm tôi lục trong những tráp chứa đầy sách chữ Hán của bố tôi và tìm thấy một tráp chứa đầy thư tình, gương lược đồi mồi, những túi gấm nhung và cả những tấm hình bán thân hoặc toàn thân đen trắng, đặc biệt là các nhan sắc này người nào cũng buông thõng một cái đuôi gà thật duyên dáng dù quấn khăn hay vấn tóc trần.
Bà mẹ chúng tôi cũng là một người rất đa tình. Lấy chồng năm 16 tuổi, năm sau sanh người con trai đầu lòng chết yểu khi lên bốn. Bà tiếp tục sanh cho tới lần chót : Du Tử Lê, tất cả 11 lần và đậu được 6 con nuôi tới trưởng thành. Con nào cũng được bà cưng chìu bế ẵm, và đứa nào cũng được lớn lên trong giọng ru êm đềm, tha thiết, thoáng một chút chịu đựng qua những câu ca dao phong tình và những bài hát trống quân, hát dặm, quan họ, nên thơ của miền Bắc. Vì bố tôi mất vào giữa năm 1946, mẹ tôi trong đau thương dồn hết tình thương vào DTL (bốn tuổi) và sự kiện này cũng giải thích phần nào dáng dấp và tính nết nhẹ nhàng mảnh dẻ của DTL ngoài đời cũng như trong văn chương.
CHÚ ÚT DU TỬ LÊ VÀ NHỮNG NGƯỜI CHỊ TRONG GIA ĐÌNH
Một ký giả Mỹ hoạt động ở Sài gòn nhiều năm cho tới 1975 đã có bài phân tích về sách của DTL đọc trên đài P.T Hoa Kỳ đưa ra nhận xét về điểm đặc thù trong hầu hết các truyện của DTL, nhân vật chính thường là phái nữ. Truyện được kể lại với nhân vật nữ ở ngôi thứ nhất số ít. Ý nói điều đó phản ảnh tâm trạng của tác giả luôn luôn cảm xúc và suy nghĩ như một nữ lang chính hiệu.
Tính cách đặc biệt này cũng có thể phần nào bắt nguồn từ thời ấu thơ và niên thiếu của DTL.
Sau khi ông thân sinh mất vào lúc DTL mới bốn tuổi, liên hệ cha con cũng như sự gần gũi không có là bao. Theo DTL kể lại ngoài đời sống cũng như trong văn chương, hình ảnh người cha phong lưu hào hoa được mô tả trong một kỷ niệm rõ ràng, có nhiều chi tiết đáng nhớ : Trong một ngày nào đó, vào buổi sáng lối 9, 10 giờ những buổi cả ba anh chị em (sát với DTL) cùng có mặt, ông thân sinh cho gọi cả ba, gồm người người anh hơn DTL 5 tuổi, và người chị kế tiếp, hơn DTL 2 tuổi, từ nhà ngang lên phòng khách. Nơi ông cụ đã cạn nhiều tuần trà và rít những hơi thuốc lào từ chiếc điếu bát cổ được ráp nối (đặc biệt là nõ điếu) do một người cháu họ có biệt tài làm điếu bát. Mỗi khi hút, trong thời gian rít lên, hơi thở hút vào chuyển động nước trong bát qua khoảng trống đi lên xe đều tạo thành một điệu nhạc ròn rã đều đặn như các hạt bắp rang nổ liên hồi, hoặc như những viên sỏi nhịp nhàng rơi xuống nước theo một tốc độ nhanh chóng đều...Cả ba cô cậu nhỏ đều sung sướng hớn hở tiến lên, dẫn đầu bởi chị sen. Sung sướng nhất là người anh của DTL, vì biết mình sẽ được lãnh đạo hai em nhỏ trong một màn biểu diễn gần như duy nhất. Bởi lẽ thường ông già yêu cầu ba con múa và hát bài Con Voi. Ít nói, một chút e thẹn sợ sệt, nhưng trong lòng DTL hơn ai hết cảm thấy được bố chú ý đặc biệt trong cuộc trình diễn qua những tràng vỗ tay khen thưởng của ông già mỗi khi cái đuôi con voi là DTL ngoe nguẩy (hay lững chững lom khom) đi.
Qua chiếc ghế ngựa nơi ông già ngồi vắt chân chữ ngũ tay tì trên một chiếc tráp sơn đen, trước mặt là khay trà và hai chiếc điếu, một chiếc điếu ống dự trữ. Vào một ngày khác có thể là buổi chiều lối 4, 5 giờ, ông thân DTL đang nhắm rượu (trước bữa ăn chiều) bộ ba trình diễn lại được vời lên và đề tài trình diễn thay đổi bằng bài “Ánh trăng trắng ngà”. Cuối cùng phần thưởng được phát cho các diễn viên. Người trưởng đoàn đi tới chiếc ghế ngựa trước. Ông già hỏi vài câu về học và chơi, chú nhỏ lúng búng trả lời không rõ, nhận vài cái bánh ngọt hay kẹo rồi rút lui sang bên. Đến lượt người chị DTL cũng vậy. Duy tới phiên DTL có phần khác hơn, chú út được hỏi nhiều hơn và cho quà nhiều hơn nhưng chú hoàn toàn im lặng, cúi đầu nhận phần thưởng, chỉ ngước nhìn bố bằng cặp mắt vừa biết ơn vừa hãnh diện, ý thức được địa vị mình trong lòng người cha trắng trẻo đẹp đẽ mà nét mặt rất ư là nghiêm trang, xa cách.
Mối liên hệ cha con thưa thớt nhưng êm đềm đó kéo dài không bao lâu thì ông già mất. Người đàn ông lớn tuổi DTL được gần gũi sau đó là ông anh cả, anh thoát được cuộc kháng chiến chống Pháp tại Hà Nội năm 1946, về tới quê ở Quế Quyển, Hà Nam 1947. sau giờ đi làm về anh cả chỉ thích chơi chiếc đàn Banjo giữa hai bản nhạc “lãng mạn tiền cách mạng” của Văn Cao va Đỗ Nhuận, anh gọi DTL tới nói chuyện đùa giỡn. Ở tuổi này DTL khá bụ bẫm. Trong khi DTL “vầy vò” cây đàn thì người anh có một thú là vừa nựng em vừa bẹo má, bẹo đùi, bẹo mông chú Út tới lúc chú cảm thấy đau quá, cái giá phải trả cho nghệ thuật (nghịch ngợm nới cây Banjo) quá cao, hét lên một tiếng “Ái” thật to và vùng chạy đi tìm mẹ. Liên hệ này cũng không được dài lâu vì quân Pháp tràn qua Hà Nam năm 1948, trở lại thiết lập vùng Tề tại Quế năm 1951 khiến người anh cả phải di chuyển theo cơ quan vào khu Tư và bị Pháp oanh tạc chết gần Kim Tân ngay đầu xuân năm Tân Mão (1951). Kế người anh cả là tôi, lúc đó theo học tại Yên Mô, Ninh Bình, sau di chuyển vào trường Nguyễn Thượng Hiền tại làng Ngò, Thanh Hóa nên DTL cũng không có dịp gần nhiều. Sau này khi Pháp và Quốc gia rút khỏi Quế, gia đình dời lên Hà Nội năm 1952. Tôi theo học trường luật Hà Nội, đi dạy học thêm lo phần nào chi phí cho gia đình, lúc này thuê một căn phòng tại phố Huế. Sự bận bịu đó cộng với ở tuổi tôi có những quan tâm về tình cảm và trí thức sôi nổi, sống với bè bạn và xã hội ngoài nhiều hơn. Chú út DTL vào dịp kéo dài từ 1952 tới 1954 sống gần gụi và thân thiết ngoài mẹ ra là các chị, chị ruột hơn DTL hai tuổi, cùng hai người chị dâu : người chị dâu lớn về gia đình chúng tôi từ năm 1948 và vợ tôi sau này, cuối năm 1953. cũng nên kể tới người anh thứ ba hơn DTL năm tuổi, tính nết dữ dằn khiến DTL ít có nhiều dịp gần. DTL theo số mệnh sống và lớn lên trong ảnh hưởng sâu đậm của tình thương phái nữ. Cũng như để đền đáp lại sự thiếu thốn về liên hệ cùng phái bắt đầu từ ông thân sinh, qua tới ba người anh, sau này DTL đã phát triển và gìn giữ được một số bạn nam phái, gồm cả một số vong niên đối với nhau thật tốt và chung thủy.
Nếu theo như khẳng định của một số các nhà Tâm lý giáo dục Tây phương, đời sống trong 6 năm đầu của một đứa trẻ là quan trọng nhất, sẽ ảnh hưởng sâu xa tới tính tình tương lai của đứa trẻ khi lớn lên, thì 6 năm đầu của DTL hầu như được phong kín trong tình thương của những người đàn bà con gái trong gia đình.
Thật vậy, ngoài một bà mẹ đa tình, đa cảm góa chồng khi mới 46 tuổi đã trút hết tình thương, nỗi nhớ người quá cố lên đứa con út bốn tuổi là DTL, chú út này còn được săn sóc đặc biệt bởi một bà chị ruột hơn chú 17 tuổi. Tuy sống ở hàng phố một huyện lỵ khá đông đúc và sầm uất nhờ giao thông thuận tiện (huyện Kim Bằng với ba phương chợ Quế, Quế Lâm là tên làng nơi chôn nhau cắt rốn của DTL) nhưng so với Nam Định, Hà Nội thì vẫn là nhà quê. Nhờ có bà chị này, mua và học các sách đan, may, thêu mà chú út được mặc những quần soọc, áo sơ mi đủ màu, đủ kiểu. Mùa Đông thì mang thêm những chiếc quần yếm bằng kaki Nam Định màu xanh tàu hoặc xanh cứt ngựa, ngoài cùng là một chiếc áo len dài tay, cao cổ, thật nặng thật dày. Phụ giúp cho bà mẹ và người chị trong việc săn sóc cho chú út là một chị sen, được mướn từ một làng trong “cốc” núi. Chị sen là một người nữ sơn phương (Tàu đọc là xa phang) chất phác, thân hình nẩy nở đúng mức hoặc hơi quá mức đối với một người con gái quê lối 17 tuổi, khi cái yếm màu nâu non bị đội căng lên chừng muốn nứt ra. Vào mùa nực, chị sen cởi áo cánh ngoài làm việc cho tiện chỉ còn chiếc yếm trần lưng và chiếc quần nái xắn cao tới bụng chân, trừ mặt chị với đôi má hồng rám nắng, còn tất cả từ cổ trở xuống lưng tới gót chân là một màu trắng sữa, thơm mát. Cô gái sơn phương này có thể là người nữ đầu tiên đã gây hứng cho chú út hàng ngày vì chị có bổn phận sáng rửa mặt, thay áo quần nếu chú út làm dơ trong ngày và chiều thì tắm gội cho chú, tối thay quần áo mới. Qua những giây phút bế ẵm, tắm rửa...chú út nhiều lúc phải ôm lấy đầu lấy cổ và ngay eo ếch êm đềm và chắc nịch của chị sen để tránh lao đao té ngã từ chiếc chậu thau bự mỗi khi chị kỳ cọ khắp châu thân chú út từ đầu tóc tới bộ phận nam giới cho xuống tới chân...
Vì người chị của DTL mất vào năm 1946, ngay sau khi ông già mất được ít lâu nên DTL hây như không giữ được nhiều hình ảnh trong cõi ý thức, mặc dù tôi nghĩ người chị này đã để lại trong tiềm thức và vô thức của DTL nhiều dấu vết ảnh hưởng khó phai. DTL từ nhỏ tới lớn cơ thể tuy khoẻ mạnh nhưng không to lớn, cử động khoan thai từ tốn, nói năng nhỏ nhẹ, đã mang tính nữ, lại gặp hoàn cảnh sống chung đụng với phái nữ nhiều hơn trong những năm đầu sau khi chào đời, nên tính cách này càng được dịp phát triển. Tuy nhiên phải đợi khi DTL 4,5 tuổi luôn luôn theo sát người chị lớn hơn hai tuổi khi người chị này hoạt động với một số bạn gái cùng lứa tuổi. Nói chung người chị này cũng mang cùng tâm trạng như DTL : mất cha, mất chị khi tuổi còn thơ, nên trầm lặng, ít nói. Nhờ khuôn mặt đều đặn cộng với dáng dấp hiền lành nên bạn thích, người lớn thương mến và chú DTL vào thời điểm này nương bóng người chị mà lớn lên trong cái hồn nhiên tươi sáng và bao dung của người chị gái và nhóm bạn ồn ào ríu rít như đàn chim sẻ sớm mai. Vào 1948, DTL được thêm một người chị dâu về ở chung cùng đại gia đình. Người thiếu phụ thanh lịch gốc Hà thành này ít nhiều đã ảnh hưởng tới trí tưởng tượng của DTL về một xã hội thành thị, nơi đó từ người tới vật, tới cảnh thảy đều sạch sẽ, thơm tho, xinh đẹp và tươi vui. Thật vậy, từ khi sanh, DTL sống trong một gia đình nửa tỉnh nửa quê, tỉnh do các anh chị đi học ở thành phố mang về, còn quê là gốc, là khung cảnh thiên nhiên quanh nơi chôn nhau cắt rốn. Người chị dâu thành thị này muốn tỏ ra tuy sinh trưởng nơi thị thành theo mới nhưng vẫn giữ được nề nếp truyền thống xưa, nên đã đảm đương bếp núc, săn sóc đàn em, đặc biệt là hai chị em DTL. Đương nhiên DTL được chăm bẵm nhiều hơn nữa vì là út và cũng vì chính người anh cả của DTL cũng thương và thích đùa nghịch với DTL khi rãnh rỗi. Trong thời gian sống cạnh, người chị dâu phảng phất thường trực một mùi hương dị kỳ (lúc này bất kỳ loại hương thơm nào do các mỹ phẩm từ nội thành bán ra đều mang một tính cách hấp dẫn lạ lùng tức thì đối với người sử dụng cũng như những người chung quanh). DTL đã tạo ra một liên hệ tình cảm đa dạng có thể gồm cả thán phục ngưỡng mộ và biết ơn...cho nên người đọc DTL không xa lạ khi nghe DTL tả nỗi căm hận âm thầm người anh thứ hai vào năm 1954 đã không “cho” người chị dâu góa bụa di cư vào Nam cùng gia đình chồng(thật ra là không khuyến khích vì nhiều lý do mà cả bây giờ DTL, con người ưu tiên sống theo xúc động tình cảm, ít khi dùng lý trí để phân tích, cũng chả màng hiểu tới).
Sau 1951, chú út lúc này đã 9 tuổi được theo gia đình lên Hà Nội ở tại một căn phòng thuê ở phố Huế. Hai chị em DTL được nhập học trường tiểu học Hàng Vôi. Bà mẹ còn ở lại Quế Quyển và hoạt động về cung cấp thuốc Bắc và tạp hóa từ Hà Nội về ho các tiệm buôn lớn, nhất là hai tiệm thuốc Bắc và tạp hóa của hai gia đình Trung Hoa rất thân với gia đình DTL. Thường hai tuần một kỳ, bà lên cất hàng, ghé thăm cùng nghỉ một ngày một đêm tại căn phòng phố Huế. Những buổi này cả gia đình (thực ra chỉ có ba anh em của DTL dưới sự trông nom của người chị dâu lớn, còn tôi lúc đó đi dạy học ở Bần Yên Mỹ – Hưng Yên – chỉ về nhà vào dịp Chủ nhật cuối tuần và cũng ít có dịp ở nhà) vui tươi như ngày hội, phần ba anh em DTL được gần bà mẹ thân yêu, phần vì làm ăn khá giả, nên mỗi khi tới thăm, bà tiếp tế cho gia đình thật đầy đủ, quà bánh cho ba anh em DTL thật nhiều và trước khi lên xe kéo, ra bến xe hàng, bà không quên dúi cho mỗi cậu một ít tiền tiêu chơi...
Chú út sống như vậy êm đềm, nhẹ nhàng cho tới năm 1953 có một thay đổi lớn (!) trong gia đình, người anh thứ hai của DTL lập gia đình. Người chị dâu thứ hai của DTL là cháu ông hiệu trưởng trường tư thục trung học ở Yên Mỹ. Ông hiếu trưởng và gia đình người cháu gái này quê ở Bình Hồ, Hưng Yên, một làng nổi tiếng là trù phú nới một gia đình từ nhiều đời là quan và có nhiều ruộng đất giao cho dân làng làm rẽ. Làng này cũng có nhiều người dời lên Hà Nội mở tiệm buôn và thành công. Do các liên hệ bên thích bên thuộc, Bình Hồ những năm tháng yên bình trước 1945, vào dịp nghỉ hè là nơi tụ hội của các trai thanh gái lịch từ các thành phố về. Sau 1945 lại thành nơi thường trực ngụ cư của các thành phần trí thức, thương gia bằng hữu của những người gốc Bình Hồ tản mạn tứ phương kéo về. Thành thử, tại Bình Hồ lúc này có hai khuynh hướng sống. Một của những người không thích Cộng sản Việt Minh tìm cách gìn giữ lối sống trưởng giả lãng mạn xưa. Số còn trẻ tuổi bị lôi cuốn bởi những tư tưởng yêu nước chống Pháp do C.S. trương ra, cũng học đòi tham gia cách mạng, nhưng vẫn thích nếp sống dễ dãi của người tư sản trí thức và nhất là thích cái nếp sống dung hòa của cái gọi là “lãng mạn tiền cách mạng” và cái vô hình trung trở thành cái “ lãng mạn của đương thời cách mạng”.
Người chị dâu thứ hai này mang lại cho DTL chút lãng mạn thi vị đầu tiên mà DTL không tìm thấy ở người cuị dâu cả. Đó là nếp sống tự nhiên, phóng khoáng, “dễ dàng” và “thực”. Lấy nhau được ít lâu, chúng tôi về Hải Phòng dạy học tại các trường Trí Tri, Phụ Huynh Học Sinh và Cao Bá Quát. Chú út DTL cũng được theo xuống ở chơi qua 3 tháng hè năm 1953. người chị dâu thứ hai bản tính yêu thích con trẻ, từng nuôi cháu ruột cỡ tuổi DTL từ lọt lòng nên cũng chăm sóc DTL thật chu đáo, đầy đủ và nhất là tỏ ra thực tâm thương yêu đứa em út hiền lành và ít nói. Đặc biệt về cơm nước, DTL được thưởng thức những món ăn thật ngon và lạ. Với nét mặt phảng phất Tây phương, với cách sống hồn nhiên không kiểu cách cầu kỳ, với trang phục thật mới và sang, nhất là với một nụ cười thật tươi kèm theo đôi mắt rộng dài đuôi, DTL đã sống trong một khung cảnh mà năm giác quan nhạy cảm từ sớm của mình đã ghi nhận nhiều cảm xúc ở một kích thước khác hơn từ trước tới nay.
THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN TRONG ĐÓ DU TỬ LÊ CHẬP CHỮNG LỚN LÊN
Cho tới khi lên chín tuổi, DTL sống ở nơi sinh là thôn Vân Lâm ngoại, có tên gọi nữa là Quế Lâm hay phố huyến Kim Bảng, hay Quế Quyển để chỉ làng Quyển Sơn đối diện với Quế Lâm. Qua lại những ngày có phiên chợ bằng phà lớn hoặc thuyền nhỏ.
Là một giao điểm thuận tiện cho nhiều trục liên lạc như Sơn Tây, Việt Trì qua Cầu Phùng về Hà Nam phải đi qua Quế Quyển dọc theo con sông Đáy, hoặc theo đường bộ, trải đá dăm (xe hơi chạy đượ̣c) cho tới bên này sông là Quế và sang bên kia sông là Quyển có đường trải nhựa, với từng hàng cột dây thép đi xuôi Hà Nam – Nam Định, hoặc đi ngược về Tây Bắc qua Chinê (châu Lạc Thủy) tới Hòa Bình, hoặc xuyên qua núi về Kim Tân, Ninh Bình...Hàng năm cứ vào đầu mùa xuân, các đầu máy chở thiện nam tín nữ đông đảo từ Hà Nội, Hà Nam, Nam Định và các tỉnh phụ cận với mấy tỉnh này nối đuôi nhau suốt ngày đêm với tiếng máy nổ nhịp nhàng ròn rã như pháo vọng về từ phương xa, cùng lúc chân vịt qwuay đều tạo thành những hàng sóng rẽ ra từ các đầu mũi tàu, liên miên bất tuyệt đẩy bèo, rong, các thân cây...dạt sang hai bên bờ, trên các tàu, tàu nào cũng treo cờ trước mũi và sau đuôi bay phần phật. Các khách du xuân áo quần sặc sỡ, người lớn đàn ông đàn bà, già trẻ, con nít từ trên boong tàu hoặc từ ô cửa sổ vẩy khăn san, khăn bỏ túi với hai bên bờ sông đầy dân làng thích thú thán phục trước cảnh “văn minh cơ giới” đem con người từ tỉnh thành về gần với thiên nhiên với một tốc độ đáng kính nể.. cũng vì tiện giao thông nên Quế đã là nơi quân Pháp tràn về hai lần trước khi chiếm hẳn từ năm 1950 tới năm 1954, sát hiệp định Geneve. Quế Lâm nằm ḍoc theo sông Đáy. Theo âm lịch cách năm ngày, cứ các ngày 2,7,12,17...có phiên chợ Quế họp từ cổng huyện xuống tới bến đò và rẽ sang các đường
Ngang...Vẫn theo âm lịch, vào các ngày 5,10,15...lại có phiên chợ huyện họp cũng từ cổng huyện qua các phố bên này Quế sang bên kia là Phương Khê và lan tới cả làng Đanh Xá. Quế, Phương Khê và Đanh Xá cũng ở bên này sông Đáy và do mối liên lạc kinh tế này (các phiên chợ Huyện) nên cũng được mệnh danh là ba phương chợ Quế.
Quang Dũng tả sông Đáy khúc trên “chậm nguồn qua Phủ Quốc”. Trong khi ở khúc dưới này, chúng tôi thấy sông Đáy không những không chậm mà mà có phần mang lại nhiều thay đổi mỗi năm tùy mùa, tùy hoàn cảnh, lạ, vui, đôi khi kinh hoàng nữa. Thật vậy ngoại trừ ba tháng mùa nước từ tháng 8 cho tới tháng 10, nước lũ từ mạn ngược tràn về như thác đổ với tốc độ thật nhanh, chở theo đủ các thứ từ cây cỏ, rong rêu, cành củi, đặc biệt là bèo tây từng bè khổng lồ dày đặc bao kín mặt sông, lồng lộn, đỏ ngầu cuồn cuộn đẩy nhau, như tranh cướp đường đi lối tới để thoát khỏi cơn điên cuồng thịnh nộ của thiên nhiên. Qua mùa con nước như vậy, đôi khi trong đám bèo có một thây người chết thường là đàn ông hoặc con nít, giạt vào bên bờ rồi kẹt lại gây thành một tin thời sự nóng bỏng, cuốn hút từng vòng từng vòng người chen lấn quây quanh mấy viên chức điều tra, vớt lên trình huyện trước khi cho qn tq́ng. Trong dịp “phá tan tấn công chủ động” của Việt Minh đối với Pháp, càng gần vào mùa con nước 1947, 1949 rất nhiều xác chiến binh Pháp trôi dạt về khúc này của sông Đáy và cảnh tượng kể trên lại diễn ra, có phần sôi nổi và đông đảo hơn vì các xác chiến binh Pháp từ hình thể tới trang phục và phụ tùng có phần đặc biệt, lạ mắt hơn...
Dọc theo bờ sông Đáy là một con đê cao ngăn lụt, trải đá dăm thành đường xe hơi chạy được. Bên này đê sát với dông là một số làng mạc trong đó có làng Quế sống phần lớn do thương mại và trồng trọt, với các mùa ngô, khoai, sắn mía...Bên kia đê đi sâu vào trong là các làng mạc nằm thấp hơn mực nước sông, các thửa ruộng thì luôn luôn đầy nước sau mỗi trận mưa và biến thành biển hồ mỗi khi tới mùa nước. Đi thuyền từ trong ra ngoài phải dùng thuyền đẩy sào.
Huyện Kim Bảng nằm sát một dọc núi thuộc dãy 99 ngọn từ Việt Bắc bò vào miền Trung. Dãy 99 ngọn này chạy từ Hòa Bình qua Chinê (châu Lạc Thủy) xuống Ninh Bình rồi vô Thanh Hóa. Từ Chinê về tới Quyển lối vài ba chục cây số. Và dãy núi này đuôi về tận Quyển Sơn, Lạt Sơn (quê hương cố văn sĩ Lý Quốc Sinh) với ba ngọn núi lạc lõng bên lề là ngọn núi Cấm ở Quyển, núi Vôi ở Thụy Sơn và núi đá ở chùa Bà Đanh.
Như vậy có thể nói không sợ phóng đại, quê hương DTL gồm cả hai yếu tố : hữu tình và hùng vĩ, đời sống gần gụi văn minh, xe hơi, xe mô tô, xe ngựa, tàu thủy, thương thuyền, đò ghe...và cũng phần nào lạc hậu từ thời trung cổ: xe bò, xe trâu, thuyền thúng bơi chèo và đẩy sào.
DTL đã sống chín năm liền ở khung cảnh trên và đã trải qua tất cả các phương tiện di chuyển đã kể, tất cả, các nơi chốn từ những cuộc di cư vào Đồng Lạc (Đồng Chiêm đi bằng xuồng, thuyền đẩy sào...) tới lóc cóc ngồi trên những chiếc xe bò vào mấy Cốc (Kim Bảng cũng có nhiều “cốc” như bên Tàu có Tuyệt Tình cốc được nổi tiếng nhờ Kim Dung...) tạm lánh bốn tuần chờ khi quân Pháp rút khỏi Quế Quyển đoàn người di cư lại giã từ các làng xóm trong khu Đồng Chiêm hoặc các núi rừng ven các “cốc” để về làng cũ nối lại đời sống tương đối êm ả bên con sông Đáy có chín tháng mỗi năm trôi xuôi nhẹ nhàng hầu như bất động.
Cũng trong thời gian này gia đình có hai đám tang. Một là ông thân sinh và hai là chị ruột của DTL, cùng qua đời năm 1946 cách nhau bốn tháng. Với bốn tuổi non nớt, DTL không còn nhớ gì nhiều ở ý thức, nhưng chắc hẳn trong tiềm thức và vô thức, DTL đã ghi sâu hình ảnh hai người thân yêu bị gói lại, bỏ vô hòm “rước” đi vùi xuống ở một bãi đất xa xôi, hoang lạnh. Những cảnh vật vã chết đi sống lại của bà mẹ, các chị, các cô, các chú...Cùng sống trong khung cảnh gia đình, mà người anh cả để lại, hai tập nhật ký trong sáng về sinh hoạt và tình yêu viết bằng Pháp văn khi anh đang học năm chót chương trình Thành Chung tại Thái Bình, đến thời kỳ tôi lớn lên cũng chia sẻ tất cả các biến cố thời DTL, chỉ khác tôi hơn Lê 12 tuổi nên tâm trí tôi dù có bị ảnh hưởng cũng không đến độ bi quan u ám như DTL. Và trong các sáng tác của tôi kể cả những nguồn gốc cảm hứng đen tối tuyệt vọng nhất vẫn dành cho thiên nhiên một vị trí lành mạnh chở che và ít nhiều năng lực hàn gắn phục hồi...
XUẤT THÂN TỪ MỘT GIA ĐÌNH NHO GIÁO, DO HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT THỜI ẤU THƠ,
DTL mang nặng một tiềm thức chống đối tập quán cứng rắn, giáo dục nghiêm khắc, quyền hành và vũ lực.
Từ tấm bé cho đến khi lớn lên Trung học, DTL lớn lên trong chiếc nôi đầy ắp tình thương của bà mẹ, trong những vòng tay êm ái vỗ về nâng niu của các bà chị, nên tất cả những gì trái ngược với dịu hiền, nhẹ nhàng, bao dung...đều bị DTL chống đối, phần lớn theo kiểu phái yếu : chịu đựng, âm thầm để dần dà tích lũy trong tiềm thức và sẵn sàng tuôn trào ra trong các vần thơ và các đoạn văn.
Như trên đã có dịp trình bày DTL có người anh kế cận lớn hơn năm tuổi. Người anh này tính bất thường và thích dùng sức mạnh bắt DTL theo mình. DTL đã phản ứng một cách rất ý nghĩa và tiêu cực là chọn đi chơi cùng người chị lớn hơn DTL hai tuổi và gia nhập nhóm bạn gái cùng lứa tuổi của chị. Dần dà DTL mang ảnh hưởng sâu đậm của các tính chất nữ phái đến độ tất cả những gì mang tính chất đàn ông, nghiêm khắc, quyền hành độc tài, sức mạnh đều bị DTL nhất tề chống đối mãnh liệt bằng mọi phương cách từ thụ động (nhẫn nhục) tới tích cực (bỏ nhà ra đi, tuyệt giao, ly dị...).
Nếu như thơ văn DTL được gán cho tính chất nổi loạn thì tôi nghĩ một trong những nguyên cớ là do sự kiện DTL đã thụ đắc từ thời thơ ấu bản chất nữ tính hầu như duy nhất độc tôn trong ý thức và vô thức.
DTL hy sinh cả sự gần gũi mẹ hiền và chị thảo để xa lánh quyền huynh trưởng quá nguyên tắc và nghiêm khắc bằng cách bỏ nhà ra đi tìm tự do ngay khi vừa chớm 14 tuổi. DTL đã phải cắt đứt tình nghĩa với các người tình và người vợ sau khi những người này bị hút cuốn tới DTL do bản năng mẫu tử muốn cưu mang, săn sóc, che chở cho hình ảnh một trẻ thơ cô đơn, thiếu an ninh, thiếu tình thương. Rồi cũng những người tình và người vợ này khi chuyển đổi vị trí từ người mẹ bao dung, dịu hiền sang vai trò người tình, người vợ trong cơn thịnh nộ của “ngứa ghẻ, hờn ghen” đã vũ bão phản ứng, la hét đôi khi dùng vũ lực đánh đập đâm chém DTL. Kết quả đương nhiên là tan vỡ vì họ đã va phải cái thành trì bất bại tức bản năng dịu dàng uyển chuyển “nhu thắng cương” của nữ phái nằm sâu trong tâm thức DTL.
Sau người anh kế cận mà tính nết trái hẳn với DTL. Tới tôi có lẽ là người cũng gây cho DTL nhiều xô xát về tính tình. DTL cũng phản ứng chống lại cung cách hướng dẫn gia đình (theo quan niệm quyền huynh thế phụ) của tôi. Tuy nhiên, do các hoạt động trí thức của tôi, ít nhiều tôi nghĩ DTL cũng có bị ảnh hưởng dù ở chiều này hay chiều kia của mức trung dung.
Trước 1953, gia đình chúng tôi còn do bà mẹ và bà chị dâu quán xuyến. Tới 1954, nhất là sau Geneve trách nhiệm lo toan đã chuyển sang cho vợ chồng tôi, vì hoàn cảnh di cư, bà chị dâu cả không vào Nam, bà mẹ chúng tôi cũng không thể sử dụng các khả năng kinh doanh. Cũng vào dịp này, DTL lên Trung học và đậu vào Chu Văn An. Vợ tôi nhờ ông chú Y sĩ đưa DTL vào bệnh viện Thanh Quan giải phẩu cắt bỏ một “Cự Phách” (nghĩa đen là ngón tay cái lớn). DTL gia nhập đoàn Hướng Đạo và đồng thời có một số bạn hợp tâm hợp tính. Sinh hoạt Hướng đạo tạo cho DTL một thân thể tương đối cường tráng trong một tâm hồn trong lành. Nhưng có lẽ chính nhóm bạn CVA này đã ảnh hưởng tới khuynh hướng sinh hoạt tương lai của DTL. Vì phải đảm trách đại gia đình gồm mẹ tôi va hai con nhỏ, nên vì quản trị ngân sách gia đình tôi có phần chặt chẽ. Do đó ai nấy đều không được hài lòng kể từ mẹ tôi trở xuống qua vợ con tôi đến các em. Về phương diện hướng dẫn sinh hoạt hàng ngày để nhắm tới thăng tiến trong tương lai, đường lối tôi yêu cầu các em áp dụng rất giản dị nhưng cũng khó tuân theo : phải chăm học để được xếp vào hạng trên cùng, ngoài giờ đi học về, phải ở nhà chăm chỉ trau dồi bài vở, không tụ chúng tụ bạn đi chơi trừ một buổi sáng hoặc chiều cuối tuần. Thời khắc biểu và nguyên tắc này dĩ nhiên bị chống đối. Em gái tôi duy nhất tuân theo mặc dù là miễn cưỡng. Còn hai em trai trong đó có DTL rõ ràng là không theo. Do đó có nhiều khi tôi phải dùng tới hình phạt roi vọt...điều này cũng gây nhiều giận hờn nơi các em tôi và đã từng phản ảnh trong một vài sáng tác của DTL.
Ngoài các điều gò bó hàng ngày trong sự sống của một người muốn sống đàng hoàng, tôi coi như một hoạt động giải trí (hobby) hay đó là một hoạt động tinh thần nhằm giải tỏa thực tại (evasion) trong việc đọc thơ văn, nghiên cứu đàm đạo văn nghệ với bạn hữu từ trung học tại Hậu phương thời kháng chiến cho tới Đại học Hà Nội hoặc tại các buổi sinh hoạt văn hóa thu hẹp ở các trường tư thục tôi dạy từ Hà Nội, Hải Phòng tới Sài Gòn – Gia Định.
1957, DTL bắt đầu viết văn, làm thơ, gởi đăng tại các báo Sài gòn.
1960, DTL mười tám tuổi, vướng mắc vào một cuộc tình vũ bão đầu tiên với một cô gái Tàu trong Chợ Lớn. Gia đình phải can thiệp, dàn xếp với phía người con gái. Năm sau, DTL rời gia đình đi tìm cho mình một nếp sống riêng. DTL chọn cho mình nghề viết văn và làm thơ. Sinh hoạt tinh thần đặc thù này duy nhất có triển vọng giúp DTL giải đáp được những câu hỏi lớn của chính cuộc sống, của chính sự hiện diện của con người trên mặt đất và sinh thành của tình yêu và hận thù, của thiên nhiên vô lý mà cũng hữu tình. Tất cả những điều này, những sự kiện này, những cuốn phim ảnh này, đã từng lớp chất chồng dồn nén trong tâm thức chú út “Cự Phách” của họ Lê Đình, từ khi sanh 1942 tại Quế Quyển Hà Nam tới bước di cư đầu tiên lên Hà Nội năm 1951. Sau đó chỉ còn là những dấu hỏi lớn kể trên mà cường độ do tác dụng “nhịp bước đều” đã tăng lên khủng khiếp như từng được phủ nhận trong thơ văn DTL từ thập niên 1960 tới đầu thập niên 1990
– 2/1992
Mai Thảo - Thăm Thẳm Núi, Non.
Mỗi lần đi vào tiệm rượu quen của anh bạn Thuận trên đường Brookhurst, kiểm lại túi tiền, thấy cái túi bớt phần hiu quạnh, lần ấy tôi thường ở lại tiệm Thuận lâu hơn. Đi tà tà một vòng qua những kệ rượu, trên vai kề vai cả ngàn nhãn hiệu danh tiếng của mọi vùng trời Lưu Linh thế giới. Chọn cho mình một chai “xuất sắc” hơn thứ uống khiêm nhượng hàng ngày.
Chọn. Chọn rượu - mấy vị làm thơ tình Nguyên Sa, Du Tử Lê cả đời chanh đường, xá xị chắc ở ngoài vấn nạn văn chương này - là cả một nghệ thuật, không phải chuyện rỡn. Nhất là chọn được rượu hay còn hợp với túi tiền. Dễ như anh chàng “Johnny Đi Bộ” ngày trước cả nước Saigòn cùng uống, cũng phải phân biệt. Sư phụ Johnny “cổ đen,” nhãn ghi đầy đủ mười hai năm bế môn luyện kiếm, chất men dịu, đằm cùng năm tháng, một vực trời hơn đệ tử Johnny “cổ đỏ” còn trẻ thơ tuổi ngọc tuổi vàng. Đến “Cognac” đã khó hơn một bậc. Có chai trong, có chai mờ. Cái nhãn “VS” cấp thấp lên dần tới Tỉnh Ủy “OP,” tới chót vót đỉnh Giải Xanh, Giải Bạc. Rồi tới Chát đỏ, còn phức tạp và kinh điển hơn nữa. Rượu chọn theo tuổi rượu, còn trên nơi chốn chào đời, trên mùa rượu xấu, tốt. Cùng một ngọn đồi Côte du Rhône, sườn đồi đông nhiều mặt trời, vị nho đã khác với đồi tây không nắng. Mỗi năm nho cũng một khác. Năm được mùa, nhờ thời tiết và mưa nắng thuận hòa, chưa cần ngon vì nấu, cất, rượu đã ngon từ trên cành ngon đi.
Vắn tắt, phải có thời gian, phải có năm tháng. Chưa tới được trưởng thành những đời người chưa đủ số nếm sinh nhật. Rượu ngon hệt vậy. Muốn xuất sắc phải một rừng nến thắp, đừng một ngọn đã cắt liền bánh ăn. Thâm niên, có quá khứ, rượu ngon hơn bội phần nhờ thời gian là người thợ hoàn chỉnh siêu việt, biến được rượu từ trạng thái khởi đầu xóc gắt tới cái trạng thái gấm nhung đậm đà, ông Lý Bạch uống một hớp uống cả nỗi buồn vạn cổ, cụ Tản Đà làm một tợp, thấy cả “nước đi đi mãi không về cùng non!” Trong “Chùa Đàn,” Nguyễn Tuân đã dành nhiều trang yêu ngôn để tả cái ngon tuyệt vời của hai nhãn rượu huyền thoại. Một là “Vô Cố Nhân”, một là “Ức Sầu Viên.” Rượu do thiên tài Út Lãnh cất riêng cho chủ, đã tới tột đỉnh của bí truyền mà chưa thể uống ngay, trong cánh rừng Mê Thảo còn phải đủ chín tháng mười ngày hạ thổ. Thời gian đất, nước phải tới tuần, trăng phải tới vận mới đúng. Nóng là không được. Phải chờ. Phải chờ mới có XO; mới có Giải Bạc, mới có Ức Sầu Viên.
Là tửu đồ đời sau, tôi yêu lắm hai câu thơ tuyệt tác của Tản Đà, tửu đồ đời trước:
“Trăm năm thơ túi rượu vò
“Ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai.”
Yêu cái nhịp lục bát lồng lộng. Còn yêu cái ý thời gian được nói trong thơ. Trăm năm thơ - ngàn năm rượu. Lâu chưa. Ghê chưa. Trăm năm, ngàn năm cả, chốc lát, chỉ là chữ và giấy mất tích, cái chất men làm cho nhức đầu. Suy diễn thêm, thấy đích thực thơ hay và rượu ngon, trong cùng một tiêu chuẩn, rượu và thơ hay từ cùng một chân lý. Phải mùa tốt trước đã. Mùa xấu, trái nho gầy, chế biến giỏi mấy cũng chỉ một thứ vin de table. Nho trồng trên ngọn đồi tâm hồn thi sĩ cũng vậy. Xấu từ mùa từ gốc, mỹ viện cho thơ cách nào cũng không hóa trang được cái chất thơ dở thành hàng châu ngọc, đem dự thi Hoa Hậu Long Beach, rớt từ vòng đầu là tự nhiên thôi.
Quan yếu hơn hết là yếu tố thời gian. Tôi gọi thời gian này là thời gian hạ thổ của thơ, là Cõi Thơ Bên Trong. Thơ trong đầu, trong tâm, thơ chưa thành tiếng thành lời, chính là cái mùa nho xấu hoặc tốt của từng thi sĩ. Địa hạt tiểu thuyết gọi đó là khoảng cách. Thiếu khoảng cách, tầm mắt chỉ nhìn thấy một phiến lá không thấy được toàn thể cánh rừng. Khoảng cách, trọng lượng, chiều sâu, gọi là gì cũng là thời gian cả. Thiếu thời gian là những cõi thơ thiếu tháng, đủ thời gian thơ là Vô Cố Nhân chín tháng mười ngày. Quy luật ấy của đời sống cũng là quy luật thơ. Từ những mạch nước dồn đẩy mới có con suối thủy tinh. Lúa mẩy hạt từ mạ lực lưỡng. Phải cả một mùa nắng mới có kết tinh của đường của mật, và một trăm đêm sương mới có một bình minh hoa nở đầy cành. Đó là vận trình của thơ đi tới thơ hay. Vận trình đó bao giờ cũng thấy ở những tài thơ lớn.
Nhận định về người thơ và tiến trình của thơ hắn với chính hắn, thì gian gần đây Du Tử Lê làm thơ hay, có nhiều thơ hay, trong cái nhìn của tôi và như phiếm luận nhỏ về rượu ở trên về rượu, trước hết là bởi trên ngọn đồi Côte du Rhône ở Ranchero Way, nhà thơ vừa có một năm nho, một mùa nho đặc biệt. Rồi cất, nấu cũng tinh xảo hơn. Rồi hạ thổ nữa, đầy đủ tháng ngày. Những bài tôi yêu và cho là xuất sắc nhất trong “Love Poems” cho thấy rõ vậy. Rằng có thể vẫn trong dòng rung động trữ tình của những bài thơ đã làm trong quá khứ – tính chất đồng nhất của tác phẩm là bản thể bất biến của thi sĩ – nhưng chất thơ của thi sĩ bây giờ mới thật sự và hoàn toàn loại bỏ được cái xóc, cái gắt để chỉ còn cái đằm, cái đằm trong dáng điệu của bài thơ và hình ảnh của lời thơ. Rằng hầm rượu dưới đất, bông hồng trong tuyết, cõi thơ bên trong, con tầm và tơ vàng, cái chai mờ trong tiệm rượu của Thuận, một tiến trình đã viên mãn tới bến. Rằng thơ đã có “hương thời gian tím ngát” – Thơ còn có “màu thời gian thanh thanh” và thơ hay.
“tôi ngồi trong cõi tôi, riêng
“bên trong ghế lạnh, ngoài hiên bóng, rời
“phòng tôi trần thiết gương người
“tường sơn kỷ niệm, vách bồi dáng xưa
“tóc người chảy suốt cơn mưa
“ngực thơm hoa bưởi, môi đưa bão, về...”
Thấy chưa, thời gian. Ngồi thiệt lâu đấy. Không đứng ngay lên ngay. Ngồi kỹ. Tới ghế lạnh đi, bóng rời đi kia mà. Tới “ngực thơm hoa bưởi, môi đưa bão về” “vưỡn” cứ còn ngời kia mà. Bởi thế thơ có “tháng tám về rất lạ,” có “tháng chín” nắng về còn kỳ lạ hơn nữa. Bởi thế có thơ hình người trong gương, dáng người trên tường, lấp lánh thật nhiều hình tượng sinh động trong căn phòng tâm hồn đó mà Du Tử Lê gọi chung là “Cõi Tôi Riêng.”
“em về thăm thẳm núi, non
“hồn sông, lòng suối, thịt, xương chốn nào
“mai quên nhau, mất lời chào
“hôm nay chăn, gối vẫn ngào ngạt hương...”
Đêm ra mắt “Thơ Tình” ở Lup, tôi cũng có dưới gầm bàn một chai mờ. Bèn cùng Hoàng Anh Tuấn làm một ly cho “thăm thẳm núi, non,” cho “môi đưa bão về.” Rồi lên đọc mấy câu thơ trên của “Thơ Tình.” Được lắm. Thấy là hồn sông, lòng suối. Thấy là vách bồi dáng xưa. Thấy là tường sơn kỷ niệm. Thấy là thăm thẳm núi, non.
Mai Thảo
1-1985.
(Tuần báo Tay Phải, 31-1-85 / Sưu tập của Trần Duy Đức.)
Lã Huy Quý - Tình mẫu tử trong thơ Du Tử Lê
Đọc thơ, theo tôi, hoàn toàn khác với đọc truyện, đọc tiểu thuyết. Một truyện, dù là truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, dù là tiểu thuyết khoa học giả tưởng, thì cốt lõi của nó, cũng có một chủ đề, một cốt truyện để ta theo dõi. Còn thơ, trừ những cuốn truyện kể bằng văn vần, những vở kịch viết bằng văn vần mà ta gọi là kịch thơ, thì mỗi bài thơ dù dài, dù ngắn, là những biểu lộ tình cảm phức tạp, muôn mầu, muôn vẻ của người làm thơ. Mỗi cuốn thơ lại là một tập thơ của nhiều bài thơ. Cho nên, giới thiệu một cuốn truyện, một cuốn tiểu thuyết, chỉ đòi hỏi nơi tôi thì giờ để đọc và nắm vững chủ đề, cốt truyện, một số điểm căn bản trong nghệ thuật diễn tả cốt truyện, một số ẩn ý tác giả không viết rõ ra vì lý do này, hay vì lý do khác, một số tác dụng khách quan của tác phẩm đến người đọc -những tác dụng ngoài ý muốn của tác giả, đôi khi ngược với ý muốn của tác giả nữa. Nhưng khi giới thiệu một tập thơm dù tôi đã cố hết sức để hiểu xem trong mỗi bài thơ tác giả muốn nói gì, có chủ đề gì nối kết những bài thơ này với nhau trong tập thơ không, nghệ thuật sáng tạo của tác giả có điểm gì đặc biệt, giữa những hàng chữ, với những cái chấm, cái phẩy, những chỗ qua hàng (xuống dòng) tác giả muốn diễn ý gì, tôi phải thú thực rằng nhiều khi bị bế tắc. Cái “bất túc” của kiến thức, cái chai lỳ của tình cảm, cái thói quen thích ứng với đời sống duy lý nơi tạm dung, và có thể nói thêm, cái thì giờ ít ỏi mà tôi có sau những buổi làm việc, là những lý do đưa đến sự bế tắc đó.
Ngày xưa, khi đứng trên bục giảng để giảng cho học trò, phần lớn về văn thơ cổ, có cả những bài được gọi là thơ mới, một cái mới đầy rụt rè của thời tiền chiến, những người làm nghề dạy học chúng tôi không phải động não dữ dội như ngày nay khi phải giới thiệu một tập thơ.
Các cụ ta, các bậc tiền bối trong nền văn thơ chữ quốc ngữ, dù ảnh hưởng Tầu hay Tây, vẫn theo một số quy luật, công thức của nghệ thuật và bị ràng buộc, giới hạn tư tưởng, tình cảm có tính cách cổ điển. Phá công thức, linh động hóa những quy luật, tự do sáng tạo, và rất riêng tư là những đặc điểm của thơ Du Tử Lê.
Tuy vậy, Du Tử Lê đã không tự cắt đứt mình với dòng sống chung của loài người, của dân tộc. Du Tử Lê đã không “bình cũ rượu mới” hay “rượu cũ bình mới”, thơ của Du Tử Lê thuộc loại “bình mới mà rượu cũng mới”, nhưng đó là cái mới nối tiếp những tinh túy, tốt đẹp, thăng hoa của cái cũ chứ không cắt đứt hoàn toàn với cái cũ. Chính vì vậy mà thơ của Du Tử Lê được ưa thích, được phổ biến rộng rãi, mặc dù không phải là loại thơ dễ hiểu, dễ cảm.
Sự dễ hiểu, dễ cảm, mộc mạc có cái đẹp riêng. Giá trị của ca dao, của thơ Nguyễn Bính v.v... là một điều không ai có thể chối cãi. Nhưng, không phải vì công nhận giá trị này rồi không còn thấy bất cứ cái gì khác có giá trị nữa.
Trong thơ Du Tử Lê, cái mới nhất, theo tôi, là những từ ngữ, hình ảnh mang đầy tính chất sáng tạo và riêng tư của anh. Đây là phần khiến cho chúng ta có cảm tưởng thích thú nhất, nhưng đồng thời cũng là điều khiến chúng ta “vỡ đầu” nhất, và đôi khi có thể ngăn cản thơ Du Tử Lê tới với một số người yêu thơ, nhất là những người trẻ yêu thơ trong giới trẻ hiện nay ở hải ngoại.
Du Tử Lê làm thơ tình, tình yêu xứ sở quê hương, yêu bạn bè, thân quyến, tình yêu trai gái, tình yêu từ mẫu... Làm thơ để bộc lộ tình cảm của mình, trước hết cho mình, kế đến mới cho người, cho nên, Du Tử Lê rất tự do trong sự lựa chọn đề tài, thể cách, nhịp điệu, ngôn từ.
Trong thơ tình của Du Tử Lê cũng có rung động nhẹ nhàng hay mãnh liệt, cũng có nhớ nhung thoáng qua hay thiết tha, ray rứt, cũng có hứa hẹn, hy vọng, cũng có giận hờn, oán trách, và, cũng tràn ngập những đau thương. Người yêu của nhà thơ khi thì là Bồ Tát, khi biến thành Thánh Nữ, điều này đâu có quan trọng. Điều quan trọng là cả Bồ Tát lẫn Thánh Nữ đều phải hành xử như một Từ Mẫu. Không phải từ mẫu cho những đứa con của nhà thơ, mà là từ mẫu của chính nhà thơ.
Nhìn cái bề ngoài có vẻ bất cần đời của nhà thơ, nhìn vào nếp sống tình cảm, nếp sống gia đình, có vẻ bất cần dư luận, nhiều người chắc nghĩ Du Tử Lê phải là một người hướng nội mãnh liệt. Sự thực theo tôi nghĩ, sau khi nghiền ngẫm, tìm hiểu những bài thơ của anh, có lẽ là trái lại. Điều tôi nghĩ về Du Tử Lê có thể không đúng, nhưng qua thơ anh, tôi vẫn thấy anh là người hướng ngoại. Du Tử Lê không thể sống không có bạn bè, không có người yêu. Du Tử Lê thèm khát và chỉ cảm thấy có hạnh phúc khi được thương mến, vỗ về, săn sóc. Người yêu của Du Tử Lê phải đồng thời là một từ mẫu, bởi vậy phải tràn đầy mẫu tính. Một hôm, tôi gọi điện thoại cho Du Tử Lê cốt để giải tỏa một thắc mắc trong lúc sửa soạn bài giới thiệu anh với bạn bè, thân hữu tại Houston. Tôi hỏi Du Tử Lê:
“Này ông, bà cụ mất lâu chưa, sao trong thơ của ông tôi thấy hình ảnh của bà cụ còn rất lớn lao, kể cả khi tôi thấy ông nói về người yêu. Cái giọng hờn dỗi, oán trách của ông, ẩn dưới những lời kể lể, than vãn, hay thái độ tự tồn, tự tại, với bạn bè, hay người yêu dường như là giọng điệu, thái độ làm nũng, hờn dỗi với mẹ hiền...”
Thật sự cho đến khi Du Tử Lê xác nhận với tôi những nhận xét của tôi là đúng, và nghĩ tôi đã dùng phân tâm học để giải thích thơ của anh, những điều tôi hỏi anh vẫn chỉ là những cảm tưởng, mặc dù khá đậm đặc, rõ nét, nhưng thiếu một chứng minh cần thiết. Tôi cũng chẳng biết Du Tử Lê vốn là cậu út được cưng chiều. Tôi còn hỏi anh trong cú điện thoại vừa kể, và được xác nhận là, dù anh có gọi người yêu của anh là Thánh Nữ, dù anh có nói đến thập tự giá, đến Chúa, đến Đức Mẹ, nhưng giáo lý thấm vào hồn, vào tim anh là Phật giáo. “Đi Với Về Cũng Một Nghĩa Như Nhau” chỉ riêng tựa đề cuốn thơ đã nói lên điều này.
Nếu ta bắt đầu từ “Thơ Tình”, rồi qua “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu” đến “Đi Với Về Cũng Một Nghĩa Như Nhau”, ta thấy rõ rệt tác giả đã đi từ “bờ mê” đến “bến giác”, từ chỗ “vô minh” đến chỗ “giác ngộ”. Nhưng, đó là qua đề tài những cuốn thơ mà tác giả xuất bản từ năm 1984 đến nay.
Đọc vào nội dung những bài thơ trong cuốn mới nhất, tôi thấy công cuộc giác ngộ “tịnh hóa” bản thân của tác giả hãy còn nằm trong giới hạn của bước khởi đầu. Bởi theo tôi, việc theo đạo Phật không chỉ ở việc thuộc và giảng được kinh, ở việc đi chùa, ăn chay, mà ở việc “tịnh hóa bản thân”, nghĩa là làm cho chính bản thân mình trở lại được trạng thái quân bình, trạng thái tĩnh, tịnh. Hãy đọc “Hiến Chương Tình Yêu Ngày 14-2”, với 9 điều hứa hẹn, hãy đọc “Ngọc Thi” với 8 điều “cho tôi”, rồi... đây “Buổi sáng thở cùng tôi hơi hướm mẹ” với:
vực thương nhớ thẳm sâu tôi réo gọi
em đôi bờ nhật nguyệt có rưng rưng
trưa thả tóc xuống lòng chiều bối rối
vai tôi đây. Xin đón nhận Tin Mừng
“như dấu ấn đóng trên vầng trán, tối
thơ tôi buồn từ thuở nắng mưa, sang
chim có trời với đất, rất thênh thang
tôi chẳng có một chốn nào để ở”
Và:
“buổi sáng thở cùng tôi hơi hướm mẹ
thở cùng tôi mùi áo cũ, xa xôi
em và mẹ tôi và tôi là... một nhé
dấu yêu ơi! phải tôi đã điên rồi?”
Không tác giả không điên, tác giả đang tiến đến bờ giác, đến “phá chấp triệt để” để nhận thức được tính nhất nguyên, sự mâu thuẫn thống nhất thường hằng của vũ trụ. Sắc tức thị không, không tức thị sắc, khứ tức thị lai, lai tức thị khứ, và tôi, và em, và mẹ vốn là một từ thủy đến chung, chỉ có sự nhầm lẫn, sự vô minh khiến ta phân biệt đấy chứ.
“Bay Suốt Đời Chưa Thấy Được Mình” một bài thơ khác trong phần thứ hai, cũng chứa đầy những dấu hỏi, những thôi thúc nội tâm về một nhu cầu tự giác.
Tôi thì tôi không tin và cũng không muốn tác giả tự giác triệt để, vì nếu như vậy thì còn đâu những cảm xúc sôi động để tạo nên những vần thơ tình bất hủ Du Tử Lê.
Một hôm, giờ nghỉ, ngồi trong sở, tôi đọc cho một người bạn trẻ cùng sở, một đoạn thơ Du Tử Lê. Nghe xong người bạn này nói với tôi: “Chú chép cho cháu bài thơ đó để cháu phổ nhạc, cháu chẳng hiểu ông ấy nói gì nhưng nghe chú đọc cháu thấy “phê” lắm.”
Sự kiện tình cờ này đã khiến tôi chứng thực được với mình một điều mà trước đó tôi vẫn chưa chắc chắn. Đó là, khi đọc thơ Du Tử Lê, nhiều khi vì tác giả muốn sử dụng một kỹ thuật mới, nhiều khi vì tác giả muốn ý thơ cô đọng, tác giả đã có một cách chấm câu rất đặc biệt. Muốn hiểu những câu thơ này không phải dễ dàng. Nhưng nếu ta tạm gác một bên nhu cầu “hiểu” để thử quen đi với những dấu chấm, dấu phẩy, đọc thơ Du Tử Lê với toàn câu, theo nhịp thơ lục bát, thất ngôn, ta vẫn cảm được thơ anh.
Âm điệu thơ Du Tử Lê, theo tôi, có lẽ là một lý do quan trọng dẫn đến việc thơ anh được các nhạc sĩ phổ nhạc, bên cạnh xúc cảm mãnh liệt mà thơ anh đã gây được trong người đọc qua hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ...
Nhiều nhà thơ cổ đã lưu danh chỉ nhờ một bài thơ, có thể chỉ một bài ngũ ngôn tứ tuyệt. Mỗi người trong chúng ta lại có một cách thưởng thức, đánh giá thi ca riêng, nhưng dù thưởng thức, đánh giá thi ca theo cách nào thì tôi cũng tin rằng mỗi người chúng ta đều tìm được nhiều bài, nhiều câu trong gần 200 trang thơ này những rung động do tác giả truyền tới, những điều muốn nói được tác giả nói hộ một cách chính xác, nghệ thuật.
Trước khi chấm dứt bài viết này, tôi xin mời bạn đọc đọc bài “Hành Nước Non”* tác giả viết cách đây trên hai năm. Hai năm trước và bây giờ, tôi chắc chắn tư tưởng cũng như tình cảm của tác giả đã có biến chuyển, và xúc cảm tác giả muốn truyền đến người đọc qua “Hành Nước Non” nếu viết lại cũng sẽ khác, từ đó ta nhầm cảm cái “vô thường” của cuộc đời, để vứt bỏ cái lăng kính “hữu thường” đầy khuôn mẫu, thành kiến, kết luận, nhìn cuộc đời chung quanh.
Nguyễn mạnh Trinh - Thơ Du Tử Lê: Chất ma túy để con người mải miết mộng du
Đời sống của những người làm thơ thường lẫn lộn giữa mộng và thực. Bên cạnh những tâm tư chất ngất, những ray rứt tháng ngày, những vết thương chưa liền thịt, những đêm thức trắng mù mây vẫn có trời đất mênh mông, có mưa có nắng và có cỏ có hoa. Đau khổ đôi khi làm mòn cuộc sống nhưng ở một mặt khác có sức lôi kéo của sự cộng hưởng từ những người cùng chung sợi giây đàn rung lên từ trí nhớ, dù là vần điệu bảy chữ hay lục bát để trái tim còn dòng máu trở về chút thơ mộng hiếm hoi của đời lưu lạc vẫn còn được nâng niu từ cõi lòng rất rộng. Trong tình yêu thơ hình như là những hằn dấu riêng biệt cho một người, cho một đời. Nhưng không phải chỉ có thế. Đời sống còn nhiều đa diện, thơ viết cho mẹ già vừa rời khỏi chốn trần gian hay viết cho bạn hữu, cho những người cùng cam chịu cái chát đắng lưu lạc, tất cả vẫn là ngôn ngữ của trái tim, của đời sống bồi hồi trong nhịp bước hối hả của người đi tìm lại xương thịt của chính mình. Với “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu” thơ Du Tử Lê là tiếng nói vọng về từ cảm xúc, của lời dội ngược từ tận thẳm ý nghĩa, dù là Lãm ca, hay Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, hoặc Trường khúc Mẹ về biển đông, vẫn chỉ là tâm và lời đồng vọng, của ý tưởng não nề, của chập chờn quá khứ, mờ ảo tương lai, của nắm tay mỏi rời nắm lại rồi buông xuôi tất cả. Thơ chẳng phải là tiếng than, giọt lệ, mà hơn thế nữa ở khổ đau của mắt cạn khô và lòng rã tan, của tiếng hú bi thương đến muôn trùng nhưng thấm dấu trong lồng ngực chuỗi âm thanh cố nén.
Những bài thơ viết cho một người có nhân gian là nỗi sầu mênh mông, áo thời gian là nỗi đau cùng mưa nắng. Thơ ở trong trí nhớ, như vết thương của đau cắt chia lìa. Thời gian là tháng giêng hay tháng một, chạp vẫn chỉ là bản mốc cắm lên theo cõi đi của người đi tìm lại hình bóng của chính mình hay chính cuộc đời mình mà đôi khi ngu ngơ trong vô thức như chốn nhân gian kia, thế nhân không thể hiểu thấu. Tình yêu có phải đầy cảnh tượng của người vác thập giá khổ hình hay chính là âm thanh gửi đến nhau của chuỗi ngày hư hao phai tàn. Những nhan đề thơ “mất hay còn chưa hẳn khác nhau đau”, hay “để ngày sau em còn chỗ đi về”,... có phải là lời nhắc nhở của trái tim thống hối, của lời kêu đến biệt thẳm muôn trùng đến chữ nghĩa thét gào.
Thử đọc một bài lục bát, trong phần Thứ nhất: Lãm ca của tập thơ, để thấy nỗi buồn quấn quýt, để thấy sông núi chia lìa, để quá khứ, hiện tại là đường tàu đi song song nhưng đã nhập hòa chung điểm đến ở bên kia đời sống:
đường trên cao. Dốc dưới đèo
lá ôm vai tôi. Cây treo giữa trời
em về con mắt theo đuôi
hai mươi năm trước, ai ngồi ở đây?
soi bàn tay. Soi bàn tay
thấy gân không máu thấy mây vừa tầm
ngó bàn chân. Ngó bàn chân
ngón ta thương nhất có còn sơn xanh
(Lãm ca năm hai ngàn).
Bài thơ bảy chữ khác, bài nắng mưa thứ thất, lại là tiếng nói khát vọng về từ kỷ niệm của ngày tháng trên tiêu điều mưa nắng, của sông gọi núi, của vợi buồn từ hôm nay đến tận ngàn sau:
này yêu dấu thiệt không vầng trán tối
những đường nhăn kẻ đậm tháng năm dài
sợi tóc bạc nói về em dối trá
buổi chiều ai chợt xẻ đứt đôi vai
này yêu dấu thiệt không trưa rất nắng
dỗ đầy sân từng đốm lá tương tư
em đâu biết mùi hương còn ủ lại
giữa tim tôi từ thuở tự giam tù
…
Thơ lại bước những bước đu giây giữa văn chương và thực tại, giữa máu xương vùi dập và cõi thực nát tan, của những rung động đến chết điếng thịt da. Còn cách thế nào ghi chép lại được thơ hơn giữa bước đi tới hoặc khi ngã xấp xuống vực thẳm, khi thơ là đau buốt chất chồng của chọn lựa giữa suốt trong tinh sạch và đọa lạc nhụa nhầy. Bài của chốn nhân gian lạ lùng của tôi không ai hiểu thấu, của mưa nắng chợt đi chợt đến, của nỗi sầu vô hạn theo gió cuốn của củi than riêng một đời đã đốt. Từ xưa tới giờ đã có nhiều người làm thơ để viết cho một người, viết về một người, nhưng có lẽ ít người có giọng tha thiết như Du Tử Lê. Thơ tượng hình từ da thịt máu xương, như nỗi đau có và chẳng thể rời lìa. Ngôn ngữ thơ không biết chứa bao nhiêu tình huyết của tận tuyệt tột cùng nên đã có vóc dáng của những niềm ước mơ đến từ tuyệt vọng. Phần thứ hai Ở chỗ nhân gian không thể hiểu, thi sĩ đã chuyển đến những đối tượng khác, cho nhiều người và chẳng phải chỉ một người. Thơ gửi đến những người thân gần những bằng hữu đã xẻ chia đời sống. Thơ gửi tri âm với nát tan cuồng nộ, thơ gửi kỷ niệm nâng niu có nơi chốn cũ, có khung cảnh bây giờ. Nhưng dù viết cho ai, nói cho ai, gửi điều gì, ở nơi chốn nào, thơ vẫn là những nung nấu một đời chồng chất, chẳng ai hiểu, không ai hay. Thơ hiếm nỗi vui dù người thơ độc thoại hay đối thoại. Thơ tràn đầy nỗi buồn dù ở Sàigòn xưa cũ hay Cali hôm nay. Gió không phải là gió mát mà sắt se buốt lạnh thịt xương, nắng không phải là nắng thủy tinh long lanh trong mắt mà chỉ là dáng quái chiều hôm lạnh lùng. Cõi thẳm sâu ấy ở liền với một đời và ở cùng với người. Thơ vì thế cũng rung ở trong nhịp tim những vần điệu của đời người không hạnh phúc.
ngủ đi. Ngủ với biển trời
ngủ mười năm nữa hãy ngồi dậy chơi
ngủ đi. Ngủ chớ ngậm ngùi
trái tim ta nát ba đời bởi em
ngủ đi. Tóc rụng chân thềm
tháng năm quên lãng buông rèm lìa xa
ngủ đi. Ta đã mù lòa
không trông thấy ảnh không sờ thấy nhau
Nhìn quanh bạn hữu: ôi ngựa đã tan đàn cho Từ Công Phụng. Còn tê vết người gửi Đào Quý Châu. Bài chia tay giữa chợ cho Phạm Hữu Độ. Giữa trưa có kẻ cuồng điên khóc, Khánh Trường. Những đời nắng lụn những ngõ lìa xa, kiếp khác, nơi tôi nhỏ máu trong thơ, những tuổi cùng chung vai nỗi buồn như tiếng than hoài vọng lại:
ôi chữ nghĩa trở về như khách lạ
vầng trăng xưa ai cắm ngọn cờ
ngay em cũng bỏ tôi, vào cõi khác
lấy ai nhìn tôi nhỏ máu trong thơ
hay:
sông núi cũ rủ tôi về với đất
bốn mươi năm ngơ ngác làm người
trên thân xác đã mọc đầy móng vuốt
thì nói gì? Sai đúng với ai đây?
Thơ của vết máu in trên thập giá, của khổ hình trên vai dài theo bước đi cho hết kiếp người. Kỷ niệm tích chứa một đời rồi như than cũi thành tro và chẳng tượng hình được một nụ cười nào hong phơi ngày tháng lạ:
trên tay Chúa dấu đinh ngài bị đóng
cuối đời tôi than củi đã thành tro
em chẻ nhỏ khối tình tôi lỡ gửi
nhóm nổi không một ngọn lửa oan cừu
con đường nhỏ nhưng nối liền vô cực
đi mãi rồi, cũng chỉ thế thôi
ai chẳng biết phải không? Người cố nhớ
tự trầm tôi. Gương hắt ảnh ai cười.
Có phải cùng lứa bên trời lận đận không mà sao thơ Du Tử Lê gửi đến người chỉ thấy toàn màu đen tối thẳm, đêm tối của cõi âm và tâm tư tan tác cuồng điên. Thiên địa, đất trời, có bên này và bên kia tử sinh, sao chôn chặt hoài nỗi sầu không phai, vần điệu như nhịp thở tê điếng lồng ngực, ngôn ngữ ảo mờ như ngọn nến đỏ soi một cảnh tượng rã tan. Đời mình và đời người, tôi và bạn hữu, những vết thương còn mâng mủ, những đời người tiêu sài hoang phí tuổi xuân, như van tim hở của tháng ngày chờ đợi nghẹt thở, của lúc xuôi tay từ giã đi xa:
bạn bảo van tim ta hở
có lẽ. Nên đời mới lún sâu
bao nhiêu oan nghiệt chui vô ống
càng sống càng thêm chặt nỗi sầu
Phần cuối tập thơ, là Trường khúc Mẹ về biển đông với bốn đoản khúc: Ngôi nhà trắng, chiếc quan tài và những cây phong ở đường Beach; Những cánh cửa sổ, hồi chuông và buổi sáng; Những bông hoa Birdflower, nắm đất và sự trở lại; Chuyến bay muộn, ký ức và mẹ ở xa. Như một chuyện kể trải từ quá khứ gần đến dĩ vãng xa, từ ngày hôm qua đến buổi hôm nay, tấm lòng của đứa con đem gửi mẹ. Trong trí nhớ, mẹ ngày lìa xa, hôm qua và mẹ hôm nay trong lòng đất có khác gì mẹ ở ngôi nhà có nhiều cửa sổ nằm ven sông Đáy trong thượng nguồn ký ức rất xa. Vẫn là hình ảnh của một đời hy sinh cho con. Vẫn là đôi mắt âu yếm trẻ thơ. Và là bàn tay săn sóc khi con đã trưởng thành. Trường khúc là niềm thống hối nhớ lại, với những người thật chung quanh và cả những sự thật sượng sùng của đời sống. Thơ là chuỗi độc thoại nhưng cũng là đối thoại với cuộc đời, với hư không.
Mẹ ở đâu, ở ngôi nhà ven sông Đáy hay trên đường Phúc Kiến, ở cánh cửa ngó xuống những giọt lệ tức tưởi rơi ướt căn nhà đầu Phố Huế, hay căn phố Triệu Việt Vương, Hà Nội hay đường Cát Dài, Hải Phòng, đường Phan Bội Châu, Hội An, trên bến Bạch Đằng, Đà Nẵng, hay ngõ nhà đường Trương Minh Giảng, Sàigòn. Đâu đâu, Mẹ cũng là những bàn tay ấm, dịu hiền, là đau tủi cam chịu nhọc nhằn một mình. Dĩ vãng nhớ lại, có phải là muối xót tấm lòng, là vết thương cứ từng giờ đau nhói:
tôi đang đứng giữa hai đầu Nam Bắc
mà con đường xích đạo nối âm dương
mẹ tôi chết từ lâu hay mới chết
ai biết đời cháy đỏ một đêm thâu
...
ngôi nhà như trí nhớ
tiếng quạ như ngày mưa
ai buồn như tổ quốc
hồn sầu như quê xa
ai cũng biết rồi ta về với đất
liệu tôi về có kịp lúc sương đi?
...
khi tôi tới những bông hoa birdflower nở ối
cỏ cây chờ như tượng đã trăm năm
tôi muốn chọn một chỗ nằm bên cạnh
không còn cha môi mẹ máu hoen bầm
Thơ có ba phần của một người sao tôi cảm thấy có điều gì kết từ mảnh đời riêng và cảnh ngộ chung. Đọc xong tập thơ, bỗng dưng nỗi buồn lan tỏa trong không gian và tiếng sóng ở bờ biển Santa Monica ở gần nhà vỗ nhịp như đánh thức tôi trong đời riêng ai đó. Chẳng có ai đòi chia xẻ nỗi buồn nhưng sao kỳ lạ, nỗi sầu dưng không cứ mãi len lén trong tâm...
Có lẽ một bài đọc sách không phải là những điều diễn dịch từ thơ nguyên bản. Thơ chẳng thể diễn dịch, nhưng sao tôi vẫn hối hả viết theo nhịp cảm của tâm hồn tôi. Thơ lôi kéo tôi, bắt tôi phải viết những điều mình nghĩ. Thì mặc kệ, xá gì diễn dịch với giới thiệu, tôi viết để đêm ngắn lại và niềm thao thức cũng phải cắt ngang theo. Cuộc sống người sao buồn, như tâm tư rối reng không ai hiểu và trần gian kia còn mù mịt giữa thực ảo khó phân biệt có chốn nhân gian nào để có được người hiểu thấu tấm lòng. Thơ Du Tử Lê sao nhiều buốt xót, có phải vì văn chương đã thành ma túy để con người mải miết mộng du...
NGUYỄN MẠNH TRINH
8-89
Huỳnh Hữu Cửu - Đọc tập thơ Đi Với Về…của Du Tử Lê
Cảm tác
“ Đi với về…như lời kinh Bát Nhã
Ơ phải rồi, là đó chứ không sai!
Cõi luân hồi bụi mù cơn gió lốc
Mộng qua rồi, chợt thấy bóng hình ta
Sau khi đọc hết tập thơ, cảm hứng cảm thông
Mộng hay thực, tử sinh niềm khắc khoải
Đường đi, về, ai rải rác lắm chông gai
(Nhưng mà) Lửa, Mộng, Thực, Tử sinh chừ dập tắt
Ta cả cười du hí chốn trần ai
Khánh Trường - nghĩ rời, khởi từ ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Hạ Lào, 1970,
Kéo tấm chăn bằng nỉ mỏng phủ kín ngực. Vẫn lạnh. Hơi lạnh từ đất bốc lên, thẩm thấu qua lớp nylon của chiếc võng cá nhân, nhức tê cột sống; hơi lạnh từ núi rừng trùng điệp bên ngoài lùa qua lỗ châu mai, buốt cóng da mặt. Một trái hỏa châu từ Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn phóng lên, nổ bung, ánh sáng chập chờn tỏa rộng, phủ chụp lên cánh rừng âm u bọc quanh chân đồi, ngọn đồi thoai thoải đã được khai quang trống lốc. Từ lưng chừng đồi bên ngoài giao thông hào, là lớp kẽm gia chằng chịt, ngang dọc, đan thành mắt lưới thấp lè tè sát mặt dất. Trái hỏa châu thấp dần, thấp dần..., rồi tắt ngấm trong trùng điệp của rừng. Cảnh vật lại chìm vội vào màu đêm. Trăng hạ tuần mù trong sương, ánh sáng yếu ớt không soi nổi vào căn hầm thăm thẳm đặc quánh mực xạ. Góc hầm, người lính truyền tin chốc chốc trở mình sột soạt. Đêm hun hút. Tiếng côn trùng rỉ rả, tiếng cú rúc, tiếng đại bác cầm canh dội âm trong không gian. Người Trung sĩ đốc canh đi ngang qua bên ngoài, báng súng đập vào giây nịt đạn kêu lách cách. Tôi đưa tay xem đồng hồ, cây kim ngắn dạ quang sáng lóa sắp vượt qua con số hai. Lại một ca gác mới.
Vẫn không thể ngủ.
Buổi chiều, khi trở lại căn cứ sau một ngày sục sạo chung quanh khu vực đóng quân. Rã rời. Tưởng sẽ nằm xuống là có thể ngủ được ngay. Nhưng lá thư của Th. từ hậu cứ chuyển lên theo chuyến tiếp tế lương thực ban sáng, do người Thượng sĩ Thường vụ trao lại, đã đẩy tôi vào tình trạng thức tỉnh hoang mang. Th. trốn gia đình vào Nam tìm tôi. Mười tám tuổi, tình yêu đầu, đam mê và liều lĩnh! Nàng đang ra sao? Đất lạ, quê người, tuổi đời non yếu, bất trắc nào sẽ đến với nàng? Mảnh giấy nhỏ của người bạn: Cô ấy đang ở nhà tôi. Bình yên mọi mặt. Bạn yên tâm. Làm sao có thể yên tâm khi tôi đang ở đây, cách Saigòn trên một nghìn cây số, giữa rừng núi điệp trùng. Cuộc hành quân chỉ mới ở giai đoạn đầu. Nếu mọi chuyện êm ả, cũng phải ít nhất ba tháng nữa chúng tôi mới trở lại hậu cứ. Ba tháng, chín mươi ngày... đâu phải một giờ, một khắc! Tôi thật không ngờ! Người con gái nhút nhát, chỉ một cái nắm tay đã run. Người con gái yêu văn chương, thuộc thơ hơn thuộc bài... Người con gái, trong bất cứ lá thư nào cho tôi cũng chép nguyên một bài thơ, hay ít nhất cũng một vài câu, vài đoạn của một thi sĩ nào đó. Lá thư chiều nay, là hai câu thơ của Du Tử Lê:
tình muôn thuở nên suốt đời vẫn mới
môi đam mê nên vẫn nụ hôn đầu.
Người con gái tưởng chừng như lau sậy, có thể ngã rập bất cứ lúc nào, dưới một con gió lớn, đã vượt ra khỏi vòng lễ giáo của gia đình, phó thác bản thân cho rủi may, để ru mình vào một tình yêu đầy bất trắc...
Làm sao tôi có thể yên tâm?
Gần hai mươi năm trôi qua. Người con gái đó, bây giờ, đã có với tôi ba đứa con, đã là người đàn bà nhận chịu bao nhiêu cơ cực thăng trầm, nhưng luôn luôn, và mãi mãi, vẫn là người vợ thủy chung, vẫn là tình muôn thuở nên suốt đời vẫn mới / môi đam mê nên vẫn nụ hôn đầu.
Hai câu thơ của thi sĩ Du Tử Lê, biết đâu đã góp thêm chút lửa cho ngọn đuốc tình kia còn rực rỡ cháy?
Nhưng Du Tử Lê, ông ấy là ai? Nghe nói đang làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến. Nghe nói là một tay rong chơi mê đắm trong tình trường. Nghe nói đã có nhiều người nữ đi qua đời ông. Những người nữ yêu chữ nghĩa. Những người nữ yêu thi ca. Những người nữ xem mộng mơ là lẽ sống còn. Tập thơ thứ nhất Đời Mãi Ở Phương Đông, dường như đã nằm trong ba lô tôi trong suốt một thời gian dài. Tôi mê thơ, bên cạnh những ngông nghênh ngạo ngược của Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, những băn khoan về thân phận, về đất nước, về tuổi trẻ... trong chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, Cao Thọai Châu, Phù Hư, Lâm Chương, Lâm Hảo Dũng, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Quốc Thái, Dương Phù Sao..., bao giờ thơ tình của Du Tử Lê cũng chiếm cứ một vị trí quan trọng trong trái tim tôi. Có thể nói không ngoa, những bài thơ đó, một phần nào, đã vun bồi cho tình yêu tôi, đã mở ra cho tôi những cửa khác. Những cánh cửa dẫn về miền vĩnh củu ngan ngát hương hoa. Bao nhiêu đêm, từ vùng hành quân trở về, trên cánh tay tôi là mái tóc dài óng mượt của Th., là hai vành tai mở rộng đón nghe, tôi đã đọc, đã ngâm những bài thơ mới nhất vừa được khai sinh từ Sứ Giả của Tình Yêu này. Nàng nghe, say sưa. Nàng nghe, như uống từng chữ, từng dòng. Nàng nghe, và với nụ cười phảng phất trên môi, bình yên trôi vào giấc ngủ.
Tôi thầm mong một ngày nào, cơ duyên đưa đẩy sẽ được gặp tác giả.
Nhìn xuống bãi cát vàng co dãn bởi những con sóng trắng xóa ngoài đại dương cuốn vào, rút ra từ mỏm núi, vào những buổi chiều, là thói quen gần như đã thành nếp trong suốt gần ba tháng tạm cư ở đảo. Và gần như không sót chiều nào, qua chiếc loa phóng thanh đặt tại văn phòng trại, những bài hát từ lâu không còn được nghe, những bài hát của một thời, đã được phát ra bềnh bồng giữa không gian lồng lộng, khuất chìm vào tiếng sóng âm âm. Trong số đó, một nhạc phẩm của Từ Công Phụng phổ thơ Du Tử Lê đã bao lần làm chúng tôi quặn xót ruột gan. Từng dòng nhạc, từng lời thơ chảy trong huyết quản tôi, gợi nhớ xót xa người con gái thuộc thơ hơn thuộc bài, người đàn bà đầu gối tay ấp bao nhiêu năm:
Hạnh phúc tôi...Hạnh phúc tôi...
Hạnh phúc đó bây giờ đã xa, tít tắp trong mù, ở phía bên kia mạt biển thẫm xanh, ở lại với bao nhiêu lo toan cho người chồng ra đi không biết sống chết thế nào. Ở lại với những đứa con đã bắt đầu khôn lớn mà sinh kế thì vật vã lao đao. Ở lại với chờ đợi mòn mỏi. Ở lại như bày sẻ cũ hom hem giữa bão giông cuộc đời.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Đó không là thơ?
Đó là tiếng gào tuyệt vọng của kỷ niệm! Tiếng gào dựng lên, dựng lại cổng trường Phan Chu Trinh. Những hàng phượng thưa lá không đủ bóng mát. Những trái phượng dài ngoằng như kiếm. Đại lộ Thống Nhất với hai hàng kiền kiền cao vút, dập dìu áo trắng sau giờ tan học. Trong rừng áo trắng đó, có Th.: con chim trắng nhỏ mang đôi cánh xanh mùa đông, như thơ của Nguyễn Nho Sa Mạc, tặng nàng. Có tôi, từ Bao Vinh, vùng hành quân của đơn vị, hai tay trái M.26, lội qua sông, tìm ra quốc lộ, đón xe vượt đèo Hải Vân, trốn chui trốn nhủi bao nhiêu trạm Quân Cảnh để chỉ vào được Đà Nẵng, đứng trước cổng trường phì phèo thuốc lá nhìn Th. thướt tha với cặp sách ôm trước ngực, ríu rít cùng bạn bè... Chỉ như thế rồi lại vội vã lên xẻ đò trở về đơn vị, nghênh ngang trình diện Tiểu đoàn trưởng: bỏ nhiệm sở trong lúc hành quân. Trọng tội. Hai mươi ngày trọng cấm. Ký ngay. Không thắc mắc khiếu nại. Đáng tội là cái chắc. Binh nghiệp coi mòi không khá! Cũng chẳng sao. Tôi đâu có ý định tiến thân bằng đường kiếm cung. Vả lại, cái giá phải trả cho một vài phút đắm say, như thế, đâu phải là đắt? Ông Du Tử Lê mang cả cuộc đời mấy mươi năm thành bại để trả, còn được kia mà.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Căn phòng nhỏ thấp hơn mặt lộ dễ có gần nửa thước, tiền thân là một...chuồng heo, chủ nhà sửa lại thành phòng để cho thuê. Căn phòng chỉ vừa đủ để kê một chiếc giường, một kệ gỗ làm chỗ nấu nướng, một giá sách máng trên tường, một giá vẽ dựng trong góc, nơi nhiều ánh sáng nhất, thứ ánh sáng bần tiện hắt dội vào phòng từ đường hành lanh tối tăm chạy dọc bên hông nhà chủ, qua khung cửa sổ chấn song lỏng lẻo, chỉ được đóng lại hoặc mở ra bằng một tấm nylon giăng ngang phía trên. Tấm nylon dãi dầu bao nhiêu năm tháng, màu xanh dã ngả thành màu xám bẩn, rách nát, te tua. Căn phòng vào mùa đông, nước mưa từ cống thoát nước ngoài con hẻm chạy không kịp, tràn vào, như thác, ngập mấp mé đầu gối. Muốn ra ngoài, phải nhún nhẩy trên một tấm ván dài bắc từ thành giường tới bậu cửa! Mưa dứt, là lập tức hì hục dùng thau, dùng nồi cong lưng tát... Căn phòng đó, căn phòng ba năm đầu tiên của vợ chồng, ở xóm Đạo Tân Việt, khốn khó là thế, nhưng vẫn chưa bao giờ thiếu vắng tiếng cười, vẫn ăm ắp hạnh phúc tôi.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Chiếc xe lăn cọc cạch, gò bụng Th. căng cao, bốn vách tường nhà hộ sinh lạnh lẽo, tiếng quạt trần quay nhanh trên đầu...Tiếng khóc sơ sinh... Con trai đầu lòng. Lần bị thương sau cùng, từ giã vũ khí!
Những ngày dài lang thang trong thành phố... Bắt đầu những ngày khốn đốn áo cơm, bắt đầu những ngày những bữa ăn rau mắm... Và lại tiếng khóc sơ sinh, rồi lại tiếng khóc sơ sinh... Mái tóc xanh óng mượt ngày nào bắt đầu còi cọc, đôi má hóp, hố mắt trũng sâu, hai bàn tay xương đã cụt ngủn những móng dài, lược gương son phấn xếp xó từ lâu. Con chim trắng nhỏ mang đôi cánh mùa đông đã trở thành con gà mái rũ rượi ướt mưa... Không phải sức tàn phá thô bạo của thời gian, mà chỉ là tấm lòng của một người mẹ với con, một người vợ với chồng. Tấm lòng đó, giữa lao đao cơm áo, còn cần gì má phấn môi son? Nhưng đêm đêm, trên cánh tay tôi vẫn là đôi vành tai mở rộng, lắng nghe và ngày ngày, trên khung bố góc phòng vẫn bàng bạc với thơ, là những tảng màu tươi rói.
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Khung cửa sổ nhìn ra bờ tường vàng bẩn nham nhở. Những nụ hoa mười giờ. Mái ngói nâu thẫm phía xa. Tàng cây trứng ca xanh mướt lấm tấm trái đỏ... Anh nhớ viết thư ngay cho mẹ con em khi đến được... Th. không dám dùng chữ nếu. Lẽ ra phải, nếu đến được mới hợp lý chứ. Nàng sợ. Nàng muốn khẳng định một điều: sẽ không thể có thất bại. Canh bạc tử sinh. Ván bài cuối. Trò chơi đen đỏ mà láng tẩy là sinh mệnh của chồng, an nguy của vợ con. Một canh bạc không được phép thua, không thể nào thua. Sau tháng 4-75, bao nhiêu canh bạc như thế đã bày ra, cho bao nhiêu gia đình. à bao nhiêu người đã thắng (thực sự thắng không?) Và bao nhiêu người đã thua? Cho dến ngày hôm nay, bước đi tàn nhẫn của l;ịch sử vẫn tiếp tục không ngừng! Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn xót xa tự hỏi, có thực sự cần thiết để chọn cho mình, cho vợ con một định mệnh đòi đoạn, chia tan như thế? Nửa vòng địa cầu, một đại dương dầy phản trắc, làm sao ngờ được giữa khoảng không gian và thời gian thăm thẳm đó, cái gì đã xẩy ra và sẽ xẩy ra ngày mai, ngày mốt, tuần sau, tháng tới? Tôi biết, sẽ chẳng còn cơ hội nào sống lái cái hạnh phúc tôi đã thực sự vùi sâu dưới lớp lớp địa tầng dĩ vãng. Tôi cũng biết thêm, sẽ đầy dẫy bất trắc tai ương cái hạnh phúc tôi bây giờ và mai sau. Kinh nghiệm này, tôi nghĩ, không ai bằng Du Tử Lê, cảm thụ tron vẹn hơn. Sự phân ly của tôi, của chúng ta, một phần nào, bắt nguồn từ hoàn cảnh bên ngoài. Sự phân ly của Du Tử Lê do bản chất nhậy cảm và tài hoa, đã khởi di từ bên trong. Có thể nói, mỗi mối tình là một cuộc phân ly. Mỗi rung động mới là một khởi đầu chi tan tác cũ:
bạn bảo van tim tôi bị hở
có lẽ. Nên dời mới lún sâu.
Đó là con đường, là số phận của thisĩ, của những bậc tài hoa. Còn tôi? Cớ sao không thoát được cuộc phân ly này?
Hạnh phúc tôi... Hạnh phúc tôi...
Du Tử Lê, ông ấy là ai? Sao định mệnh tôi cứ mãi gắn liền với những dòng thơ của ông ta? Nghe nói bây giờ đang ở tại Mỹ, ông mở quán cà phê. Nghe nói ông đang làm báo, và dĩ nhiên tiep tục làm thơ. Nghe nói đời sống ông đã có những đổi thay buồn thảm...
Tôi vẫn thầm mong một ngày nào, nếu có cơ duyên, sẽ được gặp ông.
Quận Cam, 1987,
Những ngày đầu tiên sống trên đất Mỹ, bơ vơ, lạc lõng, chưa biết phải an ở sinh sống như thế nào! Tháng tháng ngửa tay nhận những đồng tiền trợ cấp! Tủi nhục và buồn...Một người bạn làm báo tình cờ nhắc đến Du Tử Lê, tình cờ nói ông ấy cần người. lay out Lay out là công việc gì? Tôi hỏi. Người bạn giải thích sơ qua rồi kết luận: chỉ cần một chút khéo tay là OK. Để tôi giới thiệu... Tôi rất mừng. Thứ nhất, tránh được những ngày dài ăn không ngồi rồi, chờ cuối tháng lãnh tiền bố thí. Thứ hai công việc báo chí rất hợp với sở thích. Thứ ba điều mong ước từ nhiều năm qua đã có cơ duyên thành tựu. Như thế, qua người bạn, tôi đã gặp Du Tử Lê. Đã làm việc chung. Đã những sáng thức muộn. Đã cùng nhau bù khú, cà phê, thuốc lá dông dài đến xế chiều mới bắt tay vào việc. Đã những đêm thức trắng với giây bài lòng thòng còn ướt thuốc mà Du Tử Lê vừa chạy ra từ dàn computer. Đã những tháng mùa đông lạnh cóng, chiếc máy sưởi cá nhân không đủ hơi ấm cho căn phòng tiền thân là một garage, hoàn toàn thiếu mọi tiêu chuẩn bảo hộ. Đã khói thuốc mù mịt liên tu. Đã hamburger thay cơm nhiều bữa. Đã vất vả tăng trang khi có “mặt trận” mới. Đã mệt nhoài sụt trang khi thân chủ quảng cáo “nghỉ chơi.” Đã thấy làm báo ở hải ngoại, nếu không có một tấm lòng yêu mến tột cùng, người ta không thể nào đủ kiên nhẫn “ăn cơm nhà vác ngà voi” một cách bền bỉ bất tận như vậy được!
Sống gần Du Tử Lê, tôi có dịp hiểu thêm nhiều mặt khác của người thơ này. Nhậy cảm và chí tình với bạn bè. Đó là lý do khiến Du Tử Lê thường xuyên gây nên những trận bút chiến đã biến ông thành một người... đáng sợ! Sự thật tâm hồn ông như một sợi tơ mỏng, chỉ cần chạm nhẹ là đã rung. Dĩ nhiên, trong vô số những lần rung đó, có nhiều lần đúng, nhưng cũng không ít lần sai. Dù sai, dù đúng với Du Tử Lê, xong rồi là quên, là hết... Ngày mai, tuần sau, tháng sau, gặp nhau, lại cười...trừ. Lại bù khú cà phê thuốc lá. Và nếu cần lại đi chùa một cái quảng cáo. Rất trang trọng, rất đàng hoàng, rất tình nghĩa... Một điều nữa, tôicho là quan trọng nhất ở Du Tử Lê, đó là tấm lòng của ông với văn chương và chữ nghĩa. Chưa bao giờ tôi nghe Du Tử Lê chê bai, phê phán một đồng nghiệp nào, dù đó là những người đi trước, cùng thời, đi sau. Khám phá ra một tài năng mới, ông mừng như chính mình đã thành công. Một thi sĩ ngày nay đã thành danh, có kể cho tôi nghe về trường hợp của bản thân anh: Ngày còn ở đảo, anh có gửi cho Du Tử Lê một số thơ. Những bài thơ đó được đăng rất trang trọng, kèm theo báo biếu và thư riêng khích lệ hết lòng.
Đó là một trong những động cơ lớn giúp anh thêm tự tin khi chọn thi ca như một nghiệp dĩ. Tấm lòng đó, không chỉ với vị thi sĩ kia, mà còn với rất nhiều người khác.
Hết lòng với bạn bè, thủy chung với văn chương..., nhưng còn tình yêu, chất xúc tác, lực đẩy, cái sườn của thơ ông thì sao? Theo chủ quan tôi, tình yêu, với thơ, ở Du Tử Lê, là một. Đó là hai mặt hỗ tương tạo thành nhân cách thơ Du Tử Lê:
ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi là cánh cửa mở trăm năm
chờ em tìm tới: -cài then lại
chỉ rõ: - này đây, nhé chỗ nằm.
Tôi là cánh cửa mở trăm năm. Mở hoài. Mở cho tình yêu đầu, mở cho tình yêu cuối, cuối? Chắc chắn, với Du Tử Lê, không bao giờ có trong tình yêu, và không bao giờ không có tình yêu, nên hạnh phúc thường đến vội vàng, để rồi ra đi cũng vội vàng không kém. Hạnh phúc ra đi, thi sĩ chết lặng:
tay tôi lạnh muôn đời không ấm nữa
môi cũng khô vì mãi gọi tên người
dòng sông cũ đã đôi bờ suôi, ngược
chỉ ngôi mồ là mãi của riêng tôi...
......
ngồi đây tôi ngó đời tôi héo
từng cánh hoàng lan đã tả tơi.
Từ tình yêu, bởi tình yêu, do tình yêu, Du Tử Lê đã bao lần sống chết vì nó, rơi xuống đáy cùng của khổ đau và nhục nhã cũng vì nó:
ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi đui mù như con kiến hôi
quẩn quanh miệng chén đời trây trúa
vì chẳng ai làm râu do tôi
Tôi có thể trích hàng trăm câu như thế. Hàng trăm câu thơ buốt xé ruột gan. Hàng trăm câu thơ khởi nguồn từ nỗi đau thương tột cùng của trái tim không ngừng bàng hoàng kinh ngạc trước tình yêu, không ngừng mê đắm vì tình yêu, không ngừng mù lòa bởi tình yêu:
tôi muốn cất ngôi nhà trong trí nhớ
để muôn đời suy tụng một dung nhan
Chúa linh hiển trên bàn tay than củi
bão giông em xin cứu một linh hồn.
Cái giá Du Tử Lê đã trả để nẩy sinh được những vần thơ có sức tác động mãnh liệt vào tâm can của người đọc là cái giá khá đắt với một số người, nhất là với những nhà đạo đức hay những kẻ tưởng rằng mình là người... đao đức. Riêng với cá nhân tôi thì xuyên qua tất cả mọi chuyện, bao giờ, lúc nào tôi cũng vẫn thấy ở Du Tử Lê một trái tim, một tài hoa hiếmqúy. Trái tim để rung động, và tài hoa để biến rung động thành thơ. Tôi chư từng biết một người nào coi trọng, nâng niu, sống chết với tình yêu đến độ coi thường cả bản thân mình, hệ lụy mình, ném tung cả cuộc đời mấy mươi năm vào đắm say đến độ tan hoang như Du Tử Lê! Giữa một xã hội mà tình yêu được “cân đong, đo đếm” hết sức chi li, điều đó không đáng để chúng ta ngưỡng mộ sao? Và nhất là từ điều đó, thi ca Việt Nam có thêm những hạt trân châu qúy báu, không đáng cúi đầu cảm ơn sao?
đời muôn cửa tôi chọn về địa ngục
thiên đàng em bỏ lại đã hoang tàn
ai nắng, gió trên cảnh đời kẻ đó
mà tôi ngồi điếng lặng giữa tro than.
Cho nên, cái giá Du Tử Lê đã trả đắt lắm với cuộc đời, với lề thói dung tục thường tình; nhưng xứng đáng vô cùng với thi ca, với chữ nghĩa. Vầng trăng chỉ tỏa sáng khi mọc giữa lòng đêm. Thác ghềng chỉ hùng vĩ khi đổ xuống từ vách núi cheo leo...
Du Tử Lê đắm say cùng tình yêu, trân trọng cùng chữ nghĩa..., nhưng trên hết, vượt cao, vượt xa, vượt lên, ngạo nghễ, là tấm lòng của ông với mẹ.
Mẹ, người đàn bà tám mươi lăm năm làm người, tám mươi lăm năm xuôi ngược lầm than, tám mươi lăm năm chỉ thờ chồng, nuôi con, miếng ngon không ăn, mảnh vải đẹp không mặc. Mẹ, người đàn bà đã cố làm cho mình xấu đi, như một vũ khí tự vệ trước bao nhiêu cám dỗ để thủy cung với người chồng quá cố, lúc tuổi xuân còn phơi phới. Mẹ, người đàn bà đã can trường sống non một thế kỷ, để chứng kiến những đứacon lần lượt ra đi theo chồng, về bên kia thế giới, trong bối cảnh đầy khổ lụy của một đất nước tan hoang vì chiến tranh, chủ nghĩa. Mẹ, người đàn bà nhất định không chịu vào Nam, nhất định đòi ở lại với mồ mả chồng con không người hương khói. Mẹ, người đàn bà dù đã vươt nửa vòng địa cầu, đi trên thảm êm, xem phim bộ Hồng Kông, uống sữa tươi như chớp, ngồi xe luớt êm trên xa lộ... vẫn không chịu tin rằng mình đã ra ngoài đất nước. Vẫn những khuya tỉnh dậy, cứ băn khoan một điều: cửa nẻo đã cài then cẩn thận? Kẻo trộm sẽ đột nhập lấy gạo, lấy cơm! Mẹ, tiếng gọi đơn sơ, mộc mạc, trần trụi nhưng dung chứa cả trời đất, vũ trụ, dựng lên thật rõ nét, hình ảnh một người mẹ Việt Nam điển hình nhất, cái hình ảnh không ai trong chúng ta, đã chưa từng gặp, đâu đó, đầy rẫy trên quê hương, trong những cuốn sách tập đọc lớp Năm, và có thể trong mỗi mái nhà... Tôi vẫn còn nhớ, như mới hôm qua, tâm trạng của tôi khi lần đầu tiên, được đọc Trường Khúc Mẹ Về Biển Đông, mà chính tôi là người lay out trên tờ Tay Phải. Đó là một buổi tối, sau gày bà cụ thân sinh của Du Tử Lê qua đời độ một tuần. Trước dàn máy computer, với đôi vai so, chiếc lưng còng, nhưng ngón tay run run, ông đã làm một mạch trên ngàn câu thơ - gần năm chục trang in - khóc mẹ. Bài thơ làm xong, ông in ra và đưa cho tôi. Cũng như ông, tôi đã đọc một cạch từ câu đầu đến câu cuối. Đọc say sưa như nuốt từng chữ, từng lời. Sự xúc động trong tôi cứ tăng dần, tăng dần...
Rất hiếm hoi trong đời, tôi được sống cái cảm giác bàng hoàng kinh ngạc như thế, trước một tác phẩm văn chương. Thật kỳ diệu! Khác hẳn loại ngôn ngữ Du Tử Lê vẫn xử dụng từ trước đến nay, ngôn ngữ trong Trường Khúc Mẹ Về Biển Đông là một thức ngọn ngữ rất trần trụi, rất mộc mạc, thứ ngôn ngữ Nói chúng ta xử dụng hàng ngày. Nhưng chính vì thế đã tạo cho người đọc một hấp lực lạ lùng. Nó làm người đọc rung động đến từng sợi thần kinh nhỏ nhất. Nó như máu huyết của một người vừa trúng thương, trào ra, tươi rói! Có thể tôi đã quá chủ quan. Có thể do hoàn cảnh riêng, tôi bất hạnh thiếu đi một tấm lòng từ mẫu khi vừa lên sáu. Có thể do tình thân và sự gần gụi, đã khiến sự thẩm định của tôi có phần lệch lạc. Nhưng cho đến bây giờ, khi tác phẩm đã được in ra thành sách, đọc lại, cảm giác của tôi, với bài thơ, vẫn là cái cảm giác cũ: bàng hoàng, kinh ngạc! Một người nào đó đã viết rằng, tất cả những bài thơ khóc mẹ, của bất cứ dân tộc nào, của bất cứa tác giả lớn bé nào, dù vụng dại, vẫn là những bài thơ đáng trân quý, nâng niu. Tôi hoàn toàn đồng ý nhận xét đó. Những bài thơ khóc mẹ, dù dở, vẫn đáng trân quý, nâng niu. Còn những bài thơ khóc mẹ mà hay thì sao? Ngôn ngữ Việt Nam còn từ nào trân trọng hơn để tán dương? Không cần phải ngoa ngôn, tôi dám quả quyết, Trường Khúc Mẹ Về Biển Đông là một trong những bài thơ khóc mẹ hay nhất trong kho tàng văn chương Việt Nam.
Tôi sẽ không trích dẫn một câu nào trong Trường Khúc này, ở đây, bởi vì muốn thưởng thức trọn vẹn bài thơ, người đọc phải đọc toàn bài, phải để cho mạch thơ dẫn dắt. Bài thơ là một tổng thể, một khối kết hợp chặt chẽ, một tiếng thét bi thương dội âm không đứt. Từng câu, từng chữ quyện vào nhau, nâng đỡ nhau, đưa đẩy nhau đẫn người đọc đi dần đến đỉnh chóp của rung động.
Chỉ cần một bài thơ như thế, cũng đủ để Du Tử Lê xóa sạch mọi lỗi lầm của ông nếu có, với đời, với người.
Kinh nghiệm của chúng ta, khi đọc một tập thơ, hay thậm chí một bài thơ, thường phải đọc làm nhiều lần, có khi rất nhiều lần. Đọc thơ vốn khó. Tìm thấy những bài thơ hay càng khó. Nhớ được những bài thơ hoặc vài câu thơ hay lại càng khó gấp bội. Tôi đã từng đọc rất nhiều thơ của rất nhiều thi sĩ, xuất hiện cùng khắp trên mặt báo chí trong nước và hải ngoại, hoặc trong các tuyển tập đã xuất bản. Một số không nhiều những bài thơ hay còn đọng mãi trong tôi. Ngược lại, công bình mà nhận xét, một số khá lớn khác tuy không thuộc loại dở, cấu trúc tứ thơ, hình ảnh, chũ dùng, âm điệu..., tất cả đều trung bình. Thế mà lạ quá, cho đến bây giờ vẫn không có cách nào tôi nhớ nổi, dù chỉ một câu. Tại sao? Tôi nghĩ rằng, thơ ca chỉ có thể đi vào lòng người khi nó thực sự phát xuất từ một tấm lòng, từ những xúc động thật. Thiếu hai yếu tố này, thơ chỉ còn là những hình nhân bằng giấy bồi, vô cảm, vô hồn. Đó là những hạt kim cương bằng thủy tinhcũng lóe sáng, nhưng giả! Thơ Du Tử Lê tập nào tôi cũng đọc một mạch từ bài đầu đến bài cuối. Đọc và nhớ. Có khi dai dẳng đến hai mươi năm vẫn chẳng thể quên. Có phải bởi Du Tử Lê đã làm thơ bằng chính máu lệ mình?
Anh Du Tử Lê,
Đây không phải là một bài phê bình văn học. Lãnh vực này hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Tôi không có khả năng và kiến thức để làm công việc đó. Dĩ nhiên, bài viết này chỉ là những ý nghĩ rời, hoàn toàn có tính cách chủ quan. Cái chủ quan rất hạn hẹp của một người yêu mến thơ ca, đã tìm được cho mình niềm hoan lạc khi tiếp xúc với một tác phẩm, không dừng được, phải viết ra. Vì vậy, ở đây, sẽ không có những phân tích rạch ròi về cấu trúc của thể thơ, bài thơ, nỗ lực làm mới chữ nghĩa, sự tìm tòi công phu, cái ma lực của từ ngữ, cách chấm câu, ngắt đoạn tạo thêm hiệu năng cho hơi thở của thơ...Mà, hẳn anh, chắc cũng chả bao giờ nghĩ đến; hoặc cố gắng muốn làm thế. Tôi có cảm tưởng mỗi bài thơ của anh là một phần thịt xương anh, máu lệ anh. Mỗi bài thơ là một xúc động thật, khỏi nguồn từ những đau thương, hoan lạc, nhục nhằn, khốc liệt anh đã từng nếm trải... Do đó thơ anh không là một nỗ lực, bởi chính kinh nghiệm của anh đối với cuộc đời, tình yêu, tình người, tình máu mủ, đã là một nỗ lực tuyệt vời rồi. Những nỗ lực đó, cộng với tài hoa cũng thừa là một chất liệu để bật thành tuyệt phẩm; đâu cần mượn chi cái hình thức tân kỳ, câu kéo lạ lẫm, chữ, nghĩa ghê gớm. Dù rằng đầy rẫy trong thơ anh, tôi đã bắt gập nhan nhản cái tân kỳ, cái mới lạ, cái chức năng ghê gớm của chữ nghĩa.
theo gió buồn nong chật mắt nâu
Cai chữ Nong của anh đủ khiến nhiều người chết giấc chứ chẳng chơi! Và nữa:
đôi khi ký ức ta như sáp
bậc lụn còn rung tiếng gọi khuya
nhớ ai mùi tóc thơm hương tối
những bậc thang lên cõi biệt. Lìa
Bộ mấy câu thơ này không đủ để gợi trong đầu người đọc chút hình ảnh sao? Không đủ để những tên cầm cọ như tôi đưa lên thành tranh sao? Đó là tôi chỉ “bốc đại” một đoạn trong vô số những đoạn thơ của anh mà không cần chọn lựa.
Mới chiều qua, quanh bàn nhậu, khi đề cập đến thơ anh, một nhà văn đã bằng những lời rất chân thật, thố lộ: “Tôi cũng làm thơ khá nhiều, những khi đọc xong tập thơ Du Tử Lê gửi tặng, tôi đã không ngần ngại xé bỏ tất cả.” Anh cười, tiếp: “Ít ra mình cũng còn đủ liêm sỉ để xấu hổ chứ, phải không?”
Thiết tưởng, không có lời nhận xét nào về một tài năng cụ thể, rõ ràng hơn.
Anh Du Tử Lê,
Thời gian tôi biết anh không lâu, nhưng có lẽ cũng đủ để anh hiểu, tôi vốn là đứa nóng nẩy, phổi bò. Thích, nói thích. Yêu, nói yêu. Và dĩ nhiên, ghét, nói ghét. Thậm chí, ghét quá, có khi còn thượng cẳng chân, hạ cẳng tay như đã từng...! Cho nên những điều tôi viết, chắc chắn sẽ gây ra nhiều ngộ nhận trong số những người không thích anh. Những người đã ghét thì “ghét từ con dán ghét đi.” Chắc chắn sẽ có nhiều cái nhún vai, nhiều cái cười khẩy khinh mạn, “bạn bè chúng nó đánh bóng nhau ấy mà!” Tôi nghĩ rằng, gần ba thập niên làm thơ, tên tuổi anh, nội lực anh cũng đã quá đủ để bảo chứng cho tác phẩm, cần gì phải nhờ ai đánh bóng. Và tôi, cũng không đủ rộng lòng đến độ phải đánh bóng cho ai; cũng không hèn và bất tài đến độ phải mượn một tí ánh sáng của một định tinh để le lói với đời! Ô hô! Chuyện này đã có nhiều vị độc quyền rồi. Tôi không dại gì cầm nhầm để mất hết nhân cách! Tóm lại, tôi hoàn toàn độc lập trong suy nghĩ, trong yêu ghét khen chê.
yêu ai cứ bảo là yêu
ghét ai cứ bảo là ghét
(Phùng Quán)
Đó là phương châm mà suốt cuộc đời, tôi cố gắng để nói theo. Nhưng cũng chả sao, rồi ra, tôi tin họ sẽ hiểu tôi. Hiểu rằng lòng tôi cả đời, chỉ mong ở với chữ nghĩa một cách đàng hoàng, như lời một nhà văn lão thành thường nhắn nhủ. Văn chương, thời nào cũng thế, cũng dị ứng với sự hẹp hòi, với định kiến chủ quan, với lòng ganh ghét hẹp hòi. Văn chương đâu phải chỉ tồn tại một tháng, một năm, năm năm, mười năm... Nó phải là cái bất tri tam bách dư niên hậu... Tôi không biết rồi ba trăm năm sau anh có còn tồn tại hay chăng... Nhưng ngộ nhỡ... anh lỡ tồn tại thì chắc chắn cái còn lại là thơ anh, chứ chẳng phải cái ông Du Tử Lê mần báo xuất chiêu đánh đỡ giữa chốn giang hồ chánh tà mù mịt; cái ông Du Tử Lê năm thê bảy thiếp, con rơi, con rớt tùm lum; cái ông Du Tử Lê lao đao ngất ngư, tả tơi, thân bại danh liệt vì ở chỗ nhân gian không thể hiểu nó hành hạ tra tấn triền miên.
Và nếu chức năng của văn chương, thi ca, nghệ thuật... là đưa con người đến cái chân, cái toàn, cái thiện, và đẩy con người đến gần nhau, xóa tan những tỵ hiềm nhỏ mọn giữa cá nhân với cá nhân, thì ít nhất qua thơ anh, đã có một người nhận ra điều đó. Một người từng bảo “trông thấy mặt nó là tôi mất vui,” đã tình cờ trong một tiệm sách, cầm tập thơ anh lên, tò mò đọc chơi, để rồi không dừng được, phải đọc... bằng hết.
Cũng người đó, nửa khuya gọi tôi, rủ rê nhau vào quán nhậu, sau vài chai, đã gật gù nói về thơ anh. Ông ta phát hiện ra một điều rằng, cuối cùng sẽ chẳng còn gì đáng kể trên cõi đời này ngoài cái... tuyệt diệu của văn chương. Ông ta còn nói thêm, nếu chỉ sống thuần bằng bản năng, mà không sinh nở được gì hết thì đó là đời sống của một loài sinh vật hạ đẳng! Nhưng nếu từ bản năng, hắn tích lũy, thai nghén, chắt lọc, để khổ nhục sinh thành ra văn chương, thơ ca, nghệ thuật... dâng hiến cho đời thì việc làm đó là của những người tử tế.
Mong sao, mỗi chúng ta sẽ chẳng bao giờ quên được điều giản dị mà ông bạn tôi đã nhắc đi nhắc lại năm lần bẩy lượt: sự xấu rồi sẽ bị triệt tiêu nhưng điều tử tế sẽ tồn tại mãi mãi...
KHÁNH TRƯỜNG
(Trích: Du Tử Lê: Tác Giả và Tác Phẩm, tập 1, Đời, xuất bản, 1992.)
Nguyễn Tường Linh - Du Tử Lê và thơ Du Tử Lê trong cảm nghĩ của tôi
Cuộc đời, dù hiếm hoi, cũng thường bao gồm những chuỗi tình cờ đáng yêu mà mọi người trong chúng ta ai cũng có lần gặp gỡ, chia tay dù chỉ để luyến tiếc hay lãng quên. Đối với tôi, được gặp gỡ và sống chung với anh Du Tử Lê vài ngày dưới một mái nhà, quả là một trong những mối tình cờ đáng yêu nhất của đời sống, vốn có quá nhiều cái “đáng ghét” của tôi.
Trở về nhà sau cuộc đi săn cuối tuần với gia đình ở một nơi khá hẻo lánh, với sự mệt mỏi khác thường và những nỗi buồn vu vơ, những suy nghĩ nửa vời... tôi được Út (cậu bé đang ở chung với tôi) cho hay “nhà mình hôm nay có hai người khách lạ.” “Ai vậy?” “Em không biết, nhưng hình như đó là nhà thơ Du Tử Lê và nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm.” “Vậy hả.” Tôi trả lời ơ hờ vì cơn sốt đang dâng lên trong người tôi và cả trong trái tim tôi. Trong cuộc sống của tôi -tôi nhớ đến Freud, đến cảm giác thuần vật chất đã đưa ông lên đỉnh cao danh vọng và ngậm ngùi với những giọt nước mắt cô đơn, đầy cảm tính của loài thú không biết sử dụng ngôn ngữ của loài người để nói lên dù chỉ vài chữ..., chẳng hạn “xin tha thứ.” Và như thế, tôi đã mang nỗi day dứt đó vào giấc ngủ thật nồng ấm: 39 độ C trong cơn sốt.
Dù sống chung dưới mái nhà trong cương vị chủ khách, tôi vẫn tránh gặp mặt những người khách trọ của tôi, dù tôi biết họ đã tới từ những nơi chốn “nhân gian không thể hiểu”, hay những nơi chốn chỉ có “tình yêu và trời mưa tháng sáu”, lý do: tôi muốn chạy trốn chính mình. Ước mơ thầm kín của tôi là được sống hoàn toàn cho nghệ thuật. Nhưng cái giá phải trả cho ước mơ đó làm tôi chùn bước. Nợ gia đình, học vấn, sự nghiệp, lý tưởng... đã “thực dân” miếng đất” nghệ thuật trong hồn tôi và tư bản hóa thân phận của tôi, trên đơn vị tiền bạc. Dù vẫn làm thơ, viết truyện trong một vài phút rảnh rỗi hay ngay cả lúc cắt đồ, giao đồ, kiểm đồ, đếm tiền hay ngồi trong lớp học. Tôi có cảm tưởng mình chỉ làm được nghệ thuật những lúc đang ở trong tù mà được thả ra ngoài để làm vệ sinh cá nhân. Vì thế sống ray rứt giữa hai sự lựa chọn đó: nghệ thuật và:
Hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay
Tôi buồn như phố cũ như tay
Bàn chân từng ngón ngưng không thở
Lạc mất đường đi - tạnh dấu bày.”
Chúa đã rời khỏi trần gian hiu quạnh này gần 2000 năm. Phật còn ra đi sớm hơn nữa. Nhưng nếu cả thế giới ngừng một giây phút nào đó thật yên lặng, chỉ có những lời vang vọng trong thánh đường, những lời tụng niệm trong cửa Phật. Nhân gian sẽ nghe được lời mặc khải của đấng Cứu Rỗi “Chúa ở cùng con.” Hay chúng sinh sẽ nghe tự lòng mình lời nói của Đấng Từ Bi “Phật tại tâm.” Và hòa bình, hạnh phúc ở đâu nhỉ? Nó sẽ là từ chốn “Nhân gian không thể hiểu.” đến cư ngụ ở chốn “Nhân gian vừa mới hiểu.”
Ngồi bên cạnh anh Du Tử Lê trong đêm đó, lần đầu tiên tôi thấy mình nhỏ nhoi, hèn nhát. Các bạn ngồi chung bàn đều là sinh viên, những người hoạt động văn hóa, xã hội với câu chuyện nghề nghiệp, học vấn thường xảy ra với tuổi trẻ hải ngoại. Tôi đã lấy hết can đảm với chính mình để tự giới thiệu với anh Lê, mình là người đang sống chung với anh ấy dưới một mái nhà (anh Mùa Xuân Như Ý không đề cập với tôi khi gửi anh Lê đến ở và vì tôi cố ý tránh mặt). Ví như một cái mụt nhọt vừa vỡ tung sau thời gian mung mủ, ví như một đứa con hoang trở về nhà trong Thánh Kinh hay tệ hơn trong tác phẩm “Hoàng Tử Bé” của S.Exupery, tôi chấp nhận mở rộng hồn mình ra (cho chính tôi) một cách trọn vẹn, để viết tặng anh Du Tử Lê bốn câu thơ cay đắng nhất tôi đã làm, an ủi nhất khi nhớ đến, trên con đường đi qua trần gian, mà anh Du Tử Lê đã có một nghĩa cử đáng kính khi đọc trước khán giả bài thơ tôi muốn chỉ để dành riêng tặng cho anh và cho riêng những ước mơ thường vụn vỡ trước khi tôi mơ ước.
“Lên non quẫy mộng tặng đời
Mộng oằn vai gánh chẳng lời than van
Thế nhưng nhân thế phũ phàng
Đưa tay đập mộng điêu tàn người ơi...
Bên cạnh những khuôn mặt thân quen, nhiều khuôn mặt vừa biết, có cả vóc dáng thiên thần trong góc nhỏ riêng tôi, lần đầu tiên tôi suy nghĩ đến một định lý đảo “con người càng nhỏ càng vĩ đại.” Và dù rất ốm, tôi cũng vẫn muốn hơn anh Du Tử Lê trong ý nghĩ hạnh phúc là chia xẻ thịt da cho kẻ khác.
Tối hôm ấy, tôi đã quên đi bao nhiêu chuyện tôi muốn làm, nên làm, phải làm, quên đi tất cả dù là những chuyện tôi đang cố tập quên, một đời sống vật chất, tôi chọn cái sau với lời tự dối, sau khi giàu, sau khi thành công trong đời mình, sẽ quay về sống với nghệ thuật cũng đâu có muộn. Tôi lầm và nhờ gặp nhà thơ Du Tử Lê tới mới biết cái lầm của mình: chạy trốn chính mình là một điều dại dột, nếu không muốn nói là điều dại dột nhất trên đời.
Đêm tham dự buổi ra mắt tập thơ của anh Du Tử Lê và băng nhạc của anh Hoàng Thanh Tâm, tôi chỉ đi vì lý do duy nhất: được nhìn thấy sinh hoạt văn nghệ tại Melbourne. Nhưng chính bầu không khí yêu thương, cởi mở, gặp những bạn bè cũ, lối tổ chức và những người điều khiển chương trình đã hội nhập hoàn toàn thay vì hội nhập vừa phải. Dáng gầy của anh Du Tử Lê gợi lên nỗi xót xa trong tâm hồn nhậy cảm của tôi để nhớ đến một câu thơ của ai đó:
“Tôi là con chim
Đến từ xứ lạ
Ngứa cổ hát chơi...”
Phải con chim chỉ cất tiếng hát vì nó có tiếng hót chứ không phải vì có một người nào đó đang lắng tai nghe nó hót. Thi sĩ cũng vậy, họ làm thơ vì muốn mượn ngôn ngữ của trần gian để nói lên những lời thì thầm, nhỏ nhẹ nhất mà họ cảm nhận được trong chính tâm hồn họ, không phải để được lắng nghe, thông cảm mà, trước hết là để tự thông cảm và tự tâm sự với tâm sự của mình. Ai bảo rằng thế giới hiện tại có hơn ba tỷ người, ai bảo rằng dù khoa học có tiến tới đâu cũng sẽ không vói được vì sao xa nhất trong vũ trụ. Có ai bảo rằng ngôn ngữ là mầm tội ác của kiếp nhân sinh? Chỉ riêng thi sĩ họ đã lựa chọn một chỗ đứng riêng biệt ở nhân gian, ba tỷ người mà hồn vẫn cảm thấy quạnh hiu, cô đơn tuyệt đối. Chỗ đứng mà nhân gian có thể nhìn thấy nhưng “không thể nào hiểu được.” Và những vì tinh tú trên trời đã ở trong lòng thi sĩ khi những nhà phi hành vũ trụ vẫn hoài mong đặt chân đến “ta muốn bán sao đi để tặng người” (1), ngôn ngữ đó, lời thì thầm đó phải chăng là mầm mống của tội ác, hay chỉ là những tiếng vọng dễ thương dù lạnh buốt lòng người nhưng vẫn có khả năng tẩy xóa phần nào những hôi hám, bẩn thỉu của trần gian này bằng “những giọt mưa tháng sáu”.
Đêm hôm ấy, tôi đã trải hồn mình ra một cách không e thẹn, làm dáng để được nghe bản nhạc mà tôi thích “Tháng sáu trời mưa” và ru hồn mình trong lời thơ của anh Du Tử Lê.
Mối tình, tôi đã quên: một con người... Ngay cả lời trách móc nhỏ nhẹ “quên sinh nhật em rồi hả?” tôi cũng chẳng còn nhớ khi vừa thoáng qua tai. Tình yêu, sự chung thủy... có thể nào... ngay cả hạnh phúc, chỉ trong nghệ thuật, còn tất cả đều là giả dối.
“Trên tay Chúa dấu đinh ngài bị đóng
Cuối đời tôi than củi đã thành tro
Em chẻ nhỏ khối tình tôi lỡ gửi
Nhóm nổi không một ngọn lửa oan cừu.”
Sự thật vẫn là sự thật, tôi say đêm đó, ở một chỗ mà tôi muốn mình sẽ không bao giờ say dù dưới mắt bất cứ một kẻ nào. Say thơ, say nhạc, say rượu và trên hết những cái say đó, tôi bỗng thèm say “đời”. Lý tưởng hả? Sự nghiệp hả? Phú quý vinh hoa hả? Chỉ có ở chỗ “nhân gian không thể nào hiểu được.” Chỉ còn lại mình tôi lẻ loi, hèn nhát, nhưng làm cao, anh hùng mà khí đoản... Tôi đã nhìn trọn vẹn chính tôi trong bốn câu thơ của anh Du Tử Lê:
“Tọa thiền mỗi tối tâm chao đảo
Trí quẩn hồn quanh - những ngổn ngang
Người về Thiên Trúc ta luân lạc
Ngay giữa trần gian tựa cõi âm.”
Khi trở về nhà tối hôm đó, tôi đã gặp anh Du Tử Lê và Hoàng Thanh Tâm để “tỏ tình” bằng những ngôn ngữ của những kẻ sống ở nơi “nhân gian không thể hiểu được.” Và, thở bằng hơi thở của những “giọt mưa tháng sáu.” Hạnh phúc thật tầm thường và đôi khi rất bình thường trong tầm tay với, và thế nhân đôi lúc chỉ thu gọn trong tâm hồn của một vài tâm hồn tri kỷ. Tôi có mơ không đêm nay:
“Tôi trở lại nhìn khóm hồng đã héo
Hỏi này cây bông giấy có thương đời
Sương với gió biết còn ai thăm hỏi
Tôi xong rồi một chiếc lá rơi.”
(Thơ Du Tử Lê)
Trọn ngày thứ bảy tôi đi chơi vu vơ với anh Du Tử Lê với lời yêu cầu thật ngắn “đưa anh đi chỗ nào thật vắng - bãi biển hay bờ sông chẳng hạn.” Gió. Sóng biển. Những con chim hải âu thật dễ thương phải chăng cũng chưa đủ sức giữ chân những kẻ luôn luôn có dáng điệu của một người “sắp đi xa” -nhưng luôn luôn mong ước hạnh phúc sẽ ở lại những nơi chốn họ đã đi qua. Với những con người họ đã gặp: bạn lẫn thù, thân lẫn sơ, gặp trên đường phố hay trong nhà thờ. Họ mơ ước gì hơn là được chứa đầy buồn khổ, không những chỉ của nhân gian, mà của cả địa ngục trong hành trang hôm nay và cho tất cả đời sau:
“Tôi tầm gửi trên nỗi sầu nhân thế
Trái cây nào em hái được không vui
Giây tội lỗi quấn quanh cành địa ngục
Thăm thẳm em, đầy nỗi niềm tôi.”
(Thơ Du Tử Lê)
Giọt đắng của cà phê, khói cay của thuốc lá và những hình tượng di động chung quanh hai pho tượng. Sóng biển đang đùa bỡn, trên những bến bờ đầy dấu chân người đi qua, dấu chân của những kẻ tội đồ. Gió biển đang gào thét, thay cho tiếng nói nhân gian vào hư vô. Tội nghiệp cho sóng biển trẻ con, tội nghiệp cho gió biển già nua và, càng tội nghiệp hơn nữa cho những pho tượng người trong một giây phút nào đó đã quên đi tuổi tác của mình, thân vĩnh viễn bị nhốt trong không gian, hồn nhiên thu trôi trên đôi cánh thời gian: “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu.” Nhưng phải chăng ở chính nơi chốn đó, sự cảm thông đã trở thành hơi thở thứ hai của buồng phổi nhân gian?
“Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Tôi biết người mang một nỗi buồn
Biết ta cuối kiếp tim còn lạnh
Cùng nỗi sầu bay đầy hư không.”
Một trong những điểm vĩ đại nhất của nghệ sĩ là họ luôn luôn sống thành thật với chính mình, thành thật đến nỗi thế nhân đôi lúc cho là họ lập dị, viễn mơ, nhưng phải chăng một trong những sự dại khờ nhất của thế nhân là cố gắng để trở thành một kẻ khác. Phải chăng “vong thân” là một hiện tượng di truyền của con người, từ tính bắt chước của loài khỉ thủy tổ? Nếu đúng như vậy, sau một vài mẩu đối thoại thật ngắn với anh Du Tử Lê, tôi nhìn thấy con người mình còn mang một tính “khỉ”. Bắt chước thiên hạ đi học để kiếm bằng cấp, để kiếm job thơm, kiếm nhà cao cửa rộng, bắt chước thiên hạ mở hãng may để làm giàu bằng sự bóc lột. Bắt chước thiên hạ “cày” hai ba “job” để tự lừa dối lòng mình. Có tiền là có thể có được hạnh phúc, dù đã biết từ lâu, sự lạc lõng của tâm hồn không thể bù đắp bằng những tiện nghi vật chất phù phiếm. Sau những năm tháng lận đận bên đời, sau một vài lần bị phụ bạc bên tình, và cảm thấy lý tưởng chỉ như những vì sao dù rất cần thiết để điểm tô bầu trời nhưng con người sẽ không bao giờ với tới, tôi đã quyết định bẻ bút thơ để trở về với thân phận ngậm ngùi của một kẻ cố quên đi “linh hồn” để được sống một cách bình thường hay ngay cả tầm thường. Lâu rồi đời mình cũng qua. Vậy mà gặp anh Du Tử Lê, quyết định của tôi lung lay cội rễ. Nhìn sư hy sinh vĩ đại của anh đã dành cho nghệ thuật: 23 tác phẩm gần 30 năm cầm bút không mệt mỏi, tôi cảm thấy kính phục và ngưỡng mộ Du Tử Lê. Không phải chỉ một ngày, nhờ một tác phẩm mà đã trở thành một Du Tử Lê nổi bật trong giòng sông văn nghệ hôm nay. Du Tử Lê ba chữ được kết tinh bằng mồ hôi, tim óc, nước mắt và có thể cả máu nữa. Ba mươi năm cầm bút để viết lên những điều “nhân gian không thể hiểu” sống ở một nơi “nhân gian không thể hiểu”, nhưng chính cuộc sống và con người của anh Du Tử Lê đã mở cho tôi một chân trời khác. Một nơi chốn khác, ở đó, thế nhân dù không “hiểu” nhau vẫn có thể “cảm” nhau, ở đó, hạnh phúc được cảm nhận bằng con tim chứ không phải khối óc, ở đó, tình yêu sẽ trở thành một thứ có thể không “hiểu” được nhưng vẫn có thể “cảm” được.
Ngày chủ nhật, anh Du Tử Lê và tôi cùng anh Quỳnh Du đi tìm thứ hạnh phúc lang thang trên những con đường đã dẫn đưa chúng tôi tới Phillip Island. Gió lạnh và những cơn mưa thỉnh thoảng bay ngang qua đã giúp cho những điếu thuốc trong xe, những ly cà phê trong quán ấm hơn, nồng nàn hơn lúc nào hết. Nếu những con thú lạ của Úc châu đã làm cho anh Du Tử Lê ngạc nhiên thì tình yêu thương súc vật của anh đã làm cho tôi càng ngạc nhiên hơn nữa. Ngồi trong xe thẩy một vài miếng khoai tây chiên cho đàn chim hải âu, đến thật gần những con Chim Cánh Cụt thật dễ thương, tôi biết trong đầu anh có cả những câu thơ vừa làm để tặng chúng. Đi thật sâu vào lòng người, đào thật sâu tâm hồn mình và hội nhập với thiên nhiên để nâng mơ ước lên những dẫy ngân hà, vùi xuống biển những hận thù nhân thế, gieo rắc yêu thương, góp nhặt niềm tin... là ý nghĩa của hai chữ thi sĩ, những kẻ là gạch nối của cuộc đối thoại giữa thượng đế và loài người, giữa người và người, giữa khổ đau và hạnh phúc, giữa tiếng vọng thê lương vang lên từ địa ngục và những lời ca thánh thoát phát xuất tự thiên đàng.
“Thi sĩ có lối thơ mặc khải.” (2)
Tất cả rồi cũng chỉ là kỷ niệm nhưng những kỷ niệm tôi đã chia xẻ với anh Du Tử Lê sau gần một tuần gặp gỡ sẽ ở lại mãi trong tôi, vì tôi linh cảm nó sẽ có ảnh hưởng lớn lao, lâu dài trong suốt phần đời còn lại của tôi. Từ nhỏ, tôi đã thích nhìn trời để ngắm sao, từ lúc biết yêu tôi đã thấy trăng sao hiện diện lấp lánh trong đôi mắt người tình. Nhưng trong những chuyến vượt biên tôi đã học nhìn sao để định hướng cho con tầu và tôi đã khám phá ra rằng: trăng sao không phải chỉ làm đẹp bầu trời, nó còn có những ích lợi khác nữa. Lý tưởng cũng vậy không phải chỉ là một hào quang để ngắm, mà còn là một nơi chốn để tới, hạnh phúc trên con đường đi tới lý tưởng là hạnh phúc của những kẻ “đang đi”, chứ không nhất thiết phải là hạnh phúc của những kẻ “đã tới”. Lý tưởng cũng như những vì sao, không ai với tới được, nhưng bạn hãy ngước nhìn chúng đi để biết là nhờ chúng mà bầu trời, mà cuộc đời trở nên thật dễ thương. Và bạn ơi, giữa những vì sao trên bầu trời gói gọn qua khung cửa sổ của phòng tôi đêm nay. Tôi đã nhìn thấy được một vì sao thật lạ, nhưng cũng thật gần gũi: vì sao Du Tử Lê.
Melbourne, Australia
11 oct., 1989
Phùng Nhân - Du Tử Lê, con gọng vó và tiếng thơ thảng thốt giữa nhân gian.
Trong phạm trù văn học, hình như nhà thơ nào cũng sống trong nỗi day dứt của riêng mình. Một chiếc lá vàng, một con chim non lìa tổ đều làm cho nhà thơ rung động. Sự rung động đó thường biểu lộ qua tác phẩm, và tác phẩm đó đôi khi vượt ra ngoài khỏi cuộc sống. Vì sao? Vì tư tưởng thi sĩ luôn dệt giấc mộng cho đời, cho người và cho thế hệ. Tuy nhiên mỗi tác phẩm đều tự nó khoác chiếc áo về đời sống của thời gian. Thế Lữ thì khoác chiếc áo “Hổ nhớ rừng”, Lưu Trọng Lư khoác áo “Mùa thu”. Còn Hàn Mặc Tử thì khoác chiếc áo “Về Thôn Vỹ Dạ”. Du Tử lê hôm nay lại khoác chiếc áo “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu”. Tại sao thế? Nhà thơ Du Tử Lê có mang mặc cảm đời sống chăng? Hay là ông đã đi và đã sống một kiếp người. Ông đã đi từ cơn binh lửa, ông đã đi trên lượn sóng bạc đầu. Vậy mà ônh vẫn chưa hiểu hết dân gian. Hôm nay ông dừng chân lấy gương soi mặt, thấy râu tóc đã bơ phờ. Ông bật kêu thảng thốt... nhân gian... Nhân gian làm sao hiểu hết...!
Bởi nhân gian là một cái gì kỳ bí. Mọi sinh vật kể cả con người đều có nỗi riêng tư, mà khoa học không thể chứng minh được thì thi sĩ là cái gì? Chỉ là một niềm đau thầm kín từ kim cho tới cổ! Và trong niềm đau đó, thi sĩ đã tự mình mở lối đi riêng. Du Tử Lê đã dẫn hồn thơ của ông đi trong hệ lụy, đi trong nghịch cảnh rạn dày. Nhưng ông không nao núng, ông thanh thoát tự tại, nhà thơ mặc dù có đôi lúc thấy hồn thơ dường như kiệt lực. Để rồi sau đó đứng dậy ngang tàng, cá tánh của hồn thơ của riêng ông trước sau vẫn vậy. Chúng ta thử lật trang đầu tác phẩm “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu” thử xem:
“Em tóc ngắn với tình yêu thánh hóa
Hãy tin tôi sông núi đợi em về
Nắng mưa rồi cũng sẽ khoác tay đi
Ta ở lại dìu nhau về cõi tận.”
(Trích bài Hựu Ca Một)
Hoàn cảnh nào mà thi sĩ thoát ra lời đó? Có phải chăng nhân gian quá rộng, mà đã có lắm hoàn cảnh con người không có chỗ dung thân. Như vậy thì thi sĩ đã tiên tri trước những điều hệ lụy. Về đâu? Sao không về lại mái ấm gia đình? Mà lại về cõi tận? Cõi tận là cõi nào? Có bình yên không? Có thù hận nhau không? Chắc cõi đó hạnh phúv đề huề mà chúng ta thường mơ ước, và niềm mơ ước ấy đã nhen nhúm từ thời Nghêu Thuấn. Thi sĩ viễn mơ, nếu không viễn mơ vào thực tại ông ao ước con người hãy trở về với bản ngã lương tri. Bởi bản ngã con người cho dù tóc đen hay tóc trắng, cũng chỉ là một. Bản ngã đó có thể bị phá hủy đi do một ý thức hệ nào. Rồi có lúc nó sẽ được phục sinh. Vì con người không thể thù hận ghét bỏ nhau, mà thi sĩ là một đặc trưnh của một Thông điệp Hòa bình. Thi sĩ không bao giờ cổ võ chiến tranh, không bao giờ có bàn tay vấy máu. Và thi sĩ luôn luôn khát vọng. Những cái khát vọng của Du Tử Lê thường vọng về từ đáy vực. Chúng ta hãy đọc tiếp:
...
Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Tôi có người hồ như vết thương
Có đêm ngó xuống bàn tay lạnh
Và chỗ em ngồi đã bỏ không
...
Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Tôi biết người mang một nỗi buồn
Biết ta cuối kiếp tim còn lạnh
Cùng nỗi sầu bay đầy hư không
...
Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
Tôi xin người sớm phục sinh tôi
Mà thường người đời không thấy, không bắt gặp. Mà ta chỉ thấy nó phản ảnh bàng bạc trong tác phẩm u tình. Cho dù đó là tình yêu, nhưng thánh hóa. Một thứ tình yêu đã gạt ra nhục dục. Hãy nghe Du Tử Lê nói với người yêu:
“Này em tôi có khu vườn
Có cây trái đắng có cồn cát khô
Này em tôi có nấm mồ
Đêm che dấu lệ ngày thồ đau đi
Này em tôi có ngõ về
Nắng mưa suốt kiếp còn tê vết người.”
(Trích bài Còn Tê Vết Người).
Ôi thi sĩ đối với tình yêu luôn cao thượng. Trong tình yêu của ông, Du Tử Lê hình như đã khẳng định trước kiếp người. Dương gian đôi ngả... Tâm hồn của ông Lê đang mang nặng nỗi niềm. Với người yêu ư?.. Không biết. Vì nó mung lung quá, nó chập chùng ảo ảnh như cõi hư vô. Từ xưa cho tới nay đã có người nào từ tạ người yêu bằng những lời nói đó chưa? Cũng chưa! Hay là thi sĩ đang gọi hồn thơ để cùng theo mình vào đáy huyệt. Nấm mộ nào nhốt nổi ngọn thủy triều? Xót xa quá! Tứ thơ của Du Tử Lê nhẹ nhàng, bàng bạc như tiếng gáy của con cu cườm trên đọt ngọn cây sao bên ngôi Đình làng cổ kính, làm người nghe ngây ngất phải kéo dài thêm điệu hát ru con, vươn dài tay ra để ôm nỗi buồn vô cớ. Có ai không trạnh lòng khi nghe tiếng cu gáy trong một buổi trưa hè, có thể khi nghe xong, chảy nước mắt vì khó cầm lòng. Sự mủi lòng bắt đầu dấy lên từ tiềm thức. Thơ Du Tử Lê là một sự mẫm cảm ngân dài, là thú allergie thân phận:
“Về trong hình tượng ra đi
Sống trong tâm tưởng chết khi chào đời
Ai mua? Ta bán luôn trời
Bán mây vô tận ở ngoài nhân gian
Bán mưa chảy đúng hai hàng
Bán răng khôn rụng mà lòng chưa khôn
Bán đêm sương xuống buồn buồn
Bán tâm chay tịnh núi sông trùng trùng”.
(Trích bài Thơ Ở Đường Phạm Ngũ Lão).
Người thi sĩ từ cổ chí kim chẳng thấy ai mua danh bán phận bao giờ, mà chỉ lo bán trăng gió, nắng mưa, bán tâm chay tịnh. Ôi... thi sĩ. Tâm của người là tâm của thơ, là tâm bất tận, là tiếng khóc của nhân gian, là giọt mưa chảy đúng hai hàng! Hạt mưa ở đâu mà kỳ diệu vậy? Chỉ có hai hàng thôi sao! Giọt mưa đó chắc đời người ai cũng có. Trong đời ta giọt mưa đó chảy rất thường. Nhất là trong những tháng ngày văn học lưu vong. Ôi! giọt mưa hai hàng nhỏ trên gối lẻ, nhỏ đầm mảnh khăn tang. Nhỏ ướt tóc đầu xanh vô tội, nhỏ dầm dề trên cơn nắng cháy biển đông. Nhỏ trong giờ thứ hai mươi lăm trong định mệnh, nhỏ trong suốt căn phần của một kiếp thuyền nhân. Còn cái răng khôn! Răng nào khôn? Răng nào dại? Có chứ! Răng khôn nó mọc đúng lúc tuổi già nhá nhem trong bóng tối, nó mọc trong lúc ham hiu nhất của đời người. Vậy mà lòng không khôn! Ôi... buồn quá. Thơ của ông Du Tử Lê đã vượt thoát lên trên cảm xúc mất rồi. Nó trôi trong tuổi già, và nó chìm trong tuổi trẻ. Nó ngộ với cảnh sống của cuộc đời, nó thúc hối ta tự dọn mình. Nó lâng lâng nhưng không choáng ngợp. Nó gõ cửa tâm hồn để xin được đi vào, vào hồn của chúng ta đã mở lúc nào không hay.
...
Trí nhớ tôi là ngôi nhà nằm ven sông Đáy
Ngôi nhà có rất nhiều cửa sổ.
Có cánh cửa ngó xuống bước chân ngược suôi của mẹ tôi
Trên lộ trình Hà Nội-Phủ Lý
Những đoạn đường bị đắp mô
Những đêm bạn hàng phải ngủ trọ
Tiếng mọc chê câu vào ban đêm
Tiếng “cắc bùm” bắn đi trong niềm tang chế
Mẹ tôi bưng mặt
(Trích bài Khúc Thứ Hai, Những Cánh Cửa Sổ, Hồi Chuông Buổi Sáng)
Dân tộc ta đã bị cắc bùm trong niềm tang chế kéo dài hơn trăm năm. Lâu lắm rồi làm sao còn hình dung ra hết niềm tang chế. Niều đau ấy thét rồi nó cũng chai lì trong cảnh ngộ. Nhưng đối với thi sĩ nó mưng mủ âm thầm, nó chờ cơn bộc phát. Đâu phải đợi đến ngày tắm máu của Tết Mậu Thân năm 68. Đâu phải đợi khi pháo dập kín trên đại lộ Kinh Hoàng mà niềm đau đã căng dài trên thế hệ. Thi sĩ sáng tạo thơ, nó rất khác nhà văn viết có luận đề. Vì vậy thơ hiện về trong bất chợt, có khi đang ăn, đang ngủ. Nó dựng đầu thức dậy, nếu không nghe theo còn ngủ nướng thì thơ lại cuốn gói ra đi hết phương năn nỉ. Vì vậy thi sĩ thường nuôi dưỡng nàng thơ hết sức ân cần, có như vậy thơ mới có hồn, thơ mới nhả nhạc. Còn người mẹ ở trong tác phẩm này của riêng tác giả hay một bà mẹ tượng trưng. Dù cho bà mẹ ở dưới hình thức nào đi nữa thì chính ông Du Tử Lê đã vẽ ra mẹ hết sức mủi lòng, làm sao chúng ta không liên tưởng đến những bà mẹ Gio Linh, La Vang, Quảng Trị. Mẹ Việt Nam đã điệu quang thúng gánh gồng vượt đèo Hải Vân vào Nam tìm đất Hứa. Rồi mẹ đi lần xuống tới đất mũi Cà Mâu để trồng khoai sắn nuôi con. Mẹ thương con, mẹ không muốn cho con mình đói khổ. Nhưng bom đạn và hận thù của ý thức hệ chủ nghĩa đã săn đuổi con mẹ đến bước đường cùng! Con mẹ phải trầm mình dưới đáy biển Đông, lội đi trên sóng dữ. Để rồi hôm nay đứng bên bờ đại dương vuốt mặt hình tưởng lại gương mặt mẹ hiền. Nhớ về ngôi nhà của một thuở thiếu thời nằm ven sông Đáy, và những đoạn đường đã đắp mô. Nhà thơ Du Tử Lê đã đưa người đọc đi về hoài niệm, ngược thời gian dài dằng dặc, đôi lúc tưởng rất gần. Tưởng đâu mới hôm qua, hoặc hôm nay! Có phải thơ Du Tử Lê là tiếng than trong cơn hoạn nạn, là đang ngóng mắt về phương Nam. Phương Nam ôi phương Nam thi sĩ thắp đuốc vọng về. Càng đọc thơ ông, chúng ta càng thấy rõ thân phận của mình.
Có đôi lúc lòng cũng nguôi gió bão
Mặc môi cười chảy máu giữa chiêm bao
Hơn mười bốn năm nay vết thương chưa lành, không bao giờ lành. Nhưng cũng được nguôi ngoai, vì cơn đau sẽ trở thành suốt kiếp. Bởi dân tộc Việt Nam, thuyền nhân Việt Nam đâu có ai tự bít lối quay về, và giữa tiếng cười môi chảy máu lúc chiêm bao có ai ngờ được. Nụ cười ấy, chiêm bao ấy, chúng ta muốn xua nó đi cũng không được. Bởi vì nó là một căn phần trong đời sống.
Đêm qua có kẻ cuồng điên khóc
Em bảo tôi: ồ sao trẻ con.
Người thi sĩ nếu không biết khóc thì sẽ không được làm bạn với nàng thơ. Và tiếng khóc của thi sĩ vô ưu như trẻ nít. Khóc mà chẳng biết mình khóc về chuyện gì. Nhân sinh quan chăng? Không phải! Vũ trụ quan chăng? Cũng không phải! Sự chết, già nua bệnh hoạn của kiếp người? Có lẽ! Mặc dầu người thi sĩ đã cảm nghiệm đến điều đó trong lúc sanh tiền. Nhưng họ khóc không phải vì sợ hãi, họ khóc khi thấy được một chiếc lá hồi sinh. Họ khóc vì sung sướng, khi thấy tổ kiến vàng tha mồi về đầy ổ để dự trữ cho mùa đông đến và Du Tử Lê khóc ngon lành không dấu mặt.
Tìm nhau gió hú rừng hiu quạnh
Ôi tấm lòng em như cẩm lai
Mùi thơm gỗ quý trầm sông núi
Ta đã vì em ở với đời.
Hơn nửa kiếp người, mà nhà thơ Du Tử Lê vẫn lê hồn đi trong cô quạnh, đi tìm tấm lòng đôn hậu và bóng nước như mùi gỗ cẩm lai. Đi tìm lại những hương trầm trên đất nước. Ông đi tìm những cái mà người khác không thể tìm. Bởi vì ông có hồn thơ lai láng. Gỗ cẩm lai hay gỗ trầm hương nó rất thật ở ngoài đời. Nhưng làm sao ta thấy nó ẩn dụ trong thơ, nếu tâm hồn ta chật hẹp.
Sông núi đã chối từ tên phản bội
Giống nòi ta thực sự ở bên kia
Lời thơ của Du Tử Lê có lúc sao mà quá thực, có lúc lại bồng bềnh, có lúc nhẹ nhàng như cánh chim bay. Nhưng tựu trung hồn thơ của ông đều hướng về thân phận. Ông không dùng sáo ngữ. Ông làm thơ như chính ông đang đối thoại với cuộc đời.
Suốt hai trăm hai mươi bốn trang thơ là hai trăm hai mươi bốn góc cạnh của cuộc đời, là hai trăm hai mươi bốn lượn sóng của thủy triều, có lúc dâng lên đầy ắp, có lúc vực xuống chỉ còn lại có ngấn nước ngậm chặt vào kè đá như một chứng tích bể dâu.
Hai trăm năm mươi bốn trang thơ không phải ít. Vậy mà không trùng lấp, nó mở cửa bay ra tản mạn khắp bốn phương. Nó không khó hiểu như Bùi Giáng. Nó không chắp tay sau đít đi luồn trong núi như Nguyễn Đức Sơn. Không hẳn vậy! Nó có đủ tất cả. Nó có cái rờn rợn như hư vô, như Hàn Mặc Tử. Nó cái kêu gọi thảm thiết lúc mất con, như Trần Tuấn Kiệt. Ôi... nó là tiếng kêu của con chiến mã Võ Đông Sơ cõng xác chủ tướng về với Bạch Thu Hà!
Tôi viết về Du Tử Lê với một đêm thao thức. Bởi tôi không ngủ được, khi đọc xong lại thấy ảnh tượng hiện xuống đầy phòng. Hình dáng của ông nhỏ thó, như con Gọng Vó lội ngược trong mùa mưa lũ. Nhưng thơ của ông thì bát ngát trải dài như Rừng Mắm Năm Căn. Thơ của ông đã gióng lên hồi chuông tâm thức, thơ của ông kêu gọi cả Chúa, cả Phật, cả Quan Âm cả Bí Tích xin phổ độ lấy chúng sanh. Hãy cứu vớt con người đang trầm mình trên biển khổ.
Sydney
tháng 10, 1989
PHÙNG NHÂN
Nguyên Sa - Cõi Thơ
Trí nhớ của tôi trong những ngày tháng này mơ hồ kinh khủng. Hồi đó, hồi dậy tâm lý học ở Saigòn, tôi vẫn nói với những thanh niên nam nữ theo học, là có hai loại bệnh quên. Có những người quên những kỷ niệm gần, nhưng lại nhớ rất rõ ràng những kỷ niệm thật xa xưa. Những người lớn tuổi quên ngay những sự việc mới xẩy ra ngày hôm qua, nhưng nhớ rõ từng chi tiết về những ngày thơ ấu. Loại người bị bệnh quên thứ nhì, ngược lại, hoài niệm bị xóa mờ, chỉ nhớ những gì mới xẩy ra. Với tôi, bệnh quên xẩy ra có ngày. Không thể nói dứt khoát ngày nắng hay ngày mưa, cuối mùa thu hay đầu mùa hạ. Có năm ngày mưa thì trí nhớ tôi tốt, những ngày mùa xuân mùa hạ, trí nhớ tôi rất được, khi thu sang, trời lạnh, trí nhớ mơ hồ. Thời điểm này, trời nắng ấm, sao trí nhớ tôi cũng bỗng nhiên mơ hồ qúa? Tôi muốn tìm lại những hoài niệm về Hoàng Thụy Châu, tôi tìm hoài không được. Tôi nhớ Hoàng Thụy Châu nay là Hoàng Dược Thảo, hồi đó là Huỳnh Laure Brigitte, hồi chưa lấy Du Tử Lê, tới nay tôi vẫn quen gọi là “cô Châu.” Tôi nhớ vậy đó, nhưng muốn tìm lại những hoài niệm hình ảnh, những hoài niệm của thị giác, muốn nhớ lại kiểu tóc Châu ngày đi học, màu áo của Châu ngày Châu và Lê tới tôi, sau lễ hôn nhân, tôi tìm hoài không được. Tôi sử dụng đủ thứ kỹ thuật gọi là kỹ thuật khêu gợi hoài niệm, từ những hoài niệm nổi lần tới hoài niệm chìm, từ những hoài niệm trong cùng một vùng thời gian tìm ra những hoài niệm muốn tìm thấy, từ những hoài niệm thính giác và khứu giác, rất mạnh nơi tôi, lần ra những hoài niệm thị giác và vị giác tôi yếu kém, vô ích. Hình ảnh Thụy Châu với Tay Trái, Tay Phải, hình ảnh tươi vui, rạng rỡ, hình ảnh Thụy Châu quay cuồng trong những buồn phiền, tưởng như những cơn điên, hình ảnh Thụy Châu ân cần, thân ái pha lẫn chút luyến nhớ xót xa một thời đã qua, những hình ảnh có cấp độ cao hơn làm thành những bức tường thành thật dầy ngăn cản tuyệt đối tôi và Thụy Châu thời Huỳnh Laure Brigitte. Hoài niệm về Du Tử Lê cũng là những kỷ niệm rời. Cách đây hai tháng, Nguyễn Mạnh Trinh gửi cho tôi một tờ Văn Học, trong đó có một bài về cuộc thi văn chương toàn quốc kỳ đó tôi có tham dự với tư cách giám khảo. Bài báo thật tuyệt vời, đánh thức dậy trong tôi những kỷ niệm mất hút, tưởng như vĩnh viễn tới mức không còn một nghi ngờ nào về hiện hữu của những sự việc đó. Tôi nhớ chấm thời kỳ đó, có Vũ hoàng Chương chủ tịch, có Thanh Tâm Tuyền, đọc bài báo tôi mới nhớ lại được rõ ràng những kỷ niệm về chị Mộng Tuyết, anh Hà Thượng Nhân. Tôi nhớ chiếc Vespa của Du Tử Lê ở Saigòn, bộ quân phục. Tôi nhớ tôi có cảm nghĩ nhưng không nhớ rõ vào thời điểm nào, đúng thế, tôi nhớ tôi có cảm tưởng Du Tử Lê mặc quân phục trông rất có nét. Tôi nhớ chiếc áo lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ của Du Tử Lê bay lồng lộng trong gió trên đồi Trại Một của Pendleton. Lê đứng đó, trong đêm, trong sương mù, những ánh đèn của những ngọn pha xe nhà binh lại gần rồi chìm xuống, như những chiếc phao mất khuất trong biển đêm, Lê đứng đó với Nguyễn Thừa Dzu, Trần Tam Tiệp, Trương Trọng Trác, Nguyên Sa. Tôi hoàn toàn không còn nhớ chúng tôi đã trò chuyện với nhau những gì những buổi chiều Pendleton, những buổi trưa, Du Tử Lê tới tôi ở Saigòn, những ngày vui khai trương Tay Trái, những buổi tới Lê rất “Em Xi” ở Lup. Lê giới thiệu Cao Đông Khánh ngâm “Trường Sa Hành,” giới thiệu Mai Thảo nói mấy lời mở đầu chương trình, giới thiệu Trần Duy Đức hát sáng tác mới nhất của Đức, giới thiệu Lê Uyên ca “Chiều Trên Phá Tám Giang.” Tôi nhớ, thỉnh thoảng có đêm ngồi với Lê thật lâu, thật riêng ở đó, ở Lup, chúng tôi đã nói với nhau về thật nhiều chuyện, có cả những kỷ niệm về dĩ vãng, những buồn phiền về cuộc sống mười phần chẳng như, về những dự án tương lai. Nhưng dĩ vãng nào đã réo gọi, buồn phiền nào đã làm thành ngậm ngùi, tương lai nào thoáng hiện trong đáy cốc, tôi không thể nhớ được. Cũng may, thơ Du Tử Lê giúp tôi tìm lại được thật nhiều mất mát.
cảm ơn
cảm ơn Pendleton
đã cho ta những buổi sáng đầy sương mù
như đôi mắt của người con gái yêu ta còn ở Saigòn...
Phải rồi, đôi mắt Thụy Châu có sương mù, có nụ cười ở tuốt phía sau màn sương mù đó. Chỉ khi màn sương mù đó được xé rách toang mới nhìn thấy được hồn nhiên, ân cần, lưu luyến của nụ cười tìm thấy.
cảm ơn
cảm ơn Pendleton
đã cho ta những chiếc quần áo
rộng như những chiếc bao bố
những chiếc áo đôi khi mặc vào khỏi cần quần nữa
hay những chiếc quần đôi khi mặc vào khỏi cần mặc áo
tuy nhiên
ta vẫn hân hoan và súng sính đi lại
có sao đâu
bởi với ta bây giờ chẳng còn chi quan trọng.
Phải rồi, áo lính Thủy Quân Lục Chiến phát ở Pendleton rộng thật. Trước Pendleton là đảo Guam, là trại Asan. Là những chuyến xe bus quân đội đưa người mới từ phi trường Guam về trại. Là chiếc máy phát thanh để kế bên người quân nhân Marine lái xe phóng lớn bản tin Đại Tướng Dương Văn Minh đã hạ lệnh cho toàn thể quân nhân buông súng. Những tiếng động cơ, tiếng máy phát thanh, tiếng khóc thút thít. Đến khi tiếng động cơ đã bỏ đi, tiếng máy phát thanh đã tắt hẳn, tiếng khóc tức tưởi không thể giữ được trong cổ họng vẫn bật vỡ ra. Trong nhà ăn. Dưới chiếc mền trùm kín đầu trên nền xi măng. Dưới gốc dừa trông ra biển, quay mặt về phía đông.
cảm ơn
cảm ơn Pendleton
đã cho ta những bữa cơm ngao ngán
......
đã cho ta những buổi chiều rét ngọt
những buổi chiều ta thấy hồn ta trên những đỉnh núi vây quanh
và tưởng có thể nhìn xa bốn phía
mặc dù ta chẳng nhìn thấy chi
ngoài chính chiếc bóng ta
và nghe được tiếng giầy mòn
khua trên đường về chỗ nằm hiu quạnh.
Tôi nhớ cái rét đó. Du Tử Lê gọi là rét ngọt. Tôi thấy kinh hoàng. Rét ở trên núi, trong lều vải hở lung tung, chăn càng đắp càng thấy nặng, không thấy ấm. Nhưng “những đỉnh núi vây quanh” hồi đó thì buồn thật. Nhìn ra, nhìn lên bốn bề chỉ thấy núi. Nhưng này Lê, bây giờ, sao cũng có những buổi chiều vẫn chỉ thấy hồn ta trên những đỉnh núi vây quanh, và tưởng có thể nhìn xa bốn phía, mặc dù ta chẳng nhìn thấy chi, ngoài chính chiếc bóng ta, và nghe được tiếng giầy mòn, khua trên đường về chỗ nằm hiu quạnh...
Hồi đó, những ngày tháng ở Paris với Đỗ Long Vân, với Hoàng Anh Tuấn, với Lê Trạch Lựu, Lê Trọng Việt, Trần Đình Hòa, Đỗ Hữu Khải, tôi nghĩ muốn hiểu được thấu đáo tác phẩm, nhất là tác phẩm của một nhà thơ, cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng cuộc đời tác giả. Những dấu mốc ngày tháng, những biến đổi của sự sống là hải đăng chiếu xuống biển tác phẩm. Cả bọn ngồi ở Flores, ở Aux Deux Magots, ở Julien, ở thư viện Saint Genevière đi thẳng vào những ngày tháng kháng chiến của Paul Eluard để hiểu thật rõ Liberté, đi tuốt tới những vùng trời mưa gió ở Brest cùng với Barbara của Prevert, đến tận ngôi mộ Vercos để lắng nghe “Niềm Im Lặng Của Biển Cả.”
Bây giờ thì tôi thấy sự việc không đơn giản như thế. Cũng có thể cuộc đời soi sáng cho tác phẩm, nhưng có thể chính tác phẩm mới cho thấy cuộc đời. Nhất là khi trí nhớ bỏ đi, cuộc đời đã bắt đầu bỏ đi, cuộc khởi hành lớn đã mơ hồ phía trước.
ngủ đi. Ngủ với biển trời
ngủ mười năm nữa hay ngồi dậy chơi
ngủ đi. Ngủ chớ ngậm ngùi
trái tim ta nát ba đời bởi em
ngủ đi. Tóc rụng chân thềm
tháng năm quên lãng. Buông rèm lìa xa
ngủ đi.Ta đã mù lòa
không trông thấy ảnh. Không sờ thấy đau
không cha mẹ. Không cửa nhà
Không con. Không vợ. Không chờ. Không mong
ngủ đi. Ủ giữ trong lòng
tuổi tên ta đã một lần ở em
nhận giùm ta lậy cuối cùng
trước khi khăn gói về sông nước người.
Bài thơ có tên là “Chuyết kinh thi.” Tôi không hiểu thật rõ cái tựa này. Nhưng tôi biết bài lục bát tới, một lục bát không Nguyễn Du, không Nguyễn Bính, không Huy Cận. Thế hệ chúng tôi đến với lục bát với câu hỏi lớn “làm sao khác với Nguyễn Du, làm sao khác với Nguyễn Bính, làm sao khác với Huy Cận?” Lục bát Du Tử Lê, như “Chuyết Kinh Thi,” Như “Đêm, Nhớ Trăng Saigòn,” Như “Cõi Tôi,” như những bài lục bát ở Úc Châu làm thành một lục bát khác. Một lục bát Du Tử Lê. Một lục bát khác Huy Cận. Một lục bát vượt Huy Cận. Vượt không có nghĩa là hơn. Thơ không có so sánh. Không có hơn kém. Vượt là khác. Là đẩy thơ đi tới. Là làm thơ thành thơ. Chuyết Kinh Thi cũng như hàng chục bài U, những bài Bồ Tát, những Lãm Ca, những tôn thờ Thánh Nữ cho tôi thấy rõ hơn năm năm ở Lup, những ngày tháng với Lê Uyên. Đúng thế, chính thơ đó cho tôi thấy rõ hơn cuộc đời người bạn, những chuyến đi qua sa mạc, những ngày tan tác trở về, những đêm dằn vặt, những tháng khắc khoải, những trời điên mê. Thơ cho tôi gặp cả những người bạn của bạn tôi. Những Bành Nho, những Đào Quý Châu, Những Từ Công Phụng, những Kiểm, những Tư Cóc, những Minh Dê, Hồng Trố. Thơ đưa tôi tới Melbourne, tóc Thúy, đêm nghe tây ban cầm với Quỳnh. Năm chữ đầy ắp Thụy Châu. Lục bát có Saigòn. Bảy chữ đưa tôi tới Khánh Trường, tới Vũ Huy Quang. Lục bát, bảy chữ, tám chữ, năm chữ tuyệt vời đưa tới tôi đủ thứ. Tới dĩ vãng Lê. Tới núi non. Tới biển khơi. Tới sa mạc. Tới cơn điên không dứt, tới dằn vặt khôn cùng. Tới cả những kỷ niệm chưa gặp, những tương lai mà sao nằm trong ký ức. Tôi thấy cả tôi:
khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ thịt xương e khó rã
hồn không đi sao trở lại quê nhà...
Tôi sửng sốt nhìn lại. Tôi ngạc nhiên hơn là ngạc nhiên. Tôi nhận ra Du Tử Lê là nhà thơ tôi có cơ may gặp gỡ nhiều nhất. Có những năm tôi gặp gỡ Vũ Hoàng Chương nhiều. Thời Hiện Đại gặp Đinh Hùng, Thái Thủy, Thanh Nam gần như mỗi ngày. Những ngày tháng báo Sống trang nhất của hoài niệm là tám cột Trần Dạ Từ. Có bằng hữu tôi có cơ may gặp gỡ thời những ngày tháng thập niên năm mươi lúc ở Pháp mới về. Có bằng hữu thật gần gũi những ngày chiến tranh rực lửa. Nguyễn Quốc Thái, Diễm Châu. Sau đó, xa cách. Tổ quốc trôi xa. Tuấn và Vân, thời tuổi trẻ. Nhưng Du Tử Lê thì tôi có cơ may gặp hơn một thời kỳ. Những năm năm mươi, nhà thơ còn đi dậy học, mới bước vào cuộc đời văn nghệ, bị đánh đấm tơi bời, Du Tử Lê đã tìm đến tôi. Những năm sáu mươi và bảy mươi, ngôi nhà ở đường Phan Thanh Giản thường hằng là nơi chúng tôi gặp nhau. Du Tử Lê là nhà xuất bản in thơ Nguyên Sa. Trại Pendleton đầu kiếp lưu vong chúng tôi đứng bên nhau. Tôi ngạc nhiên nhận ra chúng tôi gặp nhau lâu ghê, gặp nhau thật nhiều. Tôi càng ngạc nhiên, thích thú, người bạn thơ tôi có cơ may gặp gỡ nhiều vẫn tiếp tục làm thơ, vẫn cùng tôi rời bỏ tất cả. Trừ thơ. Thơ Lê dài hơi. Đa diện. Lục bát ra lục bát. Tám chữ ra tám chữ. Thất ngôn chất ngất những cơn say, những cơn điên, những bài hành. Năm chữ từ “Kẻ Từ Phương Đông Qua,” có chuyện kể đúng phong vị năm chữ. Tôi thích lắm những tám chữ dài và những tám chữ ngắn của Du Tử Lê. Dài như “Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển.” Như “Bài Nắng Mưa Thứ Nhất.” Ngắn như loạt đoản thi “Tam Thập Nhất,” bốn câu, ba câu tám chữ, một câu bảy, tám chữ đoản thi “Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu.”
Như “Ngựa Đã Tan Đàn”:
này trí nhớ đậu trên cành ký ức
tháng sáu về yên lặng bước chân quên
tình yêu cũng đậu trên cành gian dối
ở trong tôi, ôi ngựa đã tan đàn...
Như “Thơ Ở Đào Quý Châu”:
không ai chết hai lần tôi cũng thế
riêng mối sầu cư ngụ tới muôn năm
đời vốn ngắn dù bàn tay sáu ngón
tôi sống thừa từng phút héo ăn năn.
Như “Còn Ai Nhìn Tôi Nhỏ Máu Trong Thơ:
ôi chữ nghĩa trở về như khách lạ
vầng trăng xưa không có ngọn cờ
ngày em bỏ tôi, vào cõi khác
lấy ai nhìn tôi nhỏ máu trong thơ!
Như “Đáy Khuya”:
tôi trở lại đáy khuya ngồi với bóng
những chiếc bàn trật khấc nỗi cô đơn
em nên biết cuộc đời tôi đã hết
có thương nhau lo hộ nhúm xương tàn.
Như “Thơ Ở Saigòn”:
sông núi cũ rủ tôi về với đất
bốn mươi năm ngơ ngác làm người
trên thân xác đã mọc đầy móng vuốt
thì có gì sai đúng với ai đây?
Đúng thế. Có gì sai đúng với ai đây? Du Tử Lê đã tìm ra nó. Đã tìm ra nó ở bên ngoài những phán xét của nhân gian, bên ngoài luân lý, vô luân lý và cả phi luân lý. Đã tìm ra nó. Sự sống.Cũng như anh đã tìm ra trái tim cho thơ. Cho lục bát, cho bảy chữ, cho năm chữ, cho tám chữ. Thơ vượt băng lên. Vượt qua bình nguyên mô tả. Vút qua ngọn đồi so sánh. Trên những ngọn tạo hình. Vút luôn lên tới đó, tới chỗ chót vót nơi chữ không còn là chữ, không còn là dấu chỉ, chữ trở thành bắp thịt, thành hơi thở, thành tuần hoàn, thành hô hấp, thành cuộc đời, thành sự vật. Nơi đó, những chiếc bàn trật khấc nỗi cô đơn, bàn không phải là bàn, trật khấc không phải là trật khấc. Mỗi chữ phóng ra không còn là những con đường đưa tới ngoại giới mà trở thành thế giới. Du Tử Lê bằng những cố công, những kiên nhẫn, những chịu đựng, những thao thức, những dằn vặt suốt một đời người, đã tìm ra con đường kỳ lạ đó của thơ. Con đường đưa tới Cõi Thơ. Cõi Thơ, chỗ tới thần thánh của thơ ngàn đời. Cõi Thơ, chỗ không dễ gì ai tới, không dễ gì ai thấy.
Nguyên S. (*)
(Trích Du Tử Lê, Tác giả và Tác phẩm, tập I, Tạp chí Đời xuất bản, 1992, California, USA.)
(*) Theo bản gốc, khi ra khỏi bài viết, tác giả không ký “Nguyên Sa,” mà ký “Nguyên S.” Sắp chữ lại, chúng tôi tôn trọng.