Phương Tấn làm thơ rất sớm. Những bài thơ có tính triết lý, suy tư về vận người mệnh nước, có chút nổi loạn, đôi khi ma quái - đăng trên các tạp san văn học nghệ thuật uy tín khi anh mới 14, 15 tuổi… Phương Tấn viết những câu thơ già dặn về quê hương Đà Nẵng của anh khi mười bốn tuổi: “ Đà Nẵng bến chiều buông lạnh / Đò xuôi trở chuyến sang sông / Âm ba gợn mình lấp lánh / Trời ni đất nớ mênh mông / Trầm tư giáo đường ngủ gục / Giật mình khóc thét hồi chuông / thanh âm đổ dài bắt bóng / Bóng đời lóng lánh vô tâm…/ Cổ mộ, công viên vàng vọt / Chập chờn trăng dọi ma thiêng / Ghế đá là xương là cốt / Cỏ, hoa, liễu chết lặng phiền…”. ( Đà Nẵng trời ni đất nớ - 1960). Và những câu thơ với ngôn ngữ và hình ảnh lạ lùng, ma quái khi anh mới mười lăm tuổi: “Một giọt trăng chắt chiu trong kẽ lá / Một giọt sầu thơm lạ ở trong khuya.../ Lệ vây ta lửa đuốc lập lòe / Trăng ủ rũ dúi mình trong thân mộ / Mộ đỏ mộ xanh nhảy chồm lố nhố / Níu kéo thân ra ca hát véo von / Đêm bay lên xòe đôi mắt đen ngòm / Ta cởi dạ thả giữa bồn trăng huyết / Thân chẻ vụn giăng làm hoa diễm tuyệt / Kết hồn này bằng âm điệu sầu ma...” (Vĩnh biệt trăng, ôi một nàng thục nữ - 1961)...
Những câu thơ “đầu tay” của anh mãi sau này tôi mới được đọc trong tập “Thơ Phương Tấn - tuyển tập 1” anh gửi tặng tôi khi từ Mỹ về Việt Nam hồi tháng 5 / 2023 - cùng tập “Lung linh tình đầu” và “Lục bát Phương Tấn”. Tôi đã đọc thơ Phương Tấn trên các tạp chí văn học nghệ thuật từ giữa thập niên 1960. Nhưng tôi ấn tượng nhất khi đọc tập “Thơ tình của một thi sĩ Việt Nam trên đất Mỹ” (ấn hành ở Mỹ 1970 - tái bản tại Sài Gòn 1971). Tuy tựa là “ Thơ tình…” nhưng bàng bạc trong toàn tập thơ là hình ảnh quê hương thời chiến tranh loạn lạc với bao đau thương, mất mát cùng khát vọng hòa bình của giới trẻ miền Nam Việt Nam bấy giờ - trong đó có tôi. Đặc biệt trong bài thơ “Người nói chuyện với mộ bia” Phương Tấn làm năm 1969 ở Texas với ngôn từ và ý tưởng khá lạ: “Chút xương da xanh mướt / Liệu người qua nổi sông / ...Trời trống huơ trống hoác / Không diệt cũng không sinh / Gió dường như quíu lưỡi / Mây mỏng phận, bạc đầu / Đời buồn sâu bóng trượt / Hồn có mà như không”. Vài năm sau khi trở về Việt Nam, thơ Phương Tấn có biến chuyển rõ nét từ ý tưởng, ngôn ngữ đến hình ảnh. Đơn cử: bài “Chuyện trò cùng anh Kiến, chị Dơi và chú Muỗi”: “...Này anh Kiến, chị Dơi và chú Muỗi / Thịt ta thơm cứ cắn chút làm duyên / Xin đừng hỏi vì sao ta cùi cũi / Sao lòng ta quạnh vắng đến vô biên / Thơ ta giã, ướp cùng sương khói / Ướp xương da và máu ở hai miền /...Ta bẻ kiếm khi quanh thành lửa cháy / Khi cần lao mất cả ruộng vườn / Bom đạn đã nhiều hơn thóc lúa / Hận thù nhiều hơn cả tình thương...” (Biên Hòa, 1972). Cũng thời gian ở Biên Hòa, Phương Tấn viết bài “ Bước ra từ nhà thương điên Biên Hòa” khá thú vị: “Cung cúc giữa xó đời / Chờn vờn bóng ma trơi / Cười sao cười quá đỗi / Ta giỡn, kệ ta chơi ...” Đúng là Phương Tấn giỡn chơi thôi chứ nhà thơ quá tỉnh: “... Tự ta làm khán giả / Cùng sân khấu trống không / Phá lên cười ha hả / Tên lạc chợ trôi sông.../ Ta đấm ta ngã xuống / Hồn mắc nơi cành khô / ...Thượng đế treo toòng teng / Nhiễu nhương cười hô hố / Và thánh thần A men!...”
Thường những người lúc trẻ làm thơ hay thì càng lớn tuổi, thơ chững lại. Nhiều khi cố gắng quá chỉ có thể viết ra những câu thơ gượng gạo - không còn là thơ! Nhưng Phương Tấn rất dài hơi, vẫn giữ được phong độ suốt thời gian dài hơn nửa thế kỷ, thơ anh ngày càng sâu lắng - có thể nói là ngày càng hay. Đặc biệt càng về sau này, ngôn ngữ lục bát Phương Tấn vẫn mượt mà nhưng lắng đọng. Hãy đọc mấy câu lục bát Phương Tấn viết ở Paris năm 2012: “ ôi chao hồn xuống sông Seine / Ô hay chim chóc sà bên chợt cười / Ngày lên phố lạ theo người / Đưa tay hứng lấy bóng cười từ khi.../ Nắng Paris uớt chia ly / Lao xao lá cỏ ngày đi buồn buồn / Giọt thơ ai chạm mà buông / Chòng chành giữa cõi vô thường lạ chưa?” ( “Vô thường” - Paris, 2006 - 2012). Đặc biệt bài lục bát “ Oan khiên” gồm 7 đoản khúc, Phương Tấn đã “cô đặc” lại những dằn vặt, ẩn uất suốt bốn mươi mấy năm chưa thể có câu trả lời trong đoản khúc cuối :“ Hỏi ngày. Trời đất ngất ngư / Hỏi đêm. Biển động dường như sóng gầm / Hỏi người. Tưởng hỏi cõi âm / Hỏi mình. Cười ngất. Cười bầm ruột gan” (1975 -2022).
Tôi nhớ lại một thời gian dài sau 1975, những người viết có tên tuổi ở miền Nam trước kia “bị trói” hoặc không muốn viết trong sự gò bó. Cũng có thể nhiều người vẫn lặng lẽ viết và ...để đó. Không biết Phương Tấn có trong trường hợp này không. Nhưng có điều thú vị là, Phương Tấn được biết đến là một nhà thơ tên tuổi lại đứng ra tổ chức thực hiện; làm chủ biên, chủ bút các tập san võ thuật rất thành công! Anh tham gia trong ban chủ biên hai tạp chí “Nghiên cứu võ thuật”, “Tìm hiểu võ thuật” và là chủ bút hai tập san “Sổ tay võ thuật”, “Ngôi sao võ thuật”. Cũng qua các tập san võ thuật này, Phương Tấn đã liên kết được với nhiều võ sư nổi tiếng của các trường phái võ thuật - nhất là võ cổ truyền Việt Nam ở trong nước và các võ sư người Việt ở các nước có đông người Việt sinh sống như Pháp, Mỹ... Phương Tấn cũng là người đứng ra tổ chức rất thành công nhiều đại hội võ thuật cổ truyền Việt Nam với sự tham gia của nhiều võ sư Việt cùng các võ sư, võ sinh người nước ngoài về tụ hội nơi đất tổ. Một dấu son của võ cổ truyền Việt Nam do một nhà thơ tổ chức! Đặc biệt ấn phẩm “ hững người mở đường đưa võ Việt ra thế giới”( 2012 - tái bản 2014 ) bằng 3 thứ tiếng Việt - Anh - Pháp do Phương Tấn biên soạn rất công phu, ấn loát tuyệt đẹp đã gây được tiếng vang lớn trong giới võ thuật và những người yêu võ thuật nước nhà.
P.C.S.