Đi vào những chân trời mới lạ trong cõi thơ Nguyên Sa.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, nhiều thế hệ, bắt đầu từ thế hệ của những năm (19)50 tới hôm nay, số người làm thơ hoặc, yêu thích thơ Nguyên Sa, theo ghi nhận riêng của tôi, thời kỳ nào cũng là con số không nhỏ. Tới ngày hôm nay, những người yêu nhau, vẫn tìm đến thơ Nguyên Sa như một cõi giới mà họ thấy có nhiều hình bóng họ trong đó. Cũng tới hôm nay, dù đã trên nửa thế kỷ, kể từ ngày thi phẩm “Thơ Nguyên Sa” tập một, xuất bản lần thứ nhất, người ta thấy vẫn còn rất nhiều nhạc sĩ tìm đến với thơ của thi sĩ tài hoa này. Và, cũng không thiếu, những ca khúc phổ từ thơ Nguyên Sa, lập tức được quần chúng đón nhận một cách nồng nhiệt.
Cụ thể như ca khúc “Mai tôi đi,” thơ Nguyên Sa, nhạc Anh Bằng, được trình bày lần đầu tiên bởi hai tiếng hát Diễm Liên và Nguyên Khang, trong một băng video của trung tâm Asia, cách đây chưa lâu.
Riêng số người làm thơ, ở mỗi giai đoạn, đã bị ảnh hưởng thơ Nguyên Sa với một trong hai trường hợp sau đây:
1- Bắt chước, dựa vào với ít, nhiều đổi khác.
2- Cố gắng làm hay hơn, hoặc cố gắng tránh để không giống thơ Nguyên Sa, sau khi đã có một thời kỳ giống hay hơi giống.
Tôi nghĩ, nhận xét vừa nêu của tôi, không phải là một nhận xét bất cập. Bởi vì, thế giới thơ Nguyên Sa không chỉ mở ra một chân trời, với “Tuổi mười ba,” “Paris có gì lạ không em” hay “Áo lụa Hà Đông”…cho những rung động nhẹ nhàng của tuổi mới lớn. Bởi vì, thế giới thơ Nguyê Sa cũng không chỉ mở ra ở khía cạnh ưu tư, phản kháng hay nổi loạn. Hoặc thấy cuộc đời là cả một chuỗi dài phi lý, như bài “Lúc chết” là một thí dụ.
Mà, cõi giới thơ Nguyên Sa còn mở ra cho người đọc ông những chân trời ngôn ngữ, hình ảnh, với những kỹ thuật sử dụng nhuần nhuyễn tới tự nhiên những kỹ thuật có tên liên tưởng, nhân cách hóa, ẩn dụ, hoán dụ… nữa.
Điều này giải thích được phần nào, tại sao “Thơ Nguyên Sa” tập một, tới nay, vẫn còn là một món ăn tinh thần của nhiều người yêu thơ, sau hơn 10 lần tái bản. Để cụ thể hơn, tôi nghĩ, chúng ta thử đi vào những khía cạnh đặc thù của thơ Nguyên Sa. Bước đầu tiên, theo tôi, dễ nhận biết nhất là hình thức thơ Tự Do của Nguyên Sa.
Chúng ta đều biết, thơ tự do ra đời nhằm giải phóng những tình cảm, rung động của người làm thơ khởi sự câu thúc, bó buộc của luật Thơ Mới, dựa trên bằng trắc, âm vận.
Ở tây phương, trước khi thơ tự do ra đời, những người làm thơ bị trói buộc vào luật thơ bảy, tám, chín, mười…chân; với vần ở cuối câu. Thơ Đường của người Tàu hay Thơ Mới sau này của chúng ta thì thơ cũng buộc phải tuân thủ nhiều luật lệ khó khăn. Chưa kể, ngôn ngữ Việt Nam có thêm 5 dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) nên, Thơ Mới của chúng ta còn bị chi phối bởi luật bằng / trắc nữa. Nói tóm gọn, đó là niêm luật của thơ.
Thơ tự do trên căn bản không bị ràng buộc một cách cố định theo số chữ của các thể thơ. Nó cũng không bị trói buộc nhà thơ bằng luật bằng / trắc. Nhờ vậy, thơ Tự Do đã giúp người làm thơ dễ dàng đi tới nhiều chân trời mới lạ. Nó cũng mang lại cho người đọc nhiều cảm nhận phong phú, giầu có, bất ngờ.
Tuy nhiên, một số người làm thơ đã nhầm lẫn về mục đích hay, công dụng của thơ tự do. Họ quan niệm sự không bị giới hạn số chữ, không bị ràng buộc niêm luật, cho phép họ được ghi xuống trang giấy những dòng chữ, những hình ảnh mà, chính họ cũng không biết liệu nó có ý nghĩa gì? Hay tại sao? Từ những trường hợp này, thơ tự do bị một số người đọc cho là tối tăm. Bí hiểm. Nó như một cuộc thách đố chữ, nghĩa không lời giải đáp!
Tôi trộm nghĩ, bất cứ một phong trào văn chương mới nào ra đời, khởi đầu, cũng tựa một cuộc cách mạng xã hội hay chính trị. Ngoài phần tích cực, nó cũng mang trong nó cả những cực đoan, quá đà. Đưa tới nhiều nghi ngờ. Ngộ nhận.
Trường hợp Thơ mới, cũng vậy. Một số nhà phê bình văn học ghi nhận rằng, nếu phong trào Thơ Mới, không có những kiện tướng như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh vân vân…thì không ai có thể biết, bao giờ Thơ Mới mới được quần chúng tiếp nhận, như nó đã là.
Bước qua giai đoạn thơ Tự Do, cũng không khác. Cùng với một số tác giả đồng thời với mình, Nguyên Sa đã đem tới cho người đọc những bài thơ tự do tràn đầy sức thuyết phục, quyến rũ trên tạp chí Sáng Tạo như “Tiễn biệt,” “Di chúc,” “Tôi sẽ sang thăm em,” hoặc “Có phải em về đêm nay” v.v…
Có người đã ví, mỗi bài thơ tự do của Nguyên Sa ném ra, như một trận mưa rào trên vùng đất thơ Tự Do hạn hán. Có dễ ở những năm đầu của 20 năm thơ miền Nam, chưa có một nhà thơ nào xuất hiện mà lại được từ văn giới tới quần chúng đón nhận một cách hân hoan, nhiệt tình như thơ Nguyên Sa.
Như lời giới thiệu ngắn, tương đối đầy đủ, của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, trước khi ông cho đăng bài thơ “Nga” trên tờ Người Việt, tiền thân của tạp chí Sáng Tạo, thơ tự do của Nguyên Sa là những phát biểu mới lạ. Lần đầu thấy trong thơ Việt Nam. Tự thân thơ của ông có sức nổ, dội. Có khả năng gây chấn động tức thì người đọc:
“Sẽ có một buổi mai
“Mắt vẫn mở to
“Mà lòng không thỏa đáng
“Tôi nhổ neo:
“Tôi chỉ là người nhân ngãi của cuộc đời
“Sống bên nhau không bao giờ hôn thú.
“Tôi đến đây không ai mời
“Cũng mong rằng đi đừng ai giữ
“Có nhớ có thương
“Có tạc tượng hình bằng đá trắng, đồng đen
“Cũng đừng bày giữa những sân trường đại học
“Xin nhớ để giùm ở một góc công viên
“Để những đêm khya
“Rất khuya
“Tôi được nhìn mặt trăng soi nước
“Và ngắm những người yêu nhau tình tự…”
(Nguyên Sa, Di Chúc. Sđd.)
Đó là thơ tự do của Nguyên Sa. Thơ tự do hiểu theo nghĩa không bị câu thúc bởi số chữ cố định. Không bị ràng buộc bởi luật bằng trắc, hợp vần ngặt nghèo. Vậy mà, người đọc vẫn bị từ trường mạnh mẽ, khẩn cấp của bài thơ cuốn, hút bất ngờ. Dù cho đó không phải là một bài thơ sướt mướt tình ái. Bóng bẩy chữ, nghĩa. Cùng những hình ảnh quen thuộc (nhưng đã ruỗng mòn.) Cũng thật bất ngờ, như:
“Có phải em về đêm nay
“Để phá tan
“Những nụ cười thắt se sầu tủi
“Như anh vẫn cười mà đau đớn biết bao nhiêu
“Không biết đời người có đưa đến tin yêu
“Những ngón tay có đưa đến bàn tay
“Những mùa thu có gió heo may
“Hay ngày mai là bốn bề tuyết lạnh
(…)
“Em đừng trách anh đã quá âu lo đời người hiu quạnh
“Làm thế nào khi lòng mình nứt rạn cơ em
“Dù không muốn gục ngã trong đêm
“Nhưng đã bao lần đêm khuya
“Anh không biết làm thơ
“Hay đã chọn âm thanh làm độc dược
“Em đừng trách anh để lòng mình tủi cực
“Đến ngại ngùng dù nắng dù mưa
“Sao em không về
“Để dù nắng dù mưa
“Dù trong thời gian có sắc mầu của những thiên đường đổ vỡ
“Anh vẫn chùm chăn kín cổ
“Ngủ say mềm
(…)
“Có phải em sẽ về
“Dù bầu trời ẩm đục
“Hay bầu trời trang điểm bằng mây
“Anh sẽ chải tóc em bằng năm ngón tay
“Trong những chiều gió thổi…”
(Nguyên Sa, Có phải em về đêm nay. Sđd.)
Hoặc nữa:
“Tôi sẽ sang thăm em
“Để những ánh mắt mầu sao sáng tỏ
“Hay đôi mắt mầu thóc đang xay
“Mầu vàng khô pha lẫn sắc nâu gầy
“Để lệ trắng như gạo mềm rơi trên tay…
“Tôi sẽ sang thăm em
“Ngay ngày hôm nay
“Chờ ngày mai sẽ trễ
“Chúng mình sẽ xa nhau
“Chúng mình sẽ thù nhau
“Chúng mình sẽ nhìn nhau bằng đôi mắt người đàn bà có tuổi…”
(Nguyên Sa, Tôi sẽ sang thăm em. Sđd.)
Đó là thơ tự do của Nguyên Sa; không chỉ phá bỏ mọi câu thúc của niêm luật, câu, chữ… Mà thơ Nguyên Sa còn mang lại thi ca, cho đời sống những cách nhìn mới. Những cách nói khác.
Trước Nguyên Sa, thơ của chúng ta không có những câu như “Tôi đến đây không ai mời / Cũng mong rằng đi đừng ai giữ.” Trước Nguyên Sa, thơ của chúng ta cũng không ai nói “Anh không biết làm thơ / hay đã chọn âm thanh làm độc dược.” Trước Nguyên Sa, chúng ta càng khó tìm hơn nữa, những câu thơ như “… Hay đôi mắt mầu thóc đang xay / mầu vàng khô pha lẫn sắc nâu gầy / Đừng nhớ những ngày còn là lúa / Để lệ trắng như gạo mềm rơi trên tay…”
Những liên tưởng, ẩn dụ, hoán dụ… trong thơ Nguyên Sa đan, bện vào nhau chặt chẽ, mạnh mẽ, gắt gao thành khối, cuồn cuộn thành dòng… băng băng chảy qua mọi đèo vực hay, bình nguyên tâm hồn người thưởng ngoạn.
Nếu căn bản của văn chương là cách nói (style) thì, Nguyên Sa là một trong không nhiều thi sĩ VN hiện đại, dẫn đầu về cách nói khác vậy.
Du Tử Lê
(Còn tiếp)